
Dáng người nhỏ nhắn, Mẹ Têrêsa là một phụ nữ nghị lực phi thường, mà Mẹ thể hiện qua tình yêu tha nhân của Mẹ và can đảm gặp gỡ những người ở những nơi họ sinh sống, cả trong những khu ổ chuột và giữa sự tuyệt vọng nội tâm.
Sinh năm 1910 tại Skopje, một phần của Đế quốc Ottoman vào thời đó, Mẹ sớm nhận biết rằng Mẹ sống để phục vụ người nghèo và người kém may mắn. Mẹ Teresa đã thực hiện như vậy khi là một nữ tu Loreto, giáo dục các cô gái trẻ nghèo, điều mà khi đến lúc Mẹ nhận được “tiếng gọi thiên hướng.”
Sr. Therese Magdala, Thừa Sai Bác Ái:
“Thời điểm này đã đến, một lần nữa thoạt tiên vào năm 1946, nơi Mẹ thực sự bắt đầu cảm thấy Chúa Giêsu gọi Mẹ rời Loreto và để bắt đầu một công việc mới trong số những người nghèo ở Calcutta.”
Mẹ Teresa đã đi ngược lại trào lưu của nhiều dòng tu vào thời điểm đó, những người mong muốn rằng người ta đến với họ. Thay vào đó, với trái tim tôi tớ của mình, Mẹ đã đi ra ngoài với những người với ý định gặp họ ngay nơi họ ở.
Sr. Therese Magdala:
“Mẹ đã đi tìm kiếm những linh hồn, đến những nơi họ sống, những người bị bỏ rơi nhất, các khu ổ chuột. Đến với những gì mà Chúa Giêsu gọi là trong những địa điểm, bằng lời cầu nguyện của Mẹ, như những hố sâu đen tối và thực sự đi đến đó, thâm nhập vào đó và mang Người đến đó.”
Tuy nhiên, chăm sóc chu đáo tận tình của Mẹ đối với những người không chỉ giới hạn ở những người trên đường phố, mà còn đối với tất cả mọi người Mẹ đã tiếp xúc với họ suốt cả ngày. Mẹ quan niệm tất cả mọi người như một người có phẩm cách tối thượng, mặc dù tình trạng sức khỏe hiện tại của họ và khuyến khích những người khác cũng làm như vậy.
Sr. Therese Magdala:
“Đối với những người khác, Mẹ đã quá quen thuộc trên nhưng con phố, bạn có thấy người này, người mà gần gũi bạn không? Bạn có thấy người này bên cạnh bạn không, người mà có thể trong gia đình riêng của bạn, người hàng xóm của bạn, người trên đường phố, người mà bạn đi ngang qua vì những người đang có nhu cầu không? thực sự để mở mắt chúng ta chứng kiến thực tế của người khác.”
Mẹ Teresa nhấn mạnh rằng một người không phải là phân loại “vô gia cư” để giúp họ nhận thức rõ ràng họ được Thiên chúa yêu thương. Mẹ tin chắc điều này và thể hiện nó trong cuộc sống hàng ngày của Mẹ, khiến Mẹ đã đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1979.
Theo đúng nghĩa, đó là cuộc đời của Mẹ sẽ được công nhận vào ngày 4 tháng Chín do Đức Giáo hoàng ở Roma, khi ngài phong Mẹ là một vị thánh trong Giáo hội Công giáo La Mã.
Jos. Tú Nạc, NMS