CUỘC KHỔ NẠN ĐAU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU
Sách do Chân Phước Emmerich kể lại dựa vào hai ấn bản Anh ngữ (1) "The Life of Jesus Christ From The Visions of the Venerable Anne Catherine Emmerich" do Đức Ông Carl E. Schmoger, CSSR chọn lọc và biên soạn lại và do một "nữ tu Hoa Kỳ" chuyển dịch từ tiếng Đức sang tiếng Anh và (2) The Dolorous Passion of Our Lord Jesus Christ From The Visions of Anne Catherine Emmerich With a Preface By The Abbé De Cazales, do Tan Books And Publishers, Inc. xuất bản năm 1983 tại Hoa Kỳ.
Hội Thông Điệp Đức Mẹ, P.O. Box 32487, San Jose, CA 95152, USA hiệu đính dựa theo các bản dịch Việt ngữ của nhiều dịch giả ẩn danh. Chúng tôi chân thành cảm tạ qúy vị, và những thiếu sót hoặc sai lầm, nếu có trong ấn bản này, xin qúy vị thông cảm.
Chúng tôi chân thành cảm tạ qúy vị đã chuyển những thị kién của Chân Phước Emmerich trên đây từ Đức ngữ sang Anh Ngữ, và các nhà xuất bản đã cho phép chúng tôi dùng những ấn bản này để đối chiếu với bản tiếng Việt trong đó có Bà Mary Francis của Tan Books.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ Đức Cha Mai Thanh Lương, Giám Mục phụ tá Orange County, California, USA, đã ưu ái viết lời giới thiệu sách này đến qúy vị đồng hương tại nước ngoài và đồng bào trong nước.
Chúng tôi cũng cảm tạ Thày Phó Tế Trần Nhật, Texas, đã không quản ngại bận rộn trong việc phụng vụ nhưng đã vui lòng bỏ nhiều thì giờ qúy báu giúp đánh máy, sửa chữa và trình bày công phu, nghệ thuật ấn bản này.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho qúy vị và qúy quyến. Cũng xin qúy vị cầu nguyện cho qúy đồng hương đọc bản tiếng Việt này được ơn soi sáng nhận biết một Đấng Tạo Hóa là Cha Toàn Năng yêu thương tất cả con cái của Ngài, bất kể màu da, sắc tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
Trân trọng.
------------------------------------
CUỘC KHỔ NẠN ĐAU THƯƠNG CỦA ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ
Theo lời kể của Chân Phước Anna Caterina Emmerich
Bản dịch Việt ngữ do Hội Thông Điệp Đức Mẹ
P.O. Box 32487
San Jose, CA 95152
Hiệu đính và xuất bản
2004
THỊ KIẾN CUỘC KHỔ NẠN ĐAU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU THEO LỜI CHÂN PHƯỚC ANNA CATARINA EMMERICH
LỜI MỞ ĐẦU
CHÂN PHƯỚC ANNE CATHERINE EMMERICH
Chân Phước Emmerich sinh ngày 8 tháng Chín 1774, tại Flamske, gần Koesfeld, Westphalila, Tây Đức, và ngày 13-11-1803 được nhận làm nữ tu Dòng Augustin, trong tu viện Agnetenberg ở Dulmen (cũng ở Westphalia). Chị từ trần ngày 9 tháng Hai 1824. Tuy học vấn không nhiều, nhưng ngay từ nhỏ Chị đã được ơn hiểu biết tuyệt hảo và có thể hiểu phụng vụ Latinh ngay khi lần đầu tiên dự Lễ.
Trong những năm cuối đời, Chị không ăn uống được gì ngoài Mình Thánh Chúa và nước lạnh. Trong một thị kiến lạ lùng, Chị được cho biết là Chị được ơn xem thấy quá khứ, hiện tại và tương lai hơn bất cứ ai từ trước đến giờ trong lịch sử loài người.
Từ năm 1812 cho đến khi từ trần, Chị được mang các dấu thánh của Đức Kitô, kể cả một thập giá trên ngực và các vết thương trên đầu do mão gai. Tuy Chị Anne Catherine Emmerich phải nằm liệt giường trong những năm cuối đời, nhưng tang lễ của Chị lại đông người tham dự nhất từ trước đến lúc bấy giờ ở Dulmen.
Sứ vụ của Chị trong cuộc đời trần thế dường như để chịu đau khổ nhằm đền tội cho tính vô thần đã làm lu mờ "Thời Đại Khai Sáng" và thời kỳ chiến tranh của Napoléon; trong thời kỳ này Chị thấy tu viện Chị đang ở bị đóng cửa và nhà dòng bị Napoléon tịch thu.
Trong năm năm cuối cùng, các thị kiến và cảm nghiệm lạ lùng của Chị được ông Clemens Brentano, một thi sĩ, một văn bút lão luyện, ghi chép lại hằng ngày. Ông là bạn của Goethe và Gorres, và ông đã từ giã sự nghiệp sáng giá của mình để tận hiến cuộc đời còn lại cho công trình này. Biết bao ghi chép từng ngày của ông đã tạo ra nguồn tài liệu chưa từng có của một vị thần bí trong lịch sử.
THỊ KIẾN CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU chỉ là một phần trong các thị kiến được ghi chép lại về những đau khổ khủng khiếp của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại. Thị kiến này bao gồm Nỗi Thống Khổ trong Vườn Cây Dầu, Cuộc Bắt Bớ, Sự Tra Tấn và Đội Mão Gai, Các Phiên Tòa của Philatô, Con Đường Thập Giá, Việc Đóng Đinh, Từ Trần Trên Thập Giá và Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.
Năm 1892, rất lâu sau cái chết của Chị, hồ sơ phong thánh mới được giám mục Munster đệ trình. Nhờ đó Chị được danh xưng là Đáng Kính, điều này cho thấy Tòa Thánh công nhận một đời sống anh hùng đầy nhân đức của Chị. Tuy nhiên, vào năm 1928 Tòa Thánh đình hoãn việc phong thánh vì nghi ngờ rằng ông Brentano đã thêu dệt thêm các chi tiết của thị kiến. Kể từ đó, Tòa Thánh đã cho mở lại hồ sơ phong thánh chỉ dựa trên cuộc đời của Chị, và không nhắc gì đến các bút tích. Vào ngày 2 tháng Bảy 2003, Thánh Bộ Phong Thánh đã xác nhận một phép lạ do lời cầu bầu của Chị Đáng Kính Anne Catherine Emmerich, do đó tiến trình phong thánh được tiếp tục, và ngày 3 tháng Mười 2004, người sẽ được phong Chân Phước.
THỊ KIẾN CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU được trích dịch từ bản tiếng Anh (1) "The Life of Jesus Christ From The Visions of the Venerable Anne Catherine Emmerich" do Đức Ông Carl E. Schmoger, CSSR chọn lọc và biên soạn lại và do một "nữ tu Hoa Kỳ" chuyển dịch từ tiếng Đức sang tiếng Anh và (2) The Dolorous Passion of Our Lord Jesus Christ From The Visions of Anne Catherine Emmerich With a Preface By The Abbé De Cazales, do Tan Books And Publishers, Inc. xuất bản năm 1983 tại Hoa Kỳ.
VÀI NÉT TIỂU SỬ CHÂN PHƯỚC CATARINA EMMERICH
Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. (Col. 1:24b).
Anna Catarina Emmerich sinh ngày 8 tháng Chín, 1774 tại Flamske, gần Koesfeld, Westphalia, Tây Đức. Ngay khi còn nhỏ, Chị đã có lòng đạo đức đặc biệt, vì thế Chị đã xin Thiên Chúa đưa Chị ra khỏi thế gian này trước tuổi mà Chị có thể xúc phạm đến Người. Từ đó, Chị được hưởng nhiều ơn hiệp thông với thiên đàng. Thiên thần bản mệnh đã hiện ra với Chị trên đồng cỏ, dưới hình dáng một trẻ mục đồng đến chơi với Chị. Chúa Giêsu, Mẹ Maria, Thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả đều lần lượt đến với Chị như những em bé cùng tuổi với Chị, và cắt nghĩa cho Chị ý nghĩa sâu xa tàng ẩn nơi cây cỏ và các bông hoa.
Khi lớn lên một chút, Chị ngoan ngoãn vâng theo ý kiến của người mẹ đạo đức, cũng như theo sự thúc giục của tâm hồn. Khi đi nhà thờ, Chị thường đi trước hay đi sau người khác để khỏi phải xem hoặc nghe những gì có thể làm Chị vấp ngã. Dọc đường, Chị không ngừng đàm đạo với Thiên Chúa. Cách cầu nguyện chính của Chị là suy gẫm những đau khổ của Chúa trên Thánh Giá. Ít khi Chị cầu xin điều gì cho chính mình. Tất cả những lời cầu xin của Chị đều là ơn trở lại cho các tội nhân và ơn giải thoát các linh hồn nơi luyện ngục. Thời thanh xuân, Chị phải đi làm công trong nhiều năm. Cứ mỗi khi làm xong công việc là Chị rút lui vào nơi thanh vắng để đàm đạo với Thiên Chúa, như một em bé với người cha của mình.
Sau khi trở về gia đình nghèo nàn của Chị, một hôm, khi cùng làm việc đồng áng với các người trong nhà, và khi nghe tiếng chuông của tu viện Dòng Thăm Viếng ở Koesfeld báo giờ đọc kinh Truyền Tin, Chị cảm thấy hết sức ước ao đời sống tu trì đến nỗi ngất đi. Người ta phải đưa Chị về nhà, và từ đó trong suốt một thời gian dài, Chị phải chịu một chứng bệnh lạ lùng, gây ra bởi ao ước nhiệt thành muốn tận hiến cho Thiên Chúa.
Nhiều thử thách dồn dập như cản trở ơn gọi của Chị. Trong một thời gian lâu dài, gia đình Chị chống đối việc đi tu. Rồi chính sự nghèo nàn cùng cực của Chị cũng khiến nhiều tu viện từ chối. Lúc 20 tuổi, nhờ nghề may, Chị tiết kiệm được 20 đồng talơ (75 đồng phật lăng)--đây thực sự là kho tàng của một cô gái quê nghèo nàn-- với số tiền này Chị đến xin học đàn với một người đạo đức nổi tiếng về đại phong cầm ở Koesfeld. Hy vọng rằng nhờ biết đánh đàn đại phong cầm, Chị sẽ được các dòng tu dễ chấp nhận. Nhưng chẳng bao lâu, lòng bác ái của Chị đối với người nghèo đã làm tiêu tán hết số tiền ấy.
Sau đó ít ngày, Chị lâm vào tình trạng quá khốn khổ đến nỗi mẹ Chị phải gửi cho Chị ít lương thực để khỏi chết đói. Sau cùng, ước muốn đi tu của Chị đã được chấp nhận. Hai ông bà nhà giầu nọ có cô con gái rất muốn được nhận vào dòng nữ Augustin ở Dulmen, nhưng họ chỉ ưng thuận nếu Chị Catarina cũng được nhận cùng với con gái của họ. Như thế, nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, Chị được đưa vào gia đình thánh Augustin, và được lãnh tu phục vào năm 1802.
Những năm ngắn ngủi trong dòng là thời gian Chị thể hiện đầy đủ nhất và phong phú nhất những đặc ân mà Chúa ban cho Chị. Chị được ơn xuất thần thường xuyên hơn. Chị được thấy những thị kiến hết sức kỳ diệu. Chị được xem thấy tất cả các sự kiện trong Cựu Ước với những ý nghĩa sâu xa, bất diệt của nó. Những điều này như sợi giây liên kết thâm sâu, cắt nghĩa rõ ràng các mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Độ. Chị được xem thấy tất cả các nhân vật được Thiên Chúa kêu gọi để tham dự vào mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời. Chị thấy rõ tiểu sử của họ với từng chi tiết, được nhìn thấy ý nghĩa tiêu biểu của tất cả các sự kiện liên hệ với Chúa Cứu Thế. Chị biết tất cả các ơn mà Thiên Chúa ban tràn đầy cho họ, và xem thấy hoa quả tốt lành do công việc thánh thiện của họ được lưu truyền từ đời nọ đến đời kia. Tóm lại, Chị đã có một trực giác sâu xa và toàn vẹn để hiểu về tính duy nhất của hai giao ước trong Chúa Giêsu Kitô, là trung tâm và cùng đích của tất cả mọi sự.
Đồng thời, Chị cũng hiểu được tất cả các hoạt động của hỏa ngục, nguồn gốc và sự lan tràn của tật thờ ngẫu tượng, các hình thức thay đổi của sự lầm lạc và mê tín do Satan thúc giục để ngăn chặn sự triển nở chân thực duy nhất là sự triển nở của Nước Trời.
Sau cùng, lịch sử Cứu Độ, toàn bộ cuộc đời Chúa Cứu Thế được tỏ lộ, từng ngày và tất cả mọi chi tiết trước đôi mắt ngây ngất của linh hồn Chị. Chị đã đi theo mọi bước chân của Chúa Cứu Thế, đã nghe tất cả các bài giảng, các lời giáo huấn của Người, đã chứng kiến mọi phép lạ Người làm.
Nhưng sự sáng mênh mông này không bị giam hãm trong trí óc của Chị. Nó thấm nhập và đốt cháy trái tim Chị bằng một tình yêu ngày càng nồng nàn. Không bao lâu các cơn xuất thần không đủ cho Chị. Từ lâu, tình yêu đã bùng lên trong tâm hồn Chị một khao khát nóng bỏng là muốn chịu đau khổ vì Chúa Giêsu và vì các anh em Người. Và Chị đã được toại nguyện.
Năm 1811, theo lệnh của Jerome Bonaparte tu viện bị giải thể và nhà thờ bị đóng cửa. Vị tuyên uý đạo đức của dòng đã sắp xếp để Chị sống trong căn nhà tranh của một bà goá nghèo. Chị sống ở đó trong tình trạng bệnh hoạn cho tới mùa thu 1813.
Khi còn trẻ, Chị vẫn luôn cầu xin Chúa ghi dấu Thánh Giá vào tâm hồn Chị thật mạnh mẽ đến độ không thể quên được tình yêu vô biên của Chúa. Ước muốn của Chị đã được chấp nhận. Chúa Giêsu đã hiện ra với Chị và làm dấu Thánh Giá trên người Chị. Ngực Chị liền được ghi bằng hai Thánh Giá mầu đỏ, chiều dài khoảng tám phân và rộng khoảng một phân rưỡi.
Ngày 29 tháng 12, 1812, Chị nằm bất động trên giường bệnh, đôi tay giang ra theo hình Thánh Giá, ngất ngây trong một cơn xuất thần và nét mặt nóng bừng như lửa. Chị được chiêm ngưỡng cuộc khổ nạn của Chúa, và Chị tha thiết xin được chia sẻ những thống khổ của Người. Bỗng dưng, một luồng ánh sáng tỏa xuống trên Chị, ở giữa luồng sáng ấy Chị thấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, năm vết thương của Người chói lòa như mặt trời. Trái tim Chị vừa nặng chĩu đau thương vừa tràn đầy hoan lạc, và khi xem thấy các thương tích thánh, Chị ao ước được chia sẻ các đau đớn của Con Thiên Chúa đến nỗi Chị cảm thấy các ước muốn ấy như thể toát ra tự đôi bàn tay, bàn chân và cạnh sườn của Chị rồi tiến sâu vào các thương tích của Chúa Cứu Thế. Ngay lúc ấy, từ mỗi vết thương phát ra ba tia sáng mầu đỏ thẵm và có hình mũi tên, đâm thấu qua đôi chân, đôi tay và cạnh sườn của Chị. Tia sáng phóng ra từ cạnh sườn Chúa chịu đóng đinh thì rộng hơn các tia khác và có dạng một lưỡi đòng.
Ngay lúc ấy, các vết thương vừa tạo ra trên thân xác Chị bắt đầu ứa máu. Khi hồi tỉnh, Chị cảm thấy có sự thay đổi lạ lùng nơi thân xác. Chị thấy mức độ máu lưu thông trong người thay đổi, và quả thật, máu đang chảy ra từ các vết thương của Chị.
Từ đó, Chị đã chịu tất cả mọi đau đớn bên trong và bên ngoài thể xác của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn. Vào những ngày mà Chị chiêm ngưỡng quang cảnh đẫm máu ấy, người ta thấy Chị khóc và than van như một em bé bị trao cho lý hình. Chị run rẩy và lăn lộn trên giường. Vẻ mặt Chị giống như một người đang chịu hành hình, và thường mồ hôi máu chỉ xuất ra một lần trên đôi vai và trên ngực. Các vết thương ở bàn tay, bàn chân và cạnh sườn xuất huyết. Thân xác Chị bị phủ đầy các vết tím bầm như bị đánh đòn. Chị bị dày vò bởi cái khát nóng bỏng đến nỗi ngày hôm sau, lưỡi Chị vẫn còn khô và co thắt lại.
Năm 1823 là năm cuối cùng cuộc đời Chị, các đau khổ của Chị gia tăng hơn trước, và tình yêu Thiên Chúa cũng gia tăng với những đau khổ ấy. Một thị kiến khủng khiếp đã cho Chị thấy thật rõ ràng các thương tích và tai họa của Giáo Hội. Và khi Chị dâng mình làm lễ vật lên Thiên Chúa, đột nhiên, vừa nhục nhã vừa kinh hoàng, Chị thấy mình bị chất đầy tội lỗi. Chị thấy mình dưới hình ảnh một quái vật ghê gớm muốn dâng mình làm của lễ toàn thiêu để chuộc tội lỗi của người khác. Nhưng tình yêu nóng bỏng của Chị lại vì vậy mà được khích động hơn nữa. Chị đã kêu lên: "Quả thật con là một kẻ khốn nạn đầy tội lỗi, nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con là hôn thê của Ngài; con trông cậy hoàn toàn nơi Chúa và nhờ sự đền bù của Chúa đang bao phủ hết mọi tội lỗi con bằng tấm áo choàng vương giả của các công nghiệp Chúa. Không, lạy Chúa, bao lâu Chúa chưa nhận lễ vật hy sinh của con, con sẽ không lìa xa Chúa, vì Chúa không bao giờ đóng các kho tàng vô cùng của các công nghiệp Chúa đối với ai tin tưởng cầu xin Chúa." Vì Chúa dường như chống lại Chị Emmerich, nên lời cầu xin của Chị càng trở nên tha thiết hơn. Chị đã dám tranh luận cùng Thiên Chúa với một loại ngôn ngữ mà sự điên rồ thánh thiện và si mê của ngôn ngữ ấy tưởng như không thể chấp nhận được đối với người phàm.
Sự hy sinh của Chị đã được chấp nhận. Cuộc tử đạo năm ấy đã trôi qua mà không lời nào diễn tả được. Khi người ta hỏi Chị về chuyện đó, Chị khó nhọc hé mở đôi mắt và mỉm cười nói: "Đó thật là những đau khổ tốt lành!" Và Chị đã trút hơi thở cuối cùng ngày 9 tháng 2, 1824 sau khi lớn tiếng nhắc lại ba lần như sau: "Lạy Chúa, xin cứu giúp con. Xin hãy đến, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến!"
Thế là kết thúc cuộc đời kỳ diệu của người nữ tu ấy, một cuộc đời hoàn toàn được soi sáng bởi ơn hiểu biết các mầu nhiệm thần linh, được liên kết lạ lùng với những đau khổ và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Chị khiêm tốn xin tránh tất cả mọi vẻ long trọng trong lễ an táng của Chị. Mặc dù điều này được tôn trọng, nhưng tang lễ của Chị thực sự là một cuộc khải hoàn. Chưa bao giờ ở Dulmen có một đám rước nào Đông đến thế. Sáu tuần lễ sau khi Chị từ trần, và sau khi người ta phao tin rằng xác Chị đã bị một tài tử người Hòa Lan đánh cắp, người đã bỏ ra 4,000 đồng Hòa Lan để mua xác ấy, quan tài Chị được mở ra và người ta thấy xác vẫn còn nguyên vẹn, không có một chút dấu vết gì là hư nát. Vẻ đẹp của thân xác ấy được trang điểm bằng các dấu thánh đã làm cho những người tham dự hết sức xúc động.
Điều đáng tiếc là các thị kiến của Chị-thật đẹp đẽ và liên tục như vậy-đã không được thu thập hoàn toàn nguyên vẹn. Thiết tưởng đó là một món quà quá sức kỳ diệu mà chúng ta không đáng lãnh nhận. Bị đè nặng bởi những khổ đau, bị quấy rầy bởi những cuộc thăm viếng không đúng lúc, Chị đã chỉ có thể kể lại đôi chút về những quang cảnh kỳ diệu mà Chị đã tham dự với nhiều khó khăn và trong một số thời gian thanh thản.
Những lời Chị kể được ghi lại bằng ngòi bút của Clement Brentano, một người bạn thường xuyên có mặt bên cạnh giường bệnh của Chị.
* * *
THỊ KIẾN CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU
THEO LỜI CHỊ ANNA CATARINA EMMERICH
CHƯƠNG I
CHÚA GIÊSU TRÊN NÚI CÂY DẦU
Sau khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu rời Nhà Tiệc Ly với Mười Một Tông Đồ. Người bắt đầu buồn bã và nỗi buồn mỗi lúc càng gia tăng. Người dẫn các Tông Đồ qua một con đường ít người sử dụng, vào thung lũng Giosaphát, tiến về phía núi Cây Dầu. Lúc các ngài ra khỏi Nhà Tiệc Ly, tôi đã thấy mặt trăng nhô lên khỏi đỉnh núi, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đầy đặn.
Khi Chúa vượt qua thung lũng với các môn đệ, Người bảo các ông rằng vào ngày tận thế Người sẽ trở lại phán xét thế gian, nhưng không còn nghèo khó và bất lực như hôm nay. Khi đó người ta sẽ rất sợ hãi và sẽ kêu lên: "Núi đồi kia ơi, hãy phủ lấp chúng tôi đi!" Các môn đệ không hiểu Người nói gì. Họ cứ nghĩ là sự mệt mỏi, kiệt sức đã làm cho Người rối trí, như họ đã thấy nhiều lần trong suốt buổi chiều hôm nay. Có khi họ tiếp tục tiến bước, có khi họ dừng chân để thưa chuyện cùng Người. Chúa Giêsu còn nói với họ: "Đêm nay tất cả các anh sẽ vấp ngã vì Thầy, các anh sẽ vấp ngã vì Thầy, vì có lời chép rằng: Ta sẽ đánh chủ chăn, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước các anh."
Các Tông Đồ vẫn còn đầy hăng hái và thành tâm vì được đón nhận Bí Tích Cực Thánh, và cuộc đàm luận đầy thân tình và long trọng sau đó của Chúa Giêsu. Họ sát cánh chung quanh Người, bầy tỏ lòng yêu mến đối với Người bằng nhiều cách và cam kết rằng họ sẽ không bao giờ bỏ Người.
Vì Chúa Giêsu cứ tiếp tục nói theo chiều hướng ấy nên ông Phêrô thưa cùng Chúa: "Dù tất cả mọi người đều vấp ngã vì Thầy, con sẽ không bao giờ vấp ngã vì Thầy!" Chúa trả lời ông: "Thật, Thầy bảo cho con biết, ngay đêm nay, trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần." "Dù phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy." Và các người khác cũng nói như vậy. Các ngài vừa đi vừa nghỉ, và sự lo buồn của Chúa Giêsu ngày càng tăng. Các Tông Đồ tìm cách thuyết phục Người bằng những lý lẽ loài người, họ trấn an Người rằng sự lo buồn của Người không có nền tảng thực tế. Nhưng thấy nỗ lực của mình vô ích và chẳng có hiệu quả, các ông đâm ra mệt mỏi và bắt đầu hồ nghi và rơi vào cơn cám dỗ.
Các ngài đi qua con suối Cedron, nhưng không đi bằng ngả qua cầu mà sau này Chúa Giêsu bị trói và điệu đi qua đó; các ngài đi lối tắt. Vườn Giệtsimani ở núi Cây Dầu, nếu đi thẳng từ Nhà Tiệc Ly thì mất nửa giờ, vì từ Nhà Tiệc Ly đến thung lũng Giosaphát mất mười lăm phút, và từ thung lũng này đến vườn Giệtsimani cũng mất cùng thời gian ấy. Chỗ này, trong những ngày cuối cùng, Chúa Giêsu vẫn thường thức đêm với các môn đệ để dạy dỗ họ, có một khu vườn đẹp với một hàng rào bao quanh. Khu vườn gồm nhiều bụi cây lớn và cây ăn trái. Bên ngoài vườn là một vài căn nhà bỏ hoang, sẵn sàng đón tiếp ai muốn ở đó. Một vài người, cũng như các Tông Đồ, có chìa khóa vào khu vườn này, vừa dùng làm chỗ giải trí vừa làm nơi cầu nguyện. Vườn Cây Dầu được tách biệt với vườn Giệtsimani bằng một con đường và chỉ có một bức tường đất bao quanh. Người ta thấy ở đây có nhiều hang động, nhiều gò đất cao và nhiều khu đất trồng cây dầu ôliu. Tại một góc vườn có nhiều ghế ngồi và rất dễ tìm được một nơi thích hợp để cầu nguyện và suy gẫm. Chúa đã đến cầu nguyện ở chỗ thanh vắng nhất.
Vào khoảng 9 giờ tối thì Chúa Giêsu cùng các môn đệ đến vườn Giệtsimani. Bóng đêm bao phủ mặt đất, nhưng vừng trăng sáng tỏ trên trời. Chúa Giêsu thật buồn sầu. Người cho các Tông Đồ biết nguy hiểm sắp tới và các ông cảm thấy bồn chồn. Chúa nói với tám người trong số các ông ở lại vườn Giệtsimani, là nơi có nhà hóng mát vách ván và lợp lá. Chúa nói: "Các anh hãy ở lại đây, để Thầy đi cầu nguyện tại chỗ riêng." Người đem theo ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, băng qua con đường mòn và đi khoảng một vài phút cho đến khi Người đến vườn Cây Dầu xa tận chân núi. Người thấy buồn rầu một cách kỳ lạ vì cảm thấy sự thống khổ và cơn cám dỗ đang đến. Gioan hỏi làm sao Người là Đấng vẫn từng luôn an ủi họ, mà giờ đây lại có thể nản chí đến như vậy. Chúa Giêsu trả lời, "Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được." Người rảo mắt nhìn quanh và thấy từ mọi phía thống khổ và cám dỗ đang kéo đến với Người như những đám mây đen đầy hình ảnh ghê sợ. Chính lúc đó Người nói với ba Tông Đồ: "Các anh hãy ở lại đây và canh thức với Thầy. Cầu nguyện đi để khỏi sa chước cám dỗ!" và họ ở lại chỗ đó. Chúa Giêsu tiến lên một vài bước. Nhưng những hình ảnh ghê sợ vây chặt cứng quanh Người đến độ Người hoảng hốt quay sang bên trái và tiến nhanh vào một hang đá nhỏ phía dưới ghềnh đá. Các Tông Đồ vẫn ở trong một chỗ trũng bên tay phải phía trên. Cái hang mà Chúa Giêsu ẩn náu sâu khoảng hai mét, có các loại cây leo từ ghềnh đá rủ xuống che lấp lối vào rất kỹ đến nỗi người ở bên ngoài không thể nào thấy được người ở bên trong.
---------------------------------------------------
CHƯƠNG II
CÁC THỊ KIẾN VỀ TỘI ÁC CỦA CHÚNG TA
Vào lúc Chúa Giêsu rời bỏ các Tông Đồ, tôi thấy chung quanh Người một vòng vây đầy những bóng ma khủng khiếp, mỗi lúc càng xiết chặt. Nỗi buồn và sự kinh hoàng của Người cứ gia tăng mãi. Lòng đầy chán nản, Người lùi sâu vào trong hang để cầu nguyện, giống như một người tìm nơi ẩn náu để tránh cơn phong ba bão táp đang bám sát mình. Nhưng những bóng ma gớm ghiếc ấy vẫn theo Người vào hang, và mỗi lúc chúng càng trở nên rõ nét hơn. Hỡi ôi! Trong cái động chật hẹp này dường như đang diễn ra những cảnh tượng ghê gớm và kinh hoàng của tất cả tội lỗi mà loài người đã phạm, từ sự sa ngã của tổ tông cho tới ngày tận thế, và cảnh tượng các hình phạt phải chịu để đền các tội ấy. Chính mảnh đất cằn cỗi này, dưới chân núi Cây Dầu là nơi sau khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông Adong và bà Evà đã đến trú ngụ và than khóc tại đây.
Tôi cảm thấy rõ ràng rằng khi dâng mình cho công lý của Thiên Chúa, như hiến lễ đền bù tội lỗi trần gian, Chúa Giêsu một cách nào đó, đã cất dấu thần tính của Người trong lòng Ba Ngôi Cực Thánh, và chỉ được nâng đỡ bằng tình yêu của trái tim nhân tính của Người để đền bù tội lỗi trần gian mà thôi. Người đã để cho nhân tính rất thánh thiện, rất chân thực, rất nhạy cảm và trinh trong của Người gánh chịu hết mọi đau khổ và kinh hoàng. Vì muốn việc đền tội bao gồm từ những ham muốn xấu xa, là căn nguyên của tội ác, cho tới tất cả tội ác mà những ham muốn này gây ra, Chúa Giêsu rất nhân từ, vì yêu thương chúng ta, đã hạ mình lãnh nhận tất cả hình phạt và mọi hành vi thống hối cần thiết đến tận đáy lòng Người để đền bù trọn vẹn cho tội lỗi và để tái sinh nhân loại. Người muốn rằng cuộc khổ nạn của Người phải vô biên để chuộc lại vô số lỗi lầm của chúng ta, và vô số đau khổ, như những nhánh cây đền tội phải lan toả vào tất cả các cơ năng của linh hồn và mọi chi thể của thân xác Người.
Trong trạng thái bản tính nhân loại của Người, Đức Giêsu phủ phục xuống đất, tâm tư nặng chĩu kinh hoàng, lạc vào một nơi buồn sầu vô biên, và Người cầu nguyện với Thiên Chúa. Khi đó tất cả các tội lỗi trần gian đều hiện ra cùng Người dưới nhiều hình thức khôn kể xiết, với tất cả xấu xa của chúng, Người đã nhận chúng trên thân thể Người, và trong lời cầu nguyện, Người đã hiến mình cho công lý của Chúa Cha để đền bù các lỗi lầm ấy bằng cuộc khổ nạn của Người. Satan dãy dụa khủng khiếp, dáng vẻ vừa khinh mạn vừa cuồng bạo giữa tất cả những điều ghê tởm khủng khiếp ấy. Cơn cuồng giận của nó càng lúc càng gia tăng đối với Chúa Giêsu. Nó phô diễn ra trước linh hồn Người các hình ảnh ghê gớm hơn, và nó kêu lên với nhân tính của Người: "Vậy ra ngươi lại còn đòi lãnh trên mình ngươi cả thứ tội này nữa hả! Làm sao ngươi đền bù nổi bấy nhiêu tội ác?"
Tuy nhiên, một con đường sáng hiện ra trên trời về phía Đông và hạ xuống trên Chúa Giêsu: tôi đã thấy dọc theo con đường này nhiều phẩm trật thiên thần bay xuống cùng Người để nâng đỡ và giúp Người thêm vững mạnh. Trong hang vẫn đầy những hình ảnh ghê sợ tội lỗi của chúng ta, và đầy dẫy thần dữ cám dỗ Chúa và chế nhạo Người. Chúa Giêsu đã lãnh trên thân xác Người tất cả các tội ác ấy, nhưng trái tim Người, trái tim duy nhất yêu mến Thiên Chúa và loài người bằng tình yêu tinh tuyền và hoàn hảo, đã cảm thấy trong sa mạc muộn phiền này cái gánh nặng ghê gớm của vô số tội lỗi. Kinh hoàng đè nặng lên thân Người, và chúng gây đau đớn cho Ngườøi. Hỡi ôi! Các tội ác này, tôi đã thấy quá nhiều đến nỗi dù một năm trời cũng không kể hết được.
Sau khi đại dương tội lỗi và các xúc phạm ấy diễn hành trước linh hồn Chúa Cứu Thế, và chính Người đã dâng mình làm của lễ đền tội để chịu tất cả hình phạt và ưu phiền vì chúng, Satan còn gợi thêm ra cho Người, như xưa trong hoang địa, nhiều cám dỗ vô số kể. Nó còn dám tạo ra cả một loạt các lời tố cáo Chúa Giêsu, là Chiên Con không tì ố. Nó nói với Người: "Thế nào, ngươi muốn lãnh lấy tất cả những cái đó trên mình ngươi ư, trong khi chính ngươi không trong sạch!" Thế rồi, với cái hỗn xược của hỏa ngục, nó bày ra trước mắt Người một bản cáo trạng, và gán cho Người một loạt những lời trách cứ tưởng tượng. Nó trách Người về tất cả mọi thiếu sót của các môn đệ Người, về những gương xấu mà họ đã gây nên, về sự xáo trộn và vô trật tự mà Người đã đưa vào thế gian khi hủy bỏ các tập tục cũ. Satan nói như người Biệt Phái tinh tế nhất và xảo quyệt nhất có thể làm: nó tố cáo Chúa Giêsu là đã gây ra vụ thảm sát các hài nhi, cũng như những khó nhọc và đau khổ của cha mẹ Người tại Ai Cập; về chuyện đã không cứu Gioan Tẩy Giả khỏi chết, đã làm phân tán nhiều gia đình, đã bảo trợ nhiều người tai tiếng, đã không chữa lành nhiều bệnh nhân, đã làm thiệt hại cho dân cư thành Gergesa bằng cách ra lệnh cho những người bị qủy ám lật đổ các bồn nho của họ và để cho bọn qủy xô nhào xuống biển cả bầy heo của họ. Nó còn tố cáo Người đã không ngăn cản Mađalêna tái phạm, đã bỏ gia đình mình, đã xài hoang phí của cải của người khác.
Nói tóm lại, Satan bày vẽ ra trước linh hồn hấp hối của Chúa Giêsu, để làm Người nản lòng, tất cả những gì mà tên cám dỗ có thể trách cứ một người vào lúc hấp hối. Nó không biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, và nó chỉ cám dỗ Người như cám dỗ một người công chính nhất mà thôi. Chúa Cứu Thế của chúng ta đã để cho nhân tính thánh thiện của Người bị áp chế quá mạnh, đến nỗi Người muốn chịu cơn cám dỗ mà những người công chính vào giờ chết thường phải chịu về trách nhiệm các hành động của mình. Để uống cạn tất cả chén đắng của đợt hấp hối đầu tiên này, Người đã để cho Satan bầy vẽ ra trước mắt Người trách nhiệm về các hành động của Người cũng như những món nợ Người mắc với ơn thánh Chúa mà Người vẫn chưa thanh toán. Tên cám dỗ trách Người là muốn xóa bỏ các tội của người khác, trong khi chính Người lại không có công nghiệp và vẫn còn mắc nợ Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa đã cho phép ma qủy cám dỗ nhân tính của Người, như nó có thể cám dỗ một người nào đó muốn gán cho các hành động của mình một giá trị riêng, ở bên ngoài cái giá trị mà họ có thể có được nhờ sự liên kết với công nghiệp của Chúa Cứu Thế. Vậy Satan đã cho Người thấy các công việc của Người cũng như bao nhiêu món nợ với Thiên Chúa, và nó bày vẽ cho Người rằng những việc ấy chẳng có công trạng gì, và chúng chẳng cân xứng chút nào với ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Người. Nó còn nói với Người: "Ngươi thấy rõ rằng ngươi vẫn còn mắc nợ với Thiên Chúa về tất cả những chuyện đó!"
Sau cùng, nó trách Người về chuyện đã nhận tiền từ Lagiarô và tiêu xài hết số tiền bán bất động sản của Mađalêna ở Magdalum. Nó nói với Người: "Sao ngươi dám liều lĩnh tiêu xài của cải người khác, và lấy của gia đình người ta?"
Tôi đã thấy hình ảnh về tất cả các tội trọng mà Chúa đã dâng mình làm của lễ đền tội cho chúng, và tôi đã cảm được gánh nặng về tất cả các lời tố cáo mà tên cám dỗ đổ trên Người. Giữa các tội lỗi của toàn thể thế giới mà Chúa Giêsu tự nguyện lãnh nhận, tôi đã thấy cả tội của tôi nữa. Và từ giữa vòng đai của những cám dỗ bao quanh Người, đã thoát ra và đổ dồn về phía tôi như một giòng sông lớn, trong đó, tôi kinh hoàng nhìn thấy muôn vàn tội lỗi của tôi. Trong giờ phút kinh hoàng đó, tôi luôn chăm chú ngước mắt nhìn lên Đức Lang Quân của tôi. Tôi rên xiết than thở và cầu nguyện với Người, và cùng với Người tôi quay về phía các thiên thần an ủi. Hỡi ôi! Chúa vặn mình như một con sâu dưới gánh nặng đau thương và khủng khiếp của Người.
Khi nghe tất cả các lời tố cáo của Satan về Con Chiên không tì ố ấy, tôi đã thấy bừng bừng nổi giận. Nhưng lúc nó nói về giá bất động sản ở Magdalum và tố cáo Người đã tiêu hoang phí, tôi không cầm được cơn giận, và tôi bảo nó: "Sao ngươi dám kết tội Đức Giêsu với việc mua bán bất động sản của Mađalêna? Chính tôi thấy Đức Chúa dùng số tiền ấy, mà Lagiarô đã biếu, để làm việc bác ái, để giải thoát 27 tù nhân tội nghiệp, những kẻ bị cầm tù vì thiếu nợ ở Tirza."
Vào lúc đầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện một cách rất bình thản, nhưng không bao lâu, linh hồn Người hoảng hốt trước cảnh tượng vô số các tội ác của loài người và những vô ơn của họ đối với Thiên Chúa. Người bị xâm chiếm bởi sự kinh hoàng chí tử và đau đớn quá mạnh đến nỗi Người run lẩy bẩy kêu lên: "Abba, lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con! Lạy Cha, mọi sự đều có thể đối với Cha, xin cất chén này xa con." Rồi Người hồi tâm và lại thưa: "Nhưng xin theo ý Cha, chứ đừng theo ý con." Ý của Người và của Cha Người vẫn là một, nhưng vì đã phó mình cho yếu đuối của bản tính loài người, nên Người run sợ khi nhìn thấy cái chết.
Tôi thấy trong hang động đầy những bóng ma khủng khiếp. Tất cả các tội lỗi, các điều gian ác, các nết xấu, các điều vô ơn bạc nghĩa, các hình phạt đều đè nặng lên Người cùng một lúc. Đồng thời, các lời gây kinh hoàng của thần chết và sự sợ hãi mà Người thấy thấm thía khi nhìn đến tất cả các đau khổ Người phải chịu, đã dồn ép tấn công Người dưới hình thức các bóng ma gớm ghiếc. Người chắp tay, run lẩy bẩy, mồ hôi lạnh toát ra thấm ướt toàn thân Người. Sau cùng Người ngã gục sát mặt đất. Người lại trỗi dậy, đầu gối Người lảo đảo, môi Người tái mét, tóc Người dựng đứng trên đầu. Người đã hoàn toàn biến sắc, và hầu như người ta không còn nhận ra Người nữa.
Vào lúc 10 giờ rưỡi, sau khi cầu nguyện xong, Người chập choạng trỗi dậy, nhưng té ngã từng bước, ướt đẫm một thứ mồ hôi lạnh. Người lết tới chỗ ba Tông Đồ đang trú ẩn. Người thấy họ đã thiếp ngủ vì mệt, vì buồn sầu và vì sự kinh hoàng mà họ đã cảm thấy. Chúa Giêsu đến với các môn đệ như một người chìm ngập trong sầu muộn và kinh hoàng tìm đến bên cạnh những người bạn thân, hay như một mục tử tốt lành, dù là chính mình đang khiếp sợ, vẫn không quên đàn chiên mình chăn đang bị nguy hiểm. Người biết chính họ cũng đang kinh hoàng và đang bị cám dỗ. Các hình thù khủng khiếp cứ theo đuổi Người trong suốt quãng đường đi. Khi thấy các Tông Đồ say ngủ, Người đan tay vào nhau và vì quá mệt mỏi Người ngã xuống bên cạnh họ. Người buồn sầu hỏi: "Simon ơi, ngươi ngủ ư?" Khi đó các ông đều tỉnh dậy. Chúa Giêsu nói với các ông trong nỗi cô đơn tột cùng: "Thế là các anh không thể thức được với Thầy một giờ sao!" Khi họ thấy Người xanh xao biến sắc, lảo đảo, ướt đẫm mồ hôi, run lẩy bẩy, khi họ nghe Người nói giọng nghẹn ngào, họ không biết phải nghĩ sao, và nếu không có vầng hào quang rất quen thuộc vẫn bao quanh đầu Người, chắc họ đã chẳng nhận ra được Người. Khi đó Gioan hỏi Người: "Thưa Thầy sao vậy? Con có nên gọi các môn đệ kia hay không? Chúng ta có phải đi trốn không?" Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Thầy có sống, có giảng dậy và chữa bệnh thêm 33 năm nữa, điều đó vẫn không đủ để làm những gì mà Thầy phải thực hiện từ lúc này cho đến ngày mai. Con đừng gọi tám người kia làm gì. Thầy đã bỏ họ lại đó, vì họ sẽ không thể thấy Thầy trong cảnh khốn cùng này mà không bị vấp phạm: họ sẽ sa chước cám dỗ, họ sẽ quên đi nhiều chuyện, và họ sẽ hoài nghi cả Thầy nữa. Về phần các anh đã một lần thấy Con Người biến hình vinh hiển, thì các anh cũng có thể thấy Người trong sự tăm tối và cô đơn này, nhưng các anh hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa chước cám dỗ. Tinh thần thì mau lẹ nhưng xác thịt lại yếu đuối."
Như thế là Người muốn khích lệ các ông hãy kiên tâm bền chí, loan báo cho các ông cuộc giao tranh giữa bản tính nhân loại của Người với cái chết, và cho các ông biết nguyên nhân làm cho Người suy nhược. Người nói với các ông một cách buồn bã, và ở bên các ông thêm một giờ nữa, rồi Người trở lại hang ấy, trong khi nỗi kinh hoàng vẫn luôn gia tăng. Ba Tông Đồ dang tay về phía Người và khóc, rồi họ ôm nhau và hỏi: "Như vậy là thế nào? Chuyện gì xảy ra cho Thầy vậy? Thầy hoàn toàn rã rời khiếp đảm!"
Thế rồi họ bắt đầu cầu nguyện, họ trùm đầu mà lòng thật đau đớn. Đã một tiếng rưỡi đồng hồ trôi qua kể từ khi Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu. Người nói đúng như Kinh Thánh viết: "Như vậy là các con đã không thức nổi một giờ với Thầy!" nhưng người ta không thể giải thích những lời này bằng cách đo thời gian của chúng ta. Ba Tông Đồ ở với Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước hết, rồi các ông thiếp ngủ vì các ông đã sa chước cám dỗ bởi thiếu lòng trông cậy. Tám ông khác, những người ở lại cổng, họ không ngủ. Nỗi buồn sầu mà Chúa Giêsu đã bày tỏ trong cuộc nói chuyện lần cuối cùng đã làm các ông bồn chồn lo lắng. Các ông đi lang thang trên núi Cây Dầu, tìm kiếm một nơi để có thể ẩn mình.
Tại Giêrusalem chẳng có gì làm náo động sự im lặng của đêm thanh. Những người Do Thái đều có mặt trong nhà, bận rộn với việc chuẩn bị mừng lễ. Các lều tạm của những khách lạ đến để mừng Lễ Vượt Qua không thấy xuất hiện ở chung quanh núi Cây Dầu. Tôi đã thấy nhiều người bạn và nhiều môn đệ của Chúa Giêsu đi lang thang đây đó và chuyện vãn với nhau. Họ có vẻ lo lắng và trong tình trạng chờ đợi nặng nề. Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chị Mađalêna, Chị Máttha, bà Maria Clêopha, bà Maria Salômê đã rời Nhà Tiệc Ly và đã tới nhà bà Maria mẹ của Máccô. Nhưng hoảng sợ vì tiếng đồn, các bà trở lại gần thành phố để thăm dò tin tức của Chúa Giêsu. Lagiarô, Nicôđêmô, Giuse Aramathi và vài người bà con từ Hêron đến đã gặp các bà, họ tìm cách trấn an các bà. Sau khi tự mình hoặc nhờ các Tông Đồ mà biết được lời tiên đoán buồn thảm của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly, các bà đã dò hỏi những người biệt phái quen biết, nhưng các bà không hay biết gì về việc người ta sắp ra tay chống lại Chúa Giêsu. Các bà cho rằng sự nguy hiểm không thể nào quá lớn và chẳng lẽ người ta lại bắt Chúa Giêsu vào gần ngày đại lễ như vậy. Các bà vẫn chưa biết gì về chuyện phản bội của Giuđa. Đức Maria đã nói với các bà về sự bấn loạn của kẻ khốn khổ này trong những ngày cuối cùng, và về việc hắn rời bỏ Nhà Tiệc Ly. Người vẫn thường nói với hắn rằng hắn là đứa con hư hỏng. "Ôi chao!" Người nói, "nhất định là nó đã đi thi hành trọn vẹn tội phản bội của nó rồi." Sau đó các bà này trở về nhà bà Maria, mẹ của Máccô.
--------------------------------------
CHƯƠNG III
THỊ KIẾN VỀ VIỆC CHUỘC TỘI KINH KHỦNG - VỀ NHỮNG TAI HẠI CỦA TỘI LỖI TRONG GIÁO HỘI VỀ SỰ VÔ ƠN CỦA CON NGƯỜI - CƠN HẤP HỐI LẦN THỨ II
Khi Đức Giêsu trở lại hang thì tất cả các nỗi buồn lại đến với Người. Người nằm phục mặt sát đất, giang tay ra cầu xin với Cha Người. Khi đó bắt đầu cơn hấp hối thứ hai, kéo dài bốn mươi lăm phút. Trong một chuỗi hình ảnh, các thiên thần đến cho Người thấy các đau khổ mênh mông mà Người phải chịu để đền tội cho toàn thế giới. Các thiên thần cho Người thấy vẻ đẹp tuyệt hảo của con người, là hình ảnh của Thiên Chúa, trước khi sa ngã, cùng với sự biến dạng và thối nát sau khi sa ngã. Các vị này cũng cho Đức Giêsu thấy mọi tội lỗi xuất phát từ tội đầu tiên như thế nào; các ngài cũng vạch rõ bản chất và tầm quan trọng của tội tà dâm, những hậu quả kinh khủng của nó đối với linh hồn con người, cũng như đối với sự lành mạnh phần xác của con người; họ cũng cho thấy bản chất và tầm quan trọng của tất cả những đau khổ được gây ra như những hình phạt vì sự thèm khát nhục dục. Các thiên thần cho Người thấy, trong những đau khổ đền tội đang chờ đợi Người, trước hết là sự đau khổ cả thể xác lẫn linh hồn, một hình phạt khủng khiếp bao gồm tất cả mọi hình phạt do Công Lý của Thiên Chúa vì mọi tội lỗi của toàn thể nhân loại. Thứ hai, các ngài cho Người thấy sự đau khổ, mà để đền bù được, phải trừng phạt mọi tội ác của toàn thể nhân loại trong đó chỉ có Nhân Tính Người là vô tội-có thể nói, Nhân Tính Cực Thánh của Con Thiên Chúa. Nhân Tính Cực Thánh đó, qua tình yêu, đã lãnh nhận mọi tội lỗi của nhân loại cùng với hình phạt của nó; kết quả là Nhân Tính ấy cũng giành được sự chiến thắng trên những đau khổ và cái chết cay đắng của con người. Tất cả những điều này được các thiên thần cho Đức Giêsu thấy, đôi khi xuất hiện trong một chuỗi hàng loạt những hình ảnh, và đôi khi chỉ cho thấy các nét chính yếu của cuộc Khổ Nạn của Người. Tôi thấy các thiên thần chỉ tay về các hình ảnh khi xuất hiện, và dù không nghe thấy gì, tôi hiểu được những điều các ngài nói.
Không có ngôn ngữ loài người nào khả dĩ diễn tả được hết nỗi kinh hoàng, sự thống khổ tràn ngập linh hồn Đức Giêsu khi Người nhìn thấy những việc đền tội khủng khiếp ấy. Người không chỉ hiểu hậu quả của mọi hình thức nhục dục, nhưng còn sự trừng phạt đặc biệt của nó, ý nghĩa của các dụng cụ tra tấn có liên hệ với tội ấy; do đó không chỉ cái ý nghĩ về dụng cụ tra tấn khiến Người rùng mình, nhưng còn cả sự tàn bạo mà tội lỗi con người sáng chế ra nó, sự tức giận và độc ác của những người dùng nó, và sự khó chịu của tất cả những ai bị tra tấn, dù vô tội hay có tội. Đức Giêsu nhận biết tất cả những đòn tra tấn và đau đớn này khi trầm ngâm suy nghĩ về cảnh tượng ấy thì sự sợ hãi trùm lấp lên Người đến nỗi mồ hồi máu bắt đầu rướm ra từ các lỗ chân lông trên Thân Thể rất thánh của Người.
Trong khi Nhân Tính đáng tôn thờ của Đức Kitô khổ sở quằn quại dưới cơn đau đớn quá độ này thì tôi thấy các thiên thần tỏ ra rất cảm thương Người. Các vị ao ước an ủi Đức Giêsu và cầu xin trước ngai Thiên Chúa cho Người. Trong một khoảnh khắc, dường như có sự giằng co giữa Lòng Thương Xót và Công Lý của Thiên Chúa và tình yêu tự hiến làm của lễ hy sinh. Tôi cũng thấy hình ảnh Thiên Chúa không như trước đây, đang ngự trên ngai, trong một diện mạo tuy sáng chói nhưng không rõ ràng. Tôi thấy thần tính của Chúa Con trong Ngôi Cha và dường như thần tính ấy rút vào lòng Đức Chúa Cha. Ngôi Ba xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Dường như Người ở giữa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa. Nhưng ai có thể nói về điều đó được? Tôi nhận thức tất cả những điều này trong nội tâm nhiều hơn là thị kiến dưới mắt con người. Trong đó tôi được cho thấy Thiên Ý của Đức Kitô lùi sâu vào Chúa Cha để cho Nhân Tính Cực Thánh của Người phải chịu tất cả những đau khổ ấy để tránh bớt cho nhân loại; như thế Chúa Kitô làm một với Chúa Cha, tất cả là để một mình Nhân Tính của Người phải gánh chịu mà thôi. Tôi thấy tất cả những điều này trong một khoảnh khắc cảm xúc của các thiên thần, khi các ngài khao khát muốn an ủi Đức Giêsu, và cùng lúc ấy Người nhận được chút khuây khỏa. Nhưng giờ đây các hình ảnh ấy đã biến mất, và các thiên thần và lòng thương cảm cũng xa lánh Chúa, mà linh hồn Người sắp phải chịu cả một loạt thống khổ mới dữ dội hơn trước.
Khi Đấng Cứu Thế ở trên núi Cây Dầu, trong tư cách là một con người thực sự, Người đã tự để cho mình chịu cám dỗ như một con người tự nhiên ghê sợ đau khổ và cái chết. Khi Người chiến thắng sự ghê sợ ấy - sự chịu đựng cơn cám dỗ tạo nên một phần của mọi đau khổ - tên cám dỗ được phép thi hành với Người những gì hắn thi hành với bất cứ ai muốn dâng mình làm của lễ hy sinh vì bất cứ lý do thánh thiện nào. Trong phần đầu sự thống khổ của Đức Giêsu, Satan điên cuồng chế diễu và đặt trước mắt Người một món nợ to lớn mà Người sẽ phải gánh chịu, và nó kéo dài sự cám dỗ ấy đến độ cho rằng các hành động của chính Đấng Cứu Thế cũng không khỏi sai lầm. Sau đó, trong đợt thống khổ thứ hai, tất cả những cay đắng lớn lao và thực chất của đau khổ được trưng ra trước mặt Đức Giêsu, mà công cuộc chuộc tội cần phải gánh chịu để thanh toán món nợ mênh mông ấy. Điều này được các thiên thần cho Người thấy, vì nó không thuộc về Satan để cho thấy rằng sự đền bù ấy có thể có được. Satan, cha của dối trá và thất vọng, không bao giờ cho loài người thấy những công trình của lòng thương xót Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu thành tâm phó thác cho thánh ý Cha trên trời, Người đã kháng cự vẻ vang các cuộc tấn công này gồm một chuỗi những hình ảnh ghê rợn và mới mẻ hiện ra trước linh hồn Người. Người cảm nghiệm sự băn khoăn đó với một trái tim con người về sự hy sinh lớn lao. Nghi vấn " Tôi sẽ được lợi lộc gì, được đền đáp gì cho hy sinh lớn lao này?" xuất hiện trong linh hồn của Đức Giêsu, và cảnh tượng của một tương lai đen tối trùm lấp Trái Tim đầy yêu thương của Người.
Đối với người Nam đầu tiên, Thiên Chúa đã khiến Adong ngủ say, rồi mở cạnh sườn ông, lấy ra một xương sườn, tạo thành Evà, người nữ đầu tiên, và đưa đến cho Adong. Khi nhận Evà từ Thiên Chúa, Adong kêu lên: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Bởi thế, người Nam sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt." Đây là cuộc hôn nhân: "Bí Tích cao cả, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh." Đức Kitô, Adong mới, vui lòng đi vào giấc ngủ - giấc ngủ của sự chết đến với Người trên thập giá. Tương tự như vậy, Người cho phép cạnh sườn Người được mở ra cho một Evà mới, vị Hôn Thê trinh khiết của Người là Giáo Hội, Mẹ của mọi chúng sinh, được hình thành từ đó. Người muốn ban cho Giáo Hội Máu Cứu Chuộc, nước thanh tẩy, và chính Thần Khí của Người, cả ba là chứng tích trên trái đất. Người muốn ban cho Giáo Hội các Bí Tích thánh để Giáo Hội sẽ là một Hôn Thê tinh tuyền, thánh thiện và không tì ố. Người muốn là đầu của Giáo Hội và chúng ta là chi thể, xương bởi xương của Người và thịt bởi thịt của Người. Khi mặc lấy bản tính nhân loại và sẵn sàng chịu chết vì chúng ta, Người cũng lìa bỏ Cha Mẹ để trung thành với vị Hôn Thê, là Giáo Hội. Người trở nên một thân thể với Giáo Hội, nuôi dưỡng Giáo Hội với Bí Tích Cực Thánh nơi Bàn Thờ, trong đó Người không ngừng kết hiệp với chúng ta. Người muốn ở lại với Hôn Thê Người, là Giáo Hội, cho đến khi tất cả chúng ta trong Giáo Hội được kết hiệp với Người trên Thiên Đàng. Người đã từng nói: "Cửa Hỏa Ngục sẽ không thắng nổi Giáo Hội." Để bầy tỏ tình yêu vô biên của Người cho kẻ tội lỗi, Chúa đã trở nên con người và làm anh em với kẻ tội lỗi, để Người có thể gánh lấy mọi hình phạt vì tội lỗi của họ. Thật vậy, Người đã não nề vô cùng khi trầm tư về tội lỗi và sự đau khổ của công cuộc chuộc tội lớn lao ấy, nhưng cùng lúc Người vui vẻ tự hiến mình làm lễ vật chuộc tội theo ý của Cha Trên Trời. Tuy nhiên, giờ đây, Người nhìn thấy những đau khổ, cám dỗ, và thương tích của Giáo Hội tương lai, Hôn Thê của Người, mà Người đã mua với một giá quá đắt, là chính Máu Người, và Người đã nhìn thấy sự vô ơn của loài người.
Trước linh hồn của Chúa Giêsu đã xuất hiện tất cả những đau khổ tương lai của các Tông Đồ, môn đệ, và bạn hữu, và con số thành viên nhỏ bé của Giáo Hội tiên khởi. Khi con số này gia tăng, Người nhìn thấy những thuyết lạc giáo và ly giáo đi vào đàn chiên, và tội của Adong được lập lại qua tánh kiêu ngạo và bất tuân phục trong mọi hình thức phù phiếm và tự dối gạt mình mà lại cho là công chính. Sự lãnh đạm, sự hiểm ác, sự độc hại của vô số Kitô Hữu; biết bao dối trá, lừa bịp tinh vi của tất cả các bậc thầy kiêu ngạo; các tội phạm thượng của tất cả linh mục độc địa với những hậu quả ghê tởm; cảnh điêu tàn ghê rợn trong Vương Quốc Thiên Chúa trên mặt đất, trong nơi thầm kín của nhân loại vô ơn mà giữa những đau khổ không thể tả được, Người sẽ cứu chuộc họ với Máu Thánh và sự sống của Người.
Tôi thấy các gương xấu của tất cả các thế kỷ, từ khi Giáo Hội được thành lập cho tới ngày tận thế, diễn ra trước linh hồn Đức Giêsu trong một chuỗi hình ảnh bao la: các hình thức lầm lạc, các ngụy biện kiêu căng, sự cuồng tín, các tiên tri giả, các lạc giáo ngoan cố, mọi hình thức độc ác. Những kẻ bội giáo, những người tự phụ, các bậc thầy lầm lạc, những người cải cách giả hình, những người hối lộ và ăn hối lộ trong mọi thời đại, đã nhục mạ và tra tấn Người vì không chịu chết trên thập giá theo ý của họ, vì không chịu chết trên thập giá cách êm ái theo ước muốn và thị hiếu của họ. Những người ấy đã xé toạc và chia nhau tấm áo lành lặn của Giáo Hội. Ai cũng muốn một vị cứu tinh khác hơn Đức Giêsu đã tự hiến mình vì tình yêu. Không biết bao nhiêu người đã đối xử tàn tệ với Người, chế nhạo Người, chối bỏ Người. Đức Giêsu thấy không biết bao nhiêu người khác nhún vai lắc đầu khinh bỉ Người, tránh né bàn tay cứu độ của Người để xô nhau vào một hố thẳm đang nuốt chửng họ. Người thấy vô số những người khác không dám công khai chối bỏ Người, nhưng họ quay lưng bỏ đi vì ghê tởm các thương tích của Giáo Hội Người, mà chính họ đã giúp tạo ra. Họ giống như thầy Lêvi đi ngang qua một người đáng thương bị bọn cướp đánh đập. Đức Giêsu thấy họ từ bỏ vị Hôn Thê bị chấn thương của Người như những đứa trẻ hèn nhát và thiếu đức tin đã bỏ rơi người mẹ gần chết của chúng lúc nửa đêm khi trộm cướp xông vào nhà do chính tay chúng đã mở cửa cho bọn ấy. Người thấy chúng vội vã đem chiến lợi phẩm vào sa mạc, là các bình vàng và chuỗi hạt vụn vỡ. Người thấy chúng cắm lều dưới những cây nho dại, thật xa với cây nho đích thật. Người thấy chúng như những con chiên lạc làm mồi cho sói dữ, được những người làm thuê hèn hạ dẫn vào đồng cỏ độc hại thay vì đi vào một ràn của Mục Tử Nhân Hậu, đã hiến mạng sống vì đàn chiên. Người thấy chúng lang thang không nơi nương tựa, sẵn sàng nhắm mắt không muốn nhìn thành thánh của Người trên núi cao, và không thể che giấu được. Người thấy chúng tản mác trong sa mạc, lang thang đó đây bởi sự đổi chiều của các ngọn gió giữa đồi cát; nhưng chúngï không thấy mái nhà của vị Hôn Thê, là Giáo Hội, được xây trên đá, mà Người đã hứa sẽ tồn tại cho đến tận thế, và không cửa hỏa ngục nào có thể phá nổi. Họ không muốn vào cửa hẹp, vì họ không muốn cúi đầu tuân phục. Người thấy họ đi theo các nhà lãnh đạo dẫn họ đi khắp nơi khắp chốn, nhưng không đến được cửa thật. Họ xây trên cát đủ loại lều tranh dễ tàn lụi, không có bàn thờ cũng không có lễ vật, trên mái có chong chóng để xem gió thổi chiều nào mà quay học thuyết của họ theo chiều đó; hậu quả là họ luôn chống đối nhau, không hiểu nhau, không có lập trường cố định. Người thấy họ nhiều lần phá hủy căn lều của họ và ném các tàn tích vào tảng đá góc của Giáo Hội nhưng Giáo Hội vẫn đứng vững không lay chuyển. Người thấy trong bọn có nhiều người từ chối đi theo ánh sáng được đặt trên đế cao trong căn nhà vị Hôn Thê. Họ nhắm mắt đi lang thang chung quanh khu vườn đóng kín của Giáo Hội mà chỉ cần hương hoa thôi cũng giúp họ sống sót. Họ giang tay theo các bóng đen, lang thang theo các tinh tú dẫn họ đến những giếng cạn. Khi ở bờ giếng, họ không để ý đến tiếng gọi của vị Hôn Thê đang kêu gọi và dù sắp chết đói, họ vẫn nhạo báng một cách kiêu căng và khinh bỉ những người phục dịch mời họ đến dự tiệc cưới. Họ không muốn vào khu vườn vì sợ gai đâm. Đức Giêsu thấy họ đói khát, nhưng không có lúa ăn và rượu uống. Họ bị đầu độc bởi sự tự kiêu tự đại và bị mù quáng vì sự minh mẫn của chính họ, do đó họ không ngừng rêu rao rằng Giáo Hội của Ngôi Lời Nhập Thể thì vô hình. Đức Giêsu thấy tất cả, đau buồn cho tất cả, và ao ước chịu đau khổ cho tất cả, ngay cả những ai không thấy Người, không vác thập giá của họ theo Người trong Giáo Hội, là những người mà Đức Giêsu đã hy sinh chính mình trong Bí Tích Cực Thánh; trong Thành Thánh của Người xây trên núi cao và không có gì che khuất được; trong Giáo Hội mà Người được thiết lâp trên đá tảng và cửa hoả ngục không thể nào phá nổi.
Tất cả những thị kiến vô số kể này về sự vô ơn của con người và sự lạm dụng của họ về cái chết cứu chuộc của Đức Lang Quân Thiên Đình của tôi đã diễn ra trước linh hồn đau khổ của Chúa Giêsu, trong những hình ảnh luôn thay đổi, và cứ như thế tiếp tục. Tôi thấy dưới con mắt của Đức Giêsu, Satan trong nhiều hình dạng ghê sợ lôi kéo và xiết cổ những người đã được cứu chuộc bằng Máu thánh Người; phải, ngay cả những người được xức dầu với Bí Tích của Người. Với sự thống khổ cay đắng, Đức Giêsu nhìn thấy tất cả sự vô ơn, thối nát của các Kitô Hữu trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong khi những hình ảnh này diễn ra trước mắt Người, tiếng nói của tên cám dỗ không ngừng thì thầm vào Nhân Tính của Người: "Thấy chưa! Làm sao Ngươi chịu nổi những đau khổ đó khi thấy sự vô ơn như thế?" Các lời lẽ này, cộng với sự chế nhạo và ghê tởm mà Người thấy trong các hình ảnh thay đổi nhanh chóng, lại tàn bạo đè nặng lên Người mà Nhân Tính Cực Thánh của Người như tan nát dưới sức nặng của thống khổ khôn tả xiết. Nhân tính của Đức Kitô quằn quại trong đau khổ và Người nắm chặt đôi tay lại. Khi quá sức chịu đựng, Người qụy xuống nhiều lần, trong khi cuộc tranh đấu dữ dội vẫn tiếp diễn giữa ý muốn nhân tính của Người và sự phản kháng không muốn chịu đau khổ quá nhiều cho một giống người quá vô ơn, đến nỗi mồ hôi máu toát ra và chảy ròng ròng xuống đất. Phải, Người bị chèn ép quá đỗi đến độ dường như Người liếc mắt nhìn quanh để tìm giúp đỡ, như muốn kêu gọi Thiên Đàng và trái đất cũng như các tinh tú bầu trời hãy chứng kiến sự thống khổ của Người. Dường như tôi nghe Người kêu lớn: "Ôi chao, có thể nào chịu đựng được sự vô ơn đến thế! Các ngươi hãy chứng kiến sự đau đổ cùng cực của Ta!"
Vào lúc đó, mặt trăng và các tinh tú dường như hạ gần xuống mặt đất, và cùng lúc ấy tôi cảm thấy đêm trở nên sáng hơn. Tôi nhận thấy trên mặt trăng có cái gì tôi chưa bao giờ thấy. Nó trông thật lạ. Nó không hẳn đầy đặn, nhưng dường như nó lớn hơn mọi khi. Ở chính giữa, tôi thấy có một đốm đen. Trông như cái đĩa nằm ở phía trước. Ở giữa đĩa này, dường như có một lỗ hổng qua đó luồng ánh sáng chiếu đến mặt trăng không được đầy đủ. Đốm đen ấy như một ngọn núi, và chung quanh mặt trăng là các vòng ánh sáng như một cầu vồng.
Trong cảnh khốn cùng nghiêm trọng này, Đức Giêsu đã nhiều lần lớn tiếng kêu la đau khổ. Tôi thấy ba Tông Đồ thức dậy trong lo sợ. Giơ cao đôi tay, họ lắng nghe tiếng kêu của Đức Giêsu và chuẩn bị chạy đến với Người. Nhưng ông Phêrô chặn Giacôbê và Gioan lại, và nói: "Hãy ở lại đây! Tôi sẽ đến với Ngài." Và tôi thấy ông chạy vội đến hang, kêu lớn, "Lạy Thầy, có chuyện gì vậy?" -- nhưng ông ngập ngừng kinh sợ khi thấy Đức Giêsu đẫm máu và run sợ. Đức Giêsu không trả lời và dường như không biết có sự hiện diện của ông. Sau đó ông Phêrô trở lại với hai người kia, và cho biết Đức Giêsu chỉ trả lời ông trong tiếng thở hổn hển và rên rỉ. Điều này tăng thêm sự lo buồn của các Tông Đồ. Họ trùm đầu, ngồi than thở và cầu nguyện trong nước mắt.
Tôi lại quay về với Đức Lang Quân Thiên Đình của tôi đang trong tình trạng thống khổ cay đắng của Người. Những hình ảnh ghê sợ của lòng vô ơn và những hành động sai lầm của các thế hệ tương lai với những món nợ họ phải trả và hình phạt họ phải chịu thì Người sắp gánh vào mình và lãnh thay cho họ, đã bao phủ lấy Người với biết bao hình ảnh khủng khiếp ngày càng gia tăng. Cuộc chiến chống lại phản ứng tự nhiên không muốn chịu đau khổ của nhân tính Người vẫn tiếp diễn, và vài lần tôi nghe Người kêu lớn: "Cha ơi, làm sao có thể chịu đựng nổi tất cả những điều này? Ôi Cha ơi, nếu chén này không thể cất khỏi Con được thì Con xin vâng theo thánh ý Cha!"
Giữa tất cả các hình ảnh tiêu biểu cho tội xúc phạm đến Lòng Thương Xót Chúa, tôi thấy Satan dưới nhiều hình thức ghê tởm, mỗi hình thức ám chỉ một tội đặc biệt và sau đó được phơi bầy ra. Đôi khi nó xuất hiện như một con người đen thui, hoặc một con cọp, con chồn, con sói, con rồng, con rắn; không phải nó thực sự ở dưới dạng bất cứ con vật nào, nhưng nó phơi bầy các đặc tính chính yếu của bản chất cộng với những hình thù gớm ghiếc. Trông chúng không giống với bất cứ tạo vật nào. Đó là những biểu tượng của bất hòa, ghê tởm, của mâu thuẫn, sợ hãi, tội lỗi -- nói tóm lại đó là những hình dạng ma quỷ. Và qua các hình dạng xấu xa này, Đức Giêsu nhìn thấy vô số người xúi giục, cám dỗ, và xâu xé-các linh hồn mà Người muốn cứu vớt khỏi quyền lực của Satan. Người chuẩn bị đi vào con đường dẫn đến cái chết cay đắng trên Thập Giá. Lúc đầu tôi chỉ trông thấy một con rắn nhỏ thôi, nhưng sau này nó trở nên khổng lồ, và đầu đội vương miện. Với sức mạnh khủng khiếp nó dẫn theo cả một đoàn người thuộc mọi giai cấp và dòng giống, nó chuẩn bị tấn công Đức Giêsu. Được trang bị với đủ loại vũ khí hủy diệt tối tân, có lúc họ chống nhau trong giây lát, nhưng sau đó họ tấn công Đức Giêsu một cách thô bạo cuồng nhiệt. Thật là một cảnh tượng đáng sợ. Khí giới của họ là gươm và giáo, giơ cao rồi đâm xuống như đập lúa xuống sàn; họ cuồng bạo đổ xuống Hạt Lúa Mì Thiên Đình đã đến thế gian chịu chết để vĩnh viễn nuôi dưỡng nhân loại với Bánh Sự Sống.
Tôi thấy Đức Giêsu ở giữa những kẻ giận dữ này, nhiều người trong họ dường như mù. Đức Giêsu bị thương tích nhiều, như thể vũ khí của họ đã thực sự đánh vào Người. Tôi thấy Người lảo đảo không vững, có khi đứng thẳng rồi sau đó ngã xuống đất. Bộ mặt con rắn nổi bật trong đạo quân này; nó luôn luôn mở đầu các cuộc tấn công mới. Nó quật đuôi về mọi phía, và tất cả những ai bị quật xuống đất hay bị đuôi nó quấn đều bị siết cổ, bị xé ra từng mảnh, hay bị nuốt chửng. Tôi được giải thích rằng hình ảnh những người đang xâu xé Đức Giêsu ra từng mảnh tượng trưng cho vô số những người đối xử tàn tệ với Người bằng nhiều cách, mà trong Thiên Tính và Nhân Tính của Người, Thân Thể và Linh Hồn Người, Xương Thịt và Máu của Người dưới hình thức bánh và rượu trong Bí Tích Cực Thánh, luôn hiện diện trong Mầu Nhiệm đó như Đấng Cứu Độ của họ. Trong những kẻ thù của Đức Giêsu, tôi nhận thấy những xúc phạm thuộc đủ mọi loại đối với Bí Tích Thánh, sự Đảm Bảo sống động về sự Hiện Diện cá biệt của Người với Giáo Hội Công Giáo. Tôi khiếp sợ nhìn các xúc phạm phát xuất từ sự chểnh mảng, bất kính, thiếu sót, cũng như những lạm dụng và tội phạm thượng xấu xa nhất. Tôi nhìn thấy những xúc phạm phát sinh từ việc thờ tà thần của thế gian này, từ sự tăm tối và lầm lạc tâm linh, sự hiểu biết nông cạn, từ sự sai sót, hoài nghi, cuồng tín, căm hờn, và những án tử hình đẫm máu. Tôi thấy đủ loại người trong những kẻ thù này: người mù và người què, người điếc và người câm, và các trẻ em. Có những người mù không muốn nhìn thấy sự thật; người què vì lười biếng, không muốn đi theo sự thật; người điếc không muốn nghe những báo động hay cảnh giác của chân lý; người câm không bao giờ muốn bảo vệ Chúa với vũ khí lời nói của mình; và sau cùng, các trẻ em bị hư hỏng vì nghe theo các bậc cha mẹ và thầy cô phàm tục vô luân, những người vùi đầu trong vui thú thế gian, bị đầu độc với kiến thức rỗng tuếch, và ghê tởm những điều thiêng liêng, dù rằng họ thèm khát những điều đó. Trong các em này (hình ảnh buồn lòng tôi nhất, vì Đức Giêsu rất yêu mến các em), tôi đặc biệt nhận thấy nhiều em được dạy bảo cách tệ hại, được nuôi dưỡng cách xấu xa, và các thầy dạy không thích hợp vì họ không vinh danh Đức Kitô trong Thánh Lễ. Tội lỗi của họ một phần là vì thầy giáo và sự cẩu thả của những người dọn lễ. Nhưng tôi khiếp sợ khi thấy nhiều linh mục, đủ loại phẩm trật cao thấp-phải, ngay cả những người tự cho mình là đầy đức tin và đạo đức-đã góp phần xúc phạm đến Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh. Trong nhiều người ấy, tôi thật buồn rầu vì đã nhìn thấy - tôi phải cảnh cáo giai cấp này thôi - và đó là: Tôi thấy một số những người tin, tôn thờ, và dạy bảo về sự Hiện Diện của Thiên Chúa Hằng Sống trong Bí Tích Cực Thánh, nhưng không có lòng yêu mến đầy đủ. Họ quên sót, chểnh mảng không chăm sóc cung điện, ngai tòa, ghế ngồi, những đồ trang sức trọng thể của Vua Trời đất, đó là nhà thờ, bàn thờ, nhà tạm, chén thánh, mặt nhật của Thiên Chúa hằng sống, cùng với tất cả bình lọ, đồ gỗ, các trang hoàng, lễ phục, và tất cả những gì được dùng trong sự thờ phượng Người, hoặc tô điểm nhà của Người. Tất cả những thứ này bị bụi bặm và rỉ sét che phủ một cách nhục nhã, đang mục nát và sau một thời gian bỏ bê sẽ tiêu tan. Việc phục vụ một Thiên Chúa hằng sống đã bị lơ là một cách đáng xấu hổ, và nơi đâu không có sự xúc phạm bên trong thì bên ngoài lại bị hổ thẹn. Những điều này không phải vì nghèo nàn thực sự, nhưng vì thờ ơ và lười biếng tuân theo các truyền thống xưa, vì bận tâm với những phù phiếm, công việc thế gian, và thường là vì tư lợi và tâm linh đã chết. Tôi thấy sự chểnh mảng này trong các nhà thờ giầu sang và trong những nơi sung túc vừa phải. Thật vậy, tôi thấy nhiều nhà thờ trong đó người ta yêu chuộng cái hào nhoáng thế gian và trang trí lòe loẹt thay vì những trang hoàng lộng lẫy thích hợp với một thế hệ thành kính. Điều mà nhà thờ giầu sang khoe khoang ngạo mạn thì nhà thờ nghèo lại điên rồ nhắm đến cái nghèo nàn và đơn giản của mình. Điều này nhắc tôi nhớ đến nguyện đường nghèo nàn của tu viện tôi ở, mà bàn thờ làm bằng đá quý lại bị bao phủ bằng một lớp gỗ có những đường gân bắt chước cẩm thạch, một điều luôn làm tôi thất vọng.
Hình ảnh về những xúc phạm đối với Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể tôi thấy lại gia tăng bởi vô số người có trách nhiệm trông coi nhà thờ, họ hoàn toàn thiếu cảm nhận về sự công bằng, họ không chia sẻ điều tối thiểu họ có với Đấng Cứu Thế hiện diện trên bàn thờ, dù chính Người đã chịu chết cho họ, dù Người vẫn ở với họ trong Bí Tích. Ngay cả các tạo vật nghèo nàn nhất cũng có vẻ khá hơn Chúa Trời đất trong các nhà thờ của Người. Ôi, sự thiếu ân cần của loài người đã làm Đức Giêsu khổ sở là dường nào, mà chính Người đã hiến thân làm Lương Thực cho họ! Thật vậy, người giầu có không cần phải tiếp đãi Đấng có thể ban thưởng gấp ngàn lần người giúp cho kẻ đang khát một ly nước lạnh! Và Người khao khát chúng ta là dường nào! Bộ Người không được than phiền khi nước chứa đầy sâu bọ đựng trong các ly dơ bẩn đem dâng cho Người hay sao? Qua sự chểnh mảng đó, tôi thấy kẻ yếu đuối bị vấp phạm, Cung Thánh bị xúc phạm, nhà thờ bị bỏ hoang, các thừa tác viên bị khinh miệt. Tình trạng ô uế và chểnh mảng này nhiều khi nối dài đến các linh hồn của Tín Hữu. Họ không giữ gìn cho Đền Thờ tâm hồn là nơi đón nhận Thiên Chúa được thanh sạch hơn là nhà tạm trên bàn thờ. Vì sự nịnh bợ vua chúa thế gian, cũng như để chiều theo thị hiếu và kiểu cọ trần tục, nên các giáo sĩ ngu dốt này đã tích cực và cẩn thận vận dụng mọi phương tiện để họ được vừa lòng, trong khi Vua Trời đất thì giống như Lagiarô nằm ngoài cổng, thở dài tuyệt vọng khi bị từ chối những mẩu vụn tình yêu. Người không có gì khác hơn ngoài các thương tích do chính chúng ta gây nên và các con chó đến liếm, có thể nói đó là những người thường xuyên tái phạm tội, họ giống như con chó mửa ra rồi lại nuốt vào.
Dù tôi có nói cả năm đi nữa, cũng không kể hết được các xúc phạm khác nhau đối với Đức Giêsu Kitô trong Bí Tích Thánh Thể, Đấng đã cho tôi biết theo phương cách này. Trong đám Đông, tôi thấy những người xúc phạm tấn công và đánh đập Chúa gục xuống đất với vũ khí trong tay thích hợp với loại tội ác mà họ đã phạm. Tôi thấy các người dọn lễ bất kính của mọi thế kỷ, các linh mục hời hợt, tội lỗi, bất xứng dâng Thánh Lễ và phân phát Mầu Nhiệm Thánh, và vô số người rước lễ hờ hững và bất xứng. Tôi thấy vô số người đã biến Nguồn ơn sủng, Mầu Nhiệm của Thiên Chúa hằng sống trở thành lời nguyền rủa khi giận dữ, và các người lính điên tiết cũng như các tôi tớ ma quỷ làm ô uế các chén thánh, họ quăng ném Bí Tích Cực Thánh, họ vi phạm trắng trợn Mình Thánh, hoặc xỉ nhục Mình Thánh trong khi thờ cúng tà thần một cách xấu xa và ghê tởm. Bên cạnh những hành động tàn ác dã man và ghê tởm này, tôi thấy vô số các hình thức vô thần tinh tế và khôn khéo hơn nhưng không kém tàn ác. Tôi thấy nhiều linh hồn, vì gương xấu và sự phản bội của các thầy cô, đã không còn tin tưởng vào lời hứa của Đức Giêsu là Người luôn ở với họ trong Bí Tích Thánh Thể, và họ không còn khiêm tốn thờ lạy Đấng Cứu Thế đang hiện diện trong đó. Tôi thấy rất nhiều thầy tội lỗi đã trở thành những nhà giáo dục sai lầm. Lúc đầu họ chống đối nhau, sau đó họ hợp lại chống Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh của Giáo Hội Người. Tôi thấy một đám Đông những người dị giáo khinh miệt tẩy chay chức linh mục của Giáo Hội, họ tấn công và từ chối sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong Mầu Nhiệm Thánh Thể qua một phương thế mà chính Người ban Mầu Nhiệm này cho Giáo Hội, là tổ chức đã thực sự duy trì điều đó. Bằng lời lẽ dụ dỗ, họ đã xé nát Trái Tim Đức Giêsu không biết bao lần mà Người đã đổ Máu vì họ. Ôi chao! Thật kinh sợ khi phải nhìn cảnh tượng này! Vì tôi thấy Giáo Hội như Thân Thể của Đức Giêsu, mà các phần tử tản mát của Giáo Hội, nhờ Người, được đan quyện với nhau trong cuộc Khổ Nạn cay đắng của Người. Tôi thấy tất cả những người ấy, tất cả các gia đình ấy với con cháu của họ tách biệt khỏi Giáo Hội, bị xé ra khỏi Đức Giêsu như các mảnh thịt nham nhở và rách nát đau khổ nhất từ thân thể Người. Ôi chao! Người ghé mắt nhìn họ đầy lòng trắc ẩn, Người chỉ khẽ rên rỉ! Để kết hợp với thân thể của Giáo Hội Người, với thân thể của Hôn Thê Người, loài người quá phân tán, quá chia rẽ nhau, Người đã phải hiến chính mình trong Bí Tích Thánh để làm Lương Thực cho họ, phải nhìn thấy chính mình trong thân thể của Hôn Thê Người, bị xâu xé và tan nát vì hoa trái xấu xa của cây chia rẽ. Bàn Tiệc hợp nhất trong Bí Tích Thánh, tác phẩm tình yêu cao cả nhất của Đức Giêsu, mà trong đó Người muốn ở mãi với nhân loại, đã trở nên lằn ranh chia cách vì sự sai lầm của các thày giảng. Và nơi mà chỉ có sự thiện hảo và ơn sủng để tất cả nên một, có thể nói là Bàn Tiệc Thánh, trên đó chính Thiên Chúa hằng sống là Lương Thực, thì nơi ấy con cái của Người phải tách biệt khỏi những người không theo đạo và lạc giáo để đừng phạm vào các tội tương tự. Trong phương cách này tôi thấy nhiều quốc gia bị giật xé ra khỏi Trái Tim Đức Giêsu và không được dự phần trong các kho tàng ơn sủng đã để lại cho Giáo Hội. Thật kinh hoàng khi nhìn thấy tại sao lúc đầu chỉ có một ít người tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo; và rồi, khi đã gia tăng đến toàn thể quốc gia, họ trở lại tấn công Giáo Hội và gây chiến với nhau về vấn đề đâu là sự thánh thiêng nhất trong phụng tự, có thể nói là Bí Tích Thánh. Nhưng sau cùng, tôi thấy tất cả những người tách biệt khỏi Giáo Hội đều lao mình vào sự bất trung, mê tín, lạc giáo, tăm tối và triết thuyết lầm lạc của thế gian. Bối rối và giận dữ, họ kết hợp với nhau trong một tổ chức lớn để trút cơn giận lên Giáo Hội. Họ bị thúc giục và bị tiêu diệt bởi con rắn đang ở giữa họ. Ôi chao! Đức Giêsu cảm thấy chính Người bị xâu xé thành biết bao mảnh vụn. Đức Giêsu thấy và cảm được trong hình ảnh đau buồn này toàn thể sức nặng của cây chia rẽ độc địa với tất cả cành lá của nó, mà nó sẽ tiếp tục xé nát chính nó rời ra cho đến tận thế, khi lúa sẽ được thu vào kho lẫm và trấu sẽ bị quăng vào lửa.
Khi thấy tất cả những điều này, sự kinh hoàng tôi cảm được thật quá lớn lao, quá khủng khiếp đến nỗi Đấng Lang Quân Thiên Đình phải xuất hiện bên tôi, và nhân từ đặt tay trên ngực tôi, Người nói: "Chưa có ai từng được thấy những điều này, và tim con sẽ vỡ ra vì sợ hãi, nếu Thầy không giữ nó lại."
Bây giờ tôi thấy những giọt máu đậm đặc nhỏ xuống trên khuôn mặt nhợt nhạt của Chúa. Mái tóc mượt mà của Người trước đây nay bêõ bết máu, rối tung và lởm chởm trên đầu, và râu của Người cũng tả tơi đầy máu. Chính sau hình ảnh ấy, trong đó bọn lính vũ trang xé rách thân thể Người, mà Người quay lưng như thể rời khỏi hang, và trở lại với các môn đệ. Nhưng bước chân Người quá chập choạng. Người cúi đầu lảo đảo bước đi dưới một sức nặng ghê gớm. Thân thể Người đầy thương tích và té ngã từng bước. Khi đến với ba Tông Đồ, Người không thấy họ nằm ngủ như lần đầu; họ gục đầu vào hai đầu gối như tôi thường thấy người dân địa phương ngồi như vậy khi buồn sầu hay khi họ cầu nguyện. Kiệt quệ vì lo buồn và mệt mỏi, họ chìm vào giấc ngủ; nhưng khi Đức Giêsu đến gần, run rẩy và rên rỉ thì họ thức dậy. Họ nhìn Người với cặp mắt mệt mỏi, nhưng không nhận ra Người ngay, vì Người thay đổi ngoài sự diễn tả của ngôn ngữ. Dưới ánh trăng, Người đứng trước mặt họ, ngực Người thóp vào, dáng Người cong xuống, khuôn mặt Người xanh xao và có vết máu, tóc Người rối nùi, và cánh tay Người giang ra về phía họ. Các Tông Đồ bật đứng dậy, nắm cánh tay Người và âu yếm đỡ lấy Người. Sau đó Người đau khổ nói với họ rằng ngày mai Người sẽ chết. Trong một giờ nữa, kẻ thù sẽ bắt Người, lôi Người ra trước tòa án, hành hạ Người, lăng mạ Người, đánh đòn Người, và xử tử Người một cách khủng khiếp nhất. Người yêu cầu họ an ủi Mẹ Người. Trong sự thống khổ cay đắng Người kể lại cho họ tất cả những gì Người sẽ phải chịu cho tới tối ngày mai, và Người lại yêu cầu họ an ủi Mẹ Người và Mađalêna. Người đứng nói chuyện trong giây lát, nhưng các Tông Đồ vẫn im lặng, không biết trả lời sao. Họ quá buồn phiền và khiếp đảm trước diện mạo và lời nói của Người nên họ không biết nói gì; thật vậy, họ còn nghĩ rằng tâm trí Người đang hoang mang. Khi Người muốn trở lại hang, Người không còn sức nữa. Tôi thấy ông Gioan và Giacôbê phải dìu Người đi. Khi vào trong, các Tông Đồ từ giã Người và trở lại chỗ cũ. Lúc bấy giờ là mười một giờ mười lăm.
---------------------------------------
CHƯƠNG IV
Trong sự thống khổ này của Đức Giêsu, tôi thấy Đức Trinh Nữ tràn ngập buồn phiền đau khổ trong nhà bà Maria Máccô. Người đang ngồi trong khu vườn cạnh nhà cùng với bà Mađalêna và bà Maria Máccô. Người khụy xuống trên một phiến đá. Người tuyệt đối lắng đọng, tư tưởng tách biệt khỏi mọi sự chung quanh, và chỉ nhìn thấy, cảm thấy những đau khổ của Con của người. Đức Trinh Nữ đã sai người đi nghe ngóng tin tức về Đức Giêsu, nhưng không thể chờ đợi họ, vì nóng lòng người đi đến thung lũng Giosaphát cùng với bà Mađalêna và bà Salômê. Tôi thấy người trùm khăn vừa đi vừa giang tay về núi Cây Dầu, là nơi mà qua thần khí, người nhìn thấy Đức Giêsu đang chịu thống khổ và đổ mồ hôi máu. Dường như với cánh tay giang rộng người có thể lau mặt cho Đức Giêsu được. Đáp lại những cử chỉ say đắm trong nội tâm người đối với Đức Giêsu, tôi thấy Đức Giêsu rất cảm kích khi nghĩ về người. Đức Giêsu hướng mắt nhìn về phía Đức Maria như muốn tìm một sự giúp đỡ. Tôi nhìn thấy sự đồng cảm lẫn nhau này dưới dạng các tia sáng qua lại giữa hai Mẹ Con. Đức Giêsu cũng nghĩ đến bà Mađalêna và cảm thông với sự đau khổ của bà. Người đưa mắt nhìn về phía bà, và linh hồn Người xúc động khi nhìn thấy bà. Do đó Người chỉ thị cho các môn đệ hãy an ủi bà, vì Chúa biết bà yêu mến Chúa trên hết mọi người khác, chỉ sau Mẹ Người mà thôi. Đức Giêsu thấy bà sẽ phải chịu đau khổ vì Người trong tương lai, và cũng thấy rằng không bao giờ bà xúc phạm đến Người nữa.
Vào lúc này, khoảng mười một giờ mười lăm, tám Tông Đồ vẫn ở trong lùm cây Vườn Giệtsimani. Họ nói chuyện với nhau một lát rồi lăn ra ngủ. Họ nhát đảm, chán nản bất thường và bị cám dỗ nặng nề. Mỗi người đang cố tìm một nơi trú ẩn an toàn và lo lắng hỏi: "Chúng ta phải làm gì khi Người chết? Chúng ta đã từ bỏ bạn hữu, từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo hèn và bị thế gian khinh miệt, chúng ta tận tụy để phục vụ Người-và bây giờ, nhìn thấy Người bị dầy xéo bơ vơ thì sức lực nào có thể an ủi chúng ta!" Các môn đệ khác, sau khi lang thang mọi hướng và nghe nói về những lời tiên đoán khủng khiếp mà Đức Giêsu đã thốt ra thì hầu như mọi người đều rút về Bétphagiê.
Tôi lại thấy Đức Giêsu cầu nguyện trong hang đá. Người đã chiến thắng được bản tính tự nhiên không muốn chịu đau khổ. Kiệt quệ và run rẩy, Người kêu lên: "Cha ơi, nếu đó là ý Cha, xin cất chén này khỏi Con! Tuy nhiên, không phải ý Con mà xin cho ý Cha được thể hiện!"
Và bấy giờ một vực thẳm mở ra trước mặt Người và, như trên một con đường sáng, Người thấy một chuỗi bậc thang thật dài dẫn xuống lâm-bô. Ở đó Người thấy Adong và Evà, tất cả các Tổ Phụ và Ngôn Sứ, những người công chính của Luật Cũ, song thân của Mẹ Người, và Gioan Tẩy Giả. Họ đang nóng lòng chờ đợi Người đến với thế giới ấy mà khi thoạt nhìn thấy, Trái Tim nhân hậu của Người đã trở nên mạnh mẽ và can đảm. Cái chết của Người sẽ mở cửa Thiên Đàng cho những người bị giam cầm đang mòn mỏi đợi chờ! Người sẽ giải thoát họ khỏi tù đầy!
Sau khi Đức Giêsu cảm động nhìn các công dân Nước Trời của các thế hệ trước, các thiên thần lại chỉ cho Người thấy vô số các thánh trong tương lai, là những người cùng góp phần vào công nghiệp vì sự khổ nạn của Người, sẽ nhờ Người mà hiệp nhất với Chúa Cha trên Thiên Đàng. Thị kiến này đẹp và an ủi không bút nào tả xiết. Tất cả đều đi qua trước mặt Chúa Đông vô kể, thuộc mọi dân tộc, mọi cấp bậc phẩm giá-tất cả được tô điểm bằng những đau khổ và việc lành của họ. Sau đó Người thấy các dòng suối cứu độ và thánh hóa bất tận và ẩn giấu được tuôn ra từ cái chết đang chờ đợi Người, là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Các Tông Đồ, các môn đệ, các thánh đồng trinh và các thánh Nam nữ, các vị tử đạo, các vị hiển tu, và ẩn tu, các Giáo Hoàng và Giám Mục, vô số các tu sĩ Nam nữ trong tương lai-tóm lại, cả một đạo binh không kể xiết các thánh diễn hành trước mặt Người. Các bông hoa trên vương miện của họ thì khác nhau về hình thức, mầu sắc, hương thơm, và nghị lực tùy theo các loại đau khổ, cực nhọc và chiến thắng mà họ đã vẻ vang dành được. Toàn thể cuộc đời và hoạt động của họ, giá trị và sức mạnh đặc biệt của cuộc chiến đấu và sự khắc phục của họ, cũng như mọi ánh sáng, mọi mầu sắc tượng trưng cho thắng lợi của họ, chỉ xuất phát từ sự kết hợp với công nghiệp của Đức Giêsu. Aûnh hưởnh hỗ tương của các thánh này, nhờ cùng uống từ một Nguồn, có thể nói, Bí Tích Cực Thánh và sự Khổ Nạn của Chúa Giêsu, là một cảnh tượng tuyệt vời và cảm động khôn tả. Không có gì liên can đến họ xảy ra tình cờ: các công việc và điều chưa thực hiện, sự tử đạo và chiến thắng, y phục và diện mạo, dù rất khác biệt nhưng hài hòa và hợp nhất với nhau một cách bất tận. Và trong sự đa dạng độc đáo, sự hợp nhất tuyệt hảo này phát sinh từ những tia sáng và mầu sắc lóng lánh của một Thái Dương, từ cuộc Khổ Nạn của Chúa, Ngôi Lời trở thành Xác Phàm, trong đó là sự sống, là ánh sáng của loài người, chiếu soi tăm tối, nhưng tăm tối không lĩnh hội được.
Chính đạo binh các thánh tương lai đi qua linh hồn Chúa Giêsu. Do đó, Đấng Cứu Thế đứng giữa sự khao khát nồng nhiệt của các Tổ Phụ và sự chiến thắng Đông đảo của các thánh tương lai, cả hai bổ sung và bù đắp cho nhau, có thể nói đã bao bọc Trái Tim nhân hậu của Đấng Cứu Thế như một vương miện khải hoàn vĩ đại. Cảnh tượng cảm động không nói nên lời này đã đem lại cho linh hồn Đức Giêsu một sức mạnh và an ủi, sau khi Người đã cho phép đủ mọi đau khổ của con người diễn ra trước mặt. Ôi chao, Người quá thương yêu anh chị em mình, tạo vật của Người, đến nỗi Người sẵn sàng chịu chết cho tất cả chỉ để mua lấy một linh hồn! Khi các thị kiến này ám chỉ về tương lai, chúng hiện ra bay lượn trên mặt đất.
Nhưng giờ đây các hình ảnh khuây khỏa ấy biến đi, và các thiên thần cho Người thấy tất cả các cảnh tượng của cuộc Khổ Nạn sắp đến. Những cảnh này xuất hiện sát mặt đất, vì đã gần đến giờ. Có nhiều diễn viên thiên thần trong các cảnh này. Tôi nhìn thấy mọi người gần với Đức Giêsu, từ cái hôn của Giuđa cho đến những lời cuối cùng của Người trên thập giá. Tôi thấy tất cả, tất cả lại xảy ra một lần nữa như khi tôi thường thấy trong lúc chiêm niệm cuộc Khổ Nạn. Sự phản bội của Giuđa, sự trốn chạy của các môn đệ, những lời chế diễu và đau khổ trước dinh Anna và Caipha, sự chối bỏ của Phêrô, phiên tòa xử của Philatô, sự nhạo báng của Hêrôđê, các đòn vọt và mão gai, án tử hình, sự Chúa ngã qụy dưới sức nặng của Thập Giá, cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ và người bị bất tỉnh, lời của bọn lý hình chế diễu Đức Trinh Nữ, khăn lau mặt của bà Vêrônica, cảnh đóng đinh man rợ vào Thập Giá rồi dựng lên, sự xỉ nhục của những người Pharisêu, nỗi phiền muộn của Đức Maria, của Mađalêna, và của Gioan, và sự bị đâm qua cạnh sườn-nói tóm lại, tất cả, tất cả thật rõ ràng, thật hiển nhiên, và với mọi chi tiết được diễn ra trước mắt Người. Mọi cử động, mọi tình cảm, và lời lẽ của lý hình sắp tới, tôi thấy, trong một linh hồn thống khổ và sợ hãi, Chúa đã nhìn thấy và nghe thấy. Người vui lòng chấp nhận tất cả, Người vui lòng phục tùng tất cả vì tình yêu nhân loại. Người đau khổ bối rối nhất khi bị trần truồng trên Thập Giá, mà Người gánh chịu để đền bù cho sự thiếu đoan trang của loài người, và Người nài nỉ xin giữ lại một mảnh vải tối thiểu để che thân trên Thập Giá, nhưng ngay cả điều này cũng không được phép. Tuy nhiên, tôi thấy Người được giúp đỡ không phải từ các lý hình, nhưng từ vài người tốt lành.
Đức Giêsu nhìn thấy và cảm được sự buồn phiền đau khổ của Mẹ Thánh Người. Với hai phụ nữ thánh thiện trong thung lũng Giôsaphát, linh hồn Đức Bàø không ngừng kết hợp với Người để thông phần đau khổ trong cơn hấp hối của Người trên núi Cây Dầu.
Gần cuối các thị kiến về cuộc Khổ Nạn này, Đức Giêsu ngã xấp mặt xuống đất như một người giãy chết. Các thiên thần và các thị kiến biến đi, và mồ hôi máu từ Người đổ ra nhiều hơn trước. Tôi thấy mồ hôi thấm ướt chiếc áo trắng nhạt của Người và ướt cả đất chung quanh. Bây giờ trong hang đá tối om.
Và giờ đây tôi thấy một thiên thần bay xuống phía Người. Về tầm vóc có vẻ lớn hơn, diện mạo có vẻ rõ nét và giống như con người hơn bất cứ thiên thần nào mà tôi thấy trước đây. Thiên thần này xuất hiện trong áo dài phất phới, như của một linh mục, được tô điểm với các đường ren viền. Người cầm trong tay, và ở trước ngực, một chén nhỏ có hình dạng một chén rượu được dùng trong bữa Tiệc Ly. Ngay phía trên chén, lơ lửng một mẩu nhỏ hình bầu dục, cỡ hạt đậu, chiếu tỏa ánh sáng mầu đỏ. Thiên thần bay trên chỗ Đức Giêsu đang nằm và đưa thẳng tay ra trước mặt Người. Khi Đức Giêsu đứng dậy, thiên thần đặt mẩu sáng đó vào miệng Người và đưa chén cho Người uống. Sau đó thiên thần biến đi.
Giờ đây Đức Giêsu đã tình nguyện chấp nhận chén Khổ Nạn, và Người được thêm sức mạnh mới. Người vẫn ở trong hang đá thêm một vài phút, đắm chìm trong cầu nguyện và tạ ơn. Thật sự Người vẫn chịu áp lực của đau khổ tinh thần, nhưng được thêm sức mạnh siêu nhiên nên không còn sợ hãi và lo âu, Người có thể bước đi vững chãi về hướng các môn đệ. Dù nhợt nhạt và kiệt lực, tác phong Người vẫn cương quyết chính trực. Người lau mặt với một mảnh vải và dùng vải ấy vuốt lại mái tóc đã bện lại với nhau vì đẫm máu và mồ hôi.
Khi Người rời hang đá, tôi thấy mặt trăng vẫn còn cái đốm đặc biệt trên đó và vòng tròn chung quanh; nhưng ánh sáng của nó, cũng như của các tinh tú, thật khác với lúc Đức Giêsu hấp hối. Bây giờ nó có vẻ tự nhiên hơn.
Khi Đức Giêsu trở lại với các môn đệ, Người thấy họ-như lúc đầu, nằm nghiêng một bên gần bức tường hành lang, che đầu và ngủ vùi. Chúa nói với họ: "Bây giờ không phải lúc để ngủ. Các con phải thức dậy và cầu nguyện, vì kìa, giờ đã đến, và Con Người sẽ bị nộp trong tay kẻ tội lỗi. Hãy thức dậy, chúng ta đi! Kìa, kẻ phản bội đang đến! Ôi, thà nó đừng sinh ra thì tốt hơn cho nó!" Các Tông Đồ choàng dậy sợ hãi và lo lắng nhìn quanh. Họ vừa mới hoàn hồi khi ông Phêrô hăng hái nói: "Thưa Thầy, con sẽ gọi những người khác đến bảo vệ Thầy!" Nhưng Đức Giêsu chỉ cho họ thấy ở đàng xa trong thung lũng, dù vẫn còn ở phía bên kia suối Xêron, một toán người vũ trang đang kéo đến tay cầm đèn đuốc. Người nói với các Tông Đồ là một trong bọn họ sẽ phản bội Người. Đây là điều mà họ cho rằng không thể nào xảy ra. Đức Giêsu trầm tĩnh lập lại điều này và một số điều khác, rồi Người lại khuyến khích họ an ủi Mẹ Người, và nói: "Chúng ta hãy đi gặp họ! Thầy sẽ tự nộp mình trong tay kẻ thù mà không kháng cự." Với những lời ấy, Người rời vườn Cây Dầu với ba Tông Đồ và đi ra gặp đám thuộc hạ trên con đường tách biệt khu vườn này với vườn Giệtsimani.
Đức Trinh Nữ, bà Mađalêna, và bà Salomê, và một số môn đệ tháp tùng là những người đã thấy quân lính tiến đến gần, tất cả rời thung lũng Giosaphát và về nhà bà Maria Máccô. Kẻ thù của Đức Giêsu đến bằng con đường ngắn hơn con đường mà Người đã đến từ Nhà Tiệc Ly.
Hang đá nơiø Đức Giêsu cầu nguyện đêm ấy không phải là nơi Người thường cầu nguyện trên núi Cây Dầu. Chỗ sau này là một cái hang xa hơn. Chính tại đây Người đã cầu nguyện sau khi nguyền rủa cây vả không trái. Sau đó tâm hồn ưu phiền Người dựa vào tảng đá giang rộng cánh tay ra cầu nguyện. Dấu tay của Người vẫn còn in trên đá, sau này là những thánh tích được sùng kính, mặc dù không rõ các dấu ấy được tạo thành vào dịp nào. Tôi thường thấy trên đá các dấu tay của các Ngôn Sứ thời Cựu Ước, của Đức Giêsu, Đức Maria, một số các Tông Đồ, thân thể của Thánh Catarina ở Aléchxanria trên núi Sinai, và của một số thánh khác. Các dấu ấy dường như không sâu, cả các đường nét cũng không rõ. Chúng giống như dấu vết được tạo thành khi ấn tay vào cục bột nhão rắn chắc.
---------------------
CHƯƠNG V
GIUĐA VÀ ĐỒNG BỌN - CÂY GỖ LÀM THẬP GIÁ
Ngay lúc khởi đầu hành động phản bội, chưa bao giờ Giuđa thực sự nhìn rõ hậu quả. Hắn muốn được phần thưởng của kẻ phản bội và muốn làm vui lòng người Pharisiêu bằng cách giả bộ giao nộp Đức Giêsu vào tay họ, nhưng hắn không bao giờ muốn sự việc ấy đi quá xa, hắn không bao giờ mơ tưởng là Đức Giêsu bị đưa ra trước tòa và bị đóng đinh. Hắn chỉ nghĩ đến tiền, và từ lâu hắn đã lén lút liên lạc với một vài người dọ thám Pharisiêu và Xađucê mà vì nịnh bợ họ đã xúi giục hắn phản bội. Hắn quá chán nản với một đời sống lang thang, mệt mỏi và bị bách hại của các Tông Đồ. Trong vài tháng qua, khởi đầu giai đoạn tụt dốc này hắn đã ăn cắp tiền người ta dâng tặng được giao cho hắn giữ; và tính tham lam đã xúi giục hắn đi đến chỗ quá độ sau khi thấy Mađalêna xức dầu thơm cho Đức Giêsu một cách phung phí. Hắn luôn trông đợi Đức Giêsu thiết lập một vương quốc tạm bợ ở trần gian mà chính hắn sẽ có một chức vụ nào đó thật sáng sủa và có lợi. Nhưng khi điều này không xảy ra, hắn quay sang việc cóp nhặt tài sản. Hắn thấy những khó nhọc và bách hại ngày càng gia tăng; và vì vậy hắn nghĩ rằng trước khi mọi việc tệ hại hơn, hắn sẽ làm cho một số người quyền thế và nổi tiếng trong các kẻ thù của Đức Giêsu mến chuộng hắn. Hắn thấy Đức Giêsu không muốn làm vua, trong khi dưới con mắt của hắn thì các Thượng Tế và các nhân vật nổi tiếng của Đền Thờ lại là những kẻ có sức hấp dẫn. Và vì vậy hắn lân la làm quen với các thuộc hạ của họ, mà những tên này tâng bốc hắn bằng mọi cách cũng như bí mật nói với hắn phải sớm chấm dứt sự nghiệp của Đức Giêsu bằng mọi giá. Trong vài ngày vừa qua, chúng đi theo hắn đến Bêtania, và vì vậy càng ngày hắn càng chìm sâu vào đồi bại. Hắn chạy chọt muốn rã rời đôi chân để xúi các Thượng Tế đi đến một quyết định nào đó. Nhưng họ không chấp nhận và lại đối xử khinh miệt với hắn. Họ nói thời gian trước kỳ lễ thì quá ngắn. Nếu bất cứ hành động nào xảy ra ngay bây giờ sẽ gây nên khó khăn và làm náo động ngày lễ. Chỉ có Đại Công Nghị chú ý phần nào đến các đề nghị của hắn. Sau khi Giuđa phạm thượng lãnh nhận Bí Tích, Satan đã hoàn toàn khống chế hắn và ngay lập tức hắn tiếp tục chu toàn tội ác ghê tởm của mình. Đầu tiên hắn đi tìm các tên thuộc hạ đó mà cho đến nay chúng vẫn tâng bốc hắn và tiếp đón hắn như bạn bè. Một số người khác cũng tham dự, trong số đó có Caipha và Anna, nhưng tên sau này đối xử với hắn thật cộc cằn và đầy khinh bỉ. Cả bọn họ thiếu quyết tâm và không tin tưởng ở kết quả, cũng như không tin tưởng Giuđa.
Tôi thấy hỏa ngục tự chia rẽ với nhau. Satan muốn thấy tội ác của người Do Thái qua cái chết của Đức Giêsu, Người Vô Tội; còn hắn thì nóng lòng mong mỏi cái chết của Đức Giêsu, Đấng Hoán Cải tội nhân, Thầy Chí Thánh, Đấng Cứu Độ, Người Công Chính, người mà hắn ghét cay ghét đắng. Nhưng đồng thời hắn cảm thấy lo sợ khi nghĩ đến cái chết vô tội của Đức Giêsu, là người không tìm cách che giấu chính Mình, không cứu chính Mình; Satan ghen tức với Đức Giêsu về khả năng chịu đựng đau khổ dù Người vô tội. Và vì thế tôi thấy có sự đối nghịch ở một phía ma quỷ đang khích động sự căm thù và thịnh nộ của những kẻ thù Đức Giêsu đang vây quanh tên phản bội; và đàng khác, ma quỷ lại rỉ tai một số người rằng Giuđa chỉ là một tên đểu cáng, xỏ lá, rằng việc kết án không thể tuyên bố trước ngày lễ, hoặc không có được đủ số chứng nhân cần thiết để buộc tội Đức Giêsu.
Chúng bày tỏ quan điểm đối nghịch về việc bắt giữ Đức Giêsu, và một số đặt vấn đề với Giuđa: "Liệu chúng ta có thể bắt được y hay không? Yù không có một đội quân nào sao?" Tên phản bội trả lời: "Không! Ông ta chỉ có một mình với mười một môn đệ. Chính ông ta thì chán nản hết chỗ nói còn mười một tên kia thì nhút nhát." Giuđa còn nói với họ bây giờ là lúc thuận tiện để bắt Đức Giêsu, ngay bây giờ chứ không còn lúc nào khác, vì sau này có thể hắn không còn khả năng để trao nộp Đức Giêsu vào tay họ, và có thể hắn không bao giờ trở lại với Người. Hắn nói, vì trong vài ngày qua và nhất là ngay hôm đó, các môn đệ và chính Đức Giêsu đã có lời lẽ ám chỉ đến hắn; có lẽ các ngài đoán ra được điều hắn sắp thi hành, và nếu hắn trở lại, chắc chắn các ngài sẽ giết hắn. Giuđa nói thêm, nếu bọn họ không bắt Đức Giêsu bây giờ, Người sẽ vượt thoát và sẽ trở lại với một đạo quân Đông hơn, và sẽ tự tuyên xưng là vua. Với những đe dọa như vậy, sau cùng Giuđa đã thành công. Họ nhượng bộ các đề nghị của Giuđa để bắt Đức Giêsu theo kế hoạch của hắn, và trả hắn ba mươi đồng bạc, giá của phản bội. Ba mươi đồng này làm bằng bạc dát mỏng, hình dạng giống như cái lưỡi. Ở một đầu có đục lỗ để xỏ thành từng xâu. Mỗi đồng mang một vài hình tượng.
Giuđa không thể chịu nổi sự hồ nghi rõ ràng và khinh miệt mà người Pharisiêu đối xử với hắn. Vì kiêu ngạo và khoe khoang hắn đề nghị dâng số tiền vừa nhận vào Đền Thờ. Hắn nghĩ làm như vậy sẽ có vẻ là một người công chính và không vụ lợi trước mặt họ. Nhưng họ từ chối số tiền đó, vì là giá máu nên không thể dâng vào Đền Thờ. Giuđa cảm thấy bị khinh thường ra mặt nên lòng đầy giận dữ. Hắn không ngờ bị đối xử như vậy. Hậu quả của sự phản bội đã tấn công Giuđa ngay cả trước khi các kế hoạch quỷ quái được thi hành; nhưng bây giờ hắn quá bận rộn với các ông chủ mới, hắn đang nằm trong tay họ và không thể nào thoát được. Họ canh chừng Giuđa chặt chẽ và không để hắn vượt khỏi tầm mắt cho đến khi hắn trình bầy toàn bộ kế hoạch để bắt Đức Giêsu. Sau đó, ba người Pharisiêu đi với tên phản bội xuống sảnh đường là nơi có đội lính gác Đền Thờ. Không ai trong ba người này là Do Thái thuần chủng; họ thuộc giống dân khác hoặc lai giống. Khi tất cả đồng ý và khi số lính cần thiết đã quy tụ lại, với một tên đầy tớ của người Pharisiêu tháp tùng, Giuđa đã chạy đến Nhà Tiệc Ly trước để xem có còn Đức Giêsu ở đó hay không; vì nếu như vậy, họ có thể bắt Người dễ dàng khi đặt lính gác ngoài cửa.
Không lâu trước đó, sau khi Giuđa nhận tiền để phản bội, một người Pharisiêu đi xuống và sai bẩy người nô lệ đi kiếm cây gỗ và chuẩn bị sẵn sàng làm Thập Giá cho Đức Kitô trong trường hợp Người bị đưa ra xét xử, vì ngày hôm sau là Lễ Vượt Qua nên không đủ thời giờ để làm điều đó. Họ mua cây gỗ này từ một nơi cách đó bốn mươi lăm phút, và cây này được dựa vào tường cùng với một số cây khác thuộc quyền sở hữu của Đền Thờ, và họ kéo về để ở công trường sau tòa án của Caipha. Khúc gỗ làm Thập Giá thuộc giống cây từng mọc ở thung lũng Giôsaphát gần suối Xêron. Sau khi bị gẫy nằm vắt ngang qua con suối, khúc gỗ này từng được sử dụng như một cây cầu. Khi Nêhêmia giấu lửa thánh và các chén thánh trong hồ Bétsaiđa, cây này cùng với các khúc gỗ khác được dùng như vật để che đậy; sau này, nó lại bị lấy đi và quăng vào đống gỗ khác. Một phần vì ý định nhạo báng vương quyền của Đức Giêsu, một phần vì ngẫu nhiên-nhưng thực tế thì đó là kế hoạch của Thiên Chúa-nên Thập Giá được hình thành một cách rất đặc biệt. Cùng với tấm bảng ghi chữ, Thập Giá gồm năm mảnh khác nhau. Tôi được nhìn thấy nhiều dữ kiện, nhiều ý nghĩa khác nhau có liên hệ đến Thập Giá, nhưng ngoại trừ những gì đã kể, tôi quên hết tất cả.
Giuđa trở lại và cho biết Đức Giêsu không còn ở Nhà Tiệc Ly. Do đó, chắc chắn Người phải ở nơi quen thuộc trên núi Cây Dầu để cầu nguyện. Giuđa nài nỉ là chỉ sai một ít lính đi với hắn thôi, đừng để các môn đệ đang có mặt khắp nơi canh chừng sẽ nhận thấy sự khác thường và xúi dân nổi loạn. Ba trăm người được bố trí tại các cổng và đường phố ở Ôphen, là một phần của thành phố về phía Nam Đền Thờ, và dọc theo thung lũng Milô kéo dài đến tận nhà của Anna ở Sion. Họ sẵn sàng tăng viện nếu cần, vì như Giuđa nhắc nhở người Pharisiêu, Đức Giêsu coi tất cả đám dân nghèo ở Ôphen là môn đệ của Người. Tên phản bội bỉ ổi cũng nói với họ phải thật cẩn thận vì Đức Giêsu có thể vượt thoát, và hắn nhắc lại sự kiện là, nhờ một vài thuật huyền bí, Người đã có thể trở nên vô hình ngay lập tức và giấu mình trong núi xa các môn đệ. Hơn thế nữa, hắn còn đề nghị trói Người bằng sợi giây xích và dùng đến một vài ma thuật để phòng ngừa Người phá đứt xích ấy. Người Do Thái khinh bỉ bác bỏ lời khuyên của hắn, họ nói: "Chúng tao không cần phải theo lệnh của mày. Khi bắt được nó, chúng tao sẽ trói chặt nó lại!"
Giuđa sắp đặt với các người lính là hắn sẽ vào vườn trước, sẽ hôn chào Đức Giêsu như một người bạn và các môn đệ sẽ đến với Người hỏi chuyện; sau đó họ sẽ tiến ra và bắt giữ Người. Hắn muốn làm như thể việc lính tráng và hắn đến vườn cùng một lúc chỉ là một sự trùng hợp tình cờ, vì sau khi phản bội hắn nghĩ sẽ bỏ chạy như các môn đệ khác và chẳng ai nghe biết đến hắn nữa. Giuđa còn nghĩ là chắc sẽ có náo động và các Tông Đồ sẽ tự vệ và Đức Giêsu sẽ biến mất như trước đây Người từng làm như vậy. Những ý tưởng này giờ đây đặc biệt làm hắn bận tâm trong khi hắn đang bực mình vì thái độ khinh miệt và hồ nghi của kẻ thù Đức Giêsu đối với hắn, nhưng không phải vì hành động quỷ quái của hắn khiến hắn hối hận hay ý nghĩ về Đức Giêsu làm hắn mủi lòng, vì hắn đã hiến trọn bản thân cho Satan.
Giuđa cũng rất muốn các binh lính theo sau hắn đừng mang xiềng xích và gông cùm, hoặc những tên nổi tiếng xấu đừng xuất hiện trong đám này. Quân lính làm ra vẻ đồng ý với điều hắn muốn, nhưng trên thực tế họ coi hắn như một tên phản bội đê tiện mà họ đang cần dùng, là người không thể tin tưởng và phải loại bỏ khi không còn dùng đến nữa. Họ được lệnh đặc biệt phải bám sát hắn, và đừng để hắn xa khỏi tầm mắt cho đến khi bắt được Đức Giêsu và trói Người; vì hắn đã nhận tiền và người ta sợ rằng tên bất lương này sẽ bỏ chạy, và rồi trong đêm tối, người ta sẽ không bắt được Đức Giêsu, hoặc bắt lầm người khác. Trong trường hợp này, nhiệm vụ của họ sẽ không xong và ngày Lễ Vượt Qua sẽ xáo trộn và sôi nổi. Đám quân lính được chọn để bắt Đức Giêsu gồm khoảng hai mươi tên, một số thuộc đám lính canh Đền Thờ, và một số khác làm việc cho Anna và Caipha. Y phục của họ giống như của lính La Mã. Họ đội nón sắt và áo có giây da lủng lẳng bên hông giống như người La Mã. Tuy nhiên, sự khác biệt chính yếu giữa bọn họ là bộ râu, vì lính La Mã ở Giêrusalem chỉ có râu mép thôi, còn râu cằm và ria đều cạo sạch. Tất cả hai mươi người đều mang gươm, và một vài người còn mang theo giáo. Một số mang theo đèn dầu với cán dài, trong khi những người khác mang đuốc tẩm dầu hắc, nhưng khi đến gần, chỉ một đèn dầu còn sáng. Người Pharisiêu dự định sai một đám Đông hơn đi với Giuđa, nhưng hắn phản đối là quá Đông sẽ dễ bị chú ý, vì núi Cây Dầu chế ngự toàn thể thung lũng. Do đó, phần lớn ở lại Ôphen. Các lính canh được bố trí rải rác trên các con đường nhỏ ít người qua lại, cũng như trong thành phố, để đề phòng náo loạn hay bất cứ toan tính nào nhằm giải cứu.
Giuđa tiến lên trước với hai mươi người lính, theo xa xa là bốn tên cung thủ ở cấp bậc thấp, chúng mang theo giây trói và cùm. Sau đó một vài bước là sáu tên thuộc hạ mà Giuđa từng liên lạc với họ. Một trong sáu tên này là tư tế, một người tín cẩn của Anna; một tên khác tận tụy với Caipha; tên thứ ba và thứ tư là người Pharisiêu; và hai tên còn lại là thuộc hạ của phái Xađucê đồng thời cũng là của Hêrôđê nữa. Tất cả là chỉ điểm, những tên lén lút, bọn đầy tớ luồn cúi của Anna và Caipha, và là kẻ thù nham hiểm bí mật của Đấng Cứu Thế. Hai mươi tên lính lúc đầu vui vẻ tháp tùng Giuđa cho tới khi đến ngã ba đường, một đường rẽ về vườn Giệtsimani và một đường đi về vườn Cây Dầu. Tại đây, chúng không cho phép Giuđa đi trước một mình. Chúng thay đổi giọng điệu và đối xử với hắn rất xấc xược và thô bỉ.
---------------------
CHƯƠNG VI
CUỘC BẮT BỚ CHÚA GIÊSU
Khi Đức Giêsu cùng ba Tông Đồ đang trên lối đi nằm giữa vườn Giệtsimani và vườn Cây Dầu, thì ngay ở lối vào, khoảng hai mươi bước phía trước, Giuđa cùng đám lính xuất hiện và đang cãi vã om xòm. Giuđa muốn tách khỏi đám này để một mình tiến lên đón Đức Giêsu, làm ra vẻ như một người bạn trở lại sau khi vắng mặt. Còn đám lính thì đi theo sau làm bộ như Giuđa không biết gì về hành động của bọn này. Nhưng họ không đồng ý với đề nghị này. Họ bám sát hắn, và lớn tiếng: "Không được đâu mày ơi! Mày không thể thoát khỏi tay chúng tao cho đến khi tên Galilê đó bị bắt". Và khi chúng liếc nhìn thấy tám Tông Đồ đang ồn ào đi ra từ phía vườn Giệtsimani, chúng gọi thêm bốn cung thủ đến tiếp viện. Nhưng Giuđa không đời nào đồng ý với điều này, thế là một cuộc cãi vã sôi nổi xảy ra giữa hắn và bọn lính. Khi Đức Giêsu và ba Tông Đồ qua ánh đuốc nhận ra đám vũ trang, ông Phêrô muốn dùng sức mạnh để đẩy lui chúng. Ông nói lớn: "Thưa Thầy, đã có thêm tám người nữa đến từ vườn Giệtsimani. Chúng ta hãy tấn công bọn cung thủ!" Nhưng Đức Giêsu bảo ông hãy đứng yên, và cùng các môn đệ tiến vào chỗ đất có cỏ xanh. Thấy kế hoạch của mình bị đảo lộn, Giuđa tức giận lắm. Chính lúc đó bốn môn đệ từ vườn Giệtsimani bước đến và hỏi có chuyện gì xảy ra. Giuđa đối thoại với họ, và đành phải nói dối để xóa tan nghi ngờ, nhưng lính canh không cho hắn nói tiếp. Bốn môn đệ đến sau là các ông Giacôbê Trẻ, ông Philípphê, ông Tôma, và ông Natanien. Người sau cùng, là con của ông già Simêon, cùng với một vài người khác được các bạn hữu của Đức Giêsu sai đến với tám Tông Đồ trong vườn Giệtsimani để tìm hiểu sự tình. Họ rất xúc động vì lo lắng cũng như tò mò. Ngoại trừ bốn môn đệ này, tất cả các Tông Đồ khác đều lởn vởn chung quanh ở đằng xa, len lén đề phòng.
Đức Giêsu bước lại đám lính, với một giọng dứt khoát và sang sảng Người hỏi: "Các ngươi tìm ai?" Các thủ lãnh trả lời: "Giêsu Nagiarét," và Đức Giêsu trả lời: "Ta đây." Nhưng khi Người vừa mới thốt ra những lời ấy, chúng bật ngửa ra đàng sau như bị kinh phong và té ngã chồng chất lên nhau. Giuđa vẫn còn đang đứng với bọn lính và càng lúc càng bối rối. Hắn trông như có vẻ muốn đến với Đức Giêsu; do đó, Chúa đưa tay ra và nói: "Này bạn, bạn đến đây vì mục đích gì?" Hoang mang và bối rối, Giuđa lắp bắp nói về nhiệm vụ hắn phải thi hành. Để trả lời, Đức Giêsu thốt ra một số lời đại khái như: "Ôi, nếu ngươi đừng sinh ra thì tốt hơn!"-Tôi không nhớ rõ những lời ấy. Trong khi đó bọn lính đứng dậy và tiến đến Đức Giêsu cùng các Tông Đồ, chờ cái hôn - dấu hiệu của tên phản bội.
Ông Phêrô và các môn đệ vây quanh Giuđa, gọi hắn là tên trộm cắp và tên lừa thầy phản bạn. Hắn cố chối bỏ những lời buộc tội này, nhưng ngay lúc đó bọn lính đến bảo vệ cho hắn, như thế là công khai làm chứng tố cáo hắn.
Một lần nữa Đức Giêsu lại hỏi: "Các ngươi tìm ai?" Quay sang Người, chúng trả lời: "Giêsu Nagiarét." Đức Giêsu lại nói: "Chính Ta đây. Ta đã nói với các ngươi là chính Ta đây. Nếu các ngươi tìm Ta, hãy để những người này đi." Khi nghe "Chính Ta đây," bọn lính lại ngã xuống đất lần thứ hai. Chúng quằn quại như bị kinh phong, và Giuđa lại bị các Tông Đồ bao vây, vì các ông thật sự điên tiết với hắn. Bấy giờ Đức Giêsu nói với bọn lính: "Đứng lên"-và chúng đứng dậy, thật kinh sợ. Giuđa vẫn còn chống trả với các Tông Đồ, các ông dồn hắn về phía lính canh. Bọn chúng quay sang chống lại các ông, thế là giải thoát cho tên phản bội, và họ lại thúc giục hắn cho ra một dấu hiệu mà cả bọn đã đồng ý. Họ được lệnh là không bắt một ai trừ Người mà Giuđa sẽ hôn. Bấy giờ Giuđa tiến đến Đức Giêsu, ôm hôn Người và nói: "Chào Thầy!" Đức Giêsu nói: "Giuđa, ngươi phải bội Con Người với một cái hôn hay sao?" Ngay lập tức bọn lính vây quanh Đức Giêsu, và các cung thủ tiến đến gần đặt tay lên Người. Giuđa muốn bỏ chạy ngay lập tức, nhưng còn kẹt các Tông Đồ. Các ông xông vào bọn lính, lớn tiến kêu: "Thầy ơi, chúng con dùng gươm tấn công được không?" Ông Phêrô, hăng máu hơn mấy người khác, chụp lấy gươm và chém Mankô, tên đầy tớ của Thượng Tế, làm đứt một miếng thịt ở tai hắn. Mankô ngã xuống đất vì vậy càng gây thêm hỗn loạn.
Vào giây phút ông Phêrô bốc đồng, quang cảnh diễn ra như sau: Đức Giêsu ở trong tay bọn lính canh, chúng chuẩn bị trói Người, và hơi xa một chút, bọn lính vây thành một vòng tròn chung quanh Người mà một tên trong bọn là Mankô bị ông Phêrô đánh gục. Các tên lính khác nhảy vào tham chiến, một số đẩy lui các môn đệ đang tiến đến quá gần, và một số khác đuổi theo các môn đệ đã bỏ chạy. Có bốn môn đệ chạy lòng vòng, lén lút xuất hiện đây đó ở xa xa. Các tên lính vẫn còn khiếp đảm vì bị té nhào lúc nãy, và vì không dám nới lỏng vòng vây quanh Đức Giêsu nên chúng không đuổi theo ráo riết. Giuđa, ngay sau cái hôn phản bội đã muốn đào tẩu, nhưng trên đường hắn gặp phải một số môn đệ đã nguyền rủa hắn thậm tệ. Sáu sĩ quan vội vã đến giải cứu hắn, trong khi bốn tên lính canh đang bận rộn lấy giây và đai để sửa soạn trói Đức Giêsu.
Sự kiện Phêrô đánh ngã Mankô là một vấn đề khó khăn nên Đức Giêsu nói: "Phêrô, xỏ gươm vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Con tưởng Thầy không thể xin Cha Thầy sai mười hai đội binh thiên thần đến bảo vệ cho Thầy hay sao? Thầy không dám uống chén đắng Cha Thầy đã trao hay sao? Như vậy làm sao Kinh Thánh có thể hoàn tất trọn vẹn được?" Sau đó Người nói tiếp: "Cho phép Ta chữa người này!" Và Người đi đến Mankô chạm đến tai hắn và cầu nguyện, và nó được lành ngay. Lính gác, bọn lý hình, và sáu sĩ quan vây quanh Đức Giêsu. Chúng chế nhạo Người, nói với đám Đông: "Hắn thông đồng với ma qủy. Hắn dùng ma thuật mà mắt người ta khiến trông cái tai kia có vẻ như bị cắt lìa, và rồi cũng với ma thuật nó làm ra vẻ như cái tai được lành lặn."
Sau đó Đức Giêsu nói với họ: "Các người đem gươm giáo và gậy gộc đến bắt ta như bắt một tên sát nhân. Hàng ngày ta giảng dạy giữa các người trong Đền Thờ, và các người không dám động đến ta; nhưng bây giờ là giờ của các người và giờ của tối tăm." Chúng ra lệnh trói Người chặt hơn, và chế nhạo Người: "Ngươi không thể đánh bại chúng ta với ma thuật của ngươi đâu!" Và các cung thủ nói: "Chúng ta sẽ tước đoạt xảo thuật của ngươi!" Đức Giêsu có trả lời, nhưng tôi không nhớ, còn các môn đệ trốn chạy tứ phía. Bốn tên cung thủ và các sĩ quan không bị té ngã xuống đất, cũng không trỗi dậy. Lý do tôi được biết là tất cả những người này cùng loại với Giuđa, nghĩa là hoàn toàn dưới sự khống chế của Satan. Giuđa không bị ngã khi nghe Đức Giêsu nói mặc dù hắn đứng giữa các tên lính. Tất cả những người đã ngã xuống và trỗi dậy, sau này đều trở lại Kitô Giáo. Sự ngã xuống và đứng lên tượng trưng cho sự hoán cải của họ. Họ không chạm tay đến Đức Giêsu; họ chỉ đứng chung quanh Người. Mankô, sau khi được chữa lành đã hoán cải đến độ chỉ cốt hiện diện cho có lệ vì nhiệm vụ đối với Thượng Tế; và trong những giờ kế tiếp, giờ Thống Khổ của Đức Giêsu, hắn tới lui với Đức Maria và các bạn khác để cho họ biết tất cả những gì đang xảy ra.
Các cung thủ trói Đức Giêsu thật tàn bạo và dã man, trong khi đó người Pharisiêu thốt ra những lời hỗn láo và đầy khinh miệt. Các cung thủ là những tên vô đạo hạ cấp. Cổ, chân và cánh tay chúng đều để trần; họ quấn một loại đai lưng, và mặc áo chẽn ngắn không có cánh tay, có giây buộc ở bên cạnh. Họ lùn, tròn trịa, rất năng động, có làn da nâu đỏ giống như người nô lệ Ai Cập.
Chúng trói tay Đức Giêsu trước ngực một cách rất tàn ác. Với giây trói còn mới và sắc bén, chúng nhẫn tâm trói cổ tay phải vào ngay dưới khuỷu tay trái và cổ tay trái vào khuỷu tay phải. Chúng quấn quanh bụng Người một tấm đai có đầy mấu nhọn, và cột tay Người với vòng đai này bằng sợi cây gai. Quanh cổ Người, chúng đặt một vòng sắt có mũi nhọn và các dụng cụ khác để gây chảy máu, và từ đó chúng cột vào hai giây da giống như khăn choàng chéo ngang ngực rồi cột xuống tấm đai thật chặt để cổ không thể quay qua lại dễ dàng. Ở bốn điểm của tấm đai này có bốn sợi giây dài, từ đó các lý hình có thể lôi Đức Chúa chỗ này chỗ kia tùy theo ý định hiểm ác của chúng. Tất cả gông cùm đều rất mới. Dường như chúng đã chuẩn bị cho mục đích đặc biệt này mà bây giờ đem ra xử dụng, khi kế hoạch bắt Đức Giêsu được thành hình.
Và bấy giờ, sau khi vài cây đuốc được thắp sáng lên thì một cuộc rước thê lương bắt đầu. Đi đầu là mười tên lính gác, theo sau là các cung thủ kéo Đức Giêsu bằng các sợi giây; sau đó là người Pharisiêu diễu cợt, và mười tên lính khác đi sau cùng. Các môn đệ vẫn tản mát, họ rên rỉ và than van như điên dại. Tuy nhiên, ông Gioan vẫn theo sát phía sau các tên lính gác đi sau cùng. Khi thấy ông, người Pharisiêu ra lệnh bắt ông. Khi nghe lệnh, một số lính gác quay lại và đuổi theo ông. Nhưng ông bỏ chạy, và khi chúng tóm được tấm khăn quấn cổ, ông đã mau lẹ cởi bỏ nên thoát được. Ông vất chiếc áo choàng sang một bên, trên người không còn gì khác hơn ngoài quần lót và áo cụt tay để ông có thể chạy thoát dễ dàng hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một cái khăn dài và hẹp quấn quanh cổ, đầu, và cánh tay, như người Do Thái thường dùng.
Bọn lý hình kéo Đức Giêsu một cách rất tàn bạo. Chúng thi hành đủ loại ác độc, chính yếu là để chiều theo và làm hài lòng sáu viên sĩ quan là những người hết sức căm thù Đức Giêsu. Chúng buộc Người đi trên các con đường gồ ghề, nhiều đá sỏi và bùn lầy, chúng luôn kéo sợi giây căng thẳng trong khi chính chúng thì đi trên con đường bằng phẳng. Theo kiểu cách này Đức Giêsu phải đi vào bất cứ chỗ nào mà sợi giây cho phép. Các lý hình cầm trong tay những sợi giây có thắt nút để đánh Người, như đồ tể đánh con vật trên đường tới lò sát sinh. Chúng làm điều này với thái độ chế nhạo và sỉ nhục thật hạ cấp và khiếm nhã đến độ chỉ lập lại việc đó thôi cũng đủ ghê tởm.
Đức Giêsu đi chân đất. Ngoài y phục thường lệ, Người mặc một chiếc áo len không có đường khâu, và phủ bên ngoài là chiếc áo khoác. Quần áo trong của các môn đệ, cũng như của người Do Thái nói chung, gồm một tấm khăn choàng phủ trước ngực và sau lưng. Khăn này gồm hai mảnh nối vào nhau bằng các sợi giây cột ở trên vai, nhưng để trống ở hai bên. Phần dưới thân thể được che phủ bởi một vòng đai có bốn vạt mà, sau khi thắt quanh lưng, chúng tạo thành một loại quần dài. Tôi phải nói rằng, khi bắt Đức Giêsu, tôi không thấy có trát tòa. Quân thù đối xử với Người như đối với một tên cướp, sống ngoài vòng pháp luật.
Đám rước di chuyển với một nhịp độ khá mau lẹ. Khi rời khỏi con đường giữa vườn Cây Dầu và vườn Giệtsimani, họ đi đường tắt rẽ sang bên phải về phía Tây của Giệtsimani, cho đến khi gặp cây cầu Bắc ngang qua suối Xêron. Khi Đức Giêsu cùng với các Tông Đồ đến núi Cây Dầu, Người không băng qua cầu này. Người đi vòng qua thung lũng Giosaphát, và băng qua con suối bằng cây cầu ở tận phía Nam. Con đường mà bây giờ Người bị điệu đi trong gông cùm thì rất dài, vì nó không chỉ băng qua suối Xêron nhưng còn qua một phần các đồi trong thung lũng. Ngay cả trước khi đến cây cầu, tôi thấy Đức Giêsu đã ngã hai lần, vì kiểu cách kéo giật tàn bạo của các lý hình. Nhưng khi chúng đến giữa cầu, dã tâm của chúng lại thể hiện độc ác hơn nữa. Bọn lý hình đẩy Đức Giêsu đáng thương từ trên cầu, cao khoảng đầu người, xuống suối Xêron, trong khi Người vẫn bị gông cùm và giây nhợ mà chúng đang nắm chặt ở đầu giây bên kia, kèm với lời sỉ nhục, tỉ như: "Bây giờ nó có thể uống cho no bụng!" Nếu không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bị chết vì lần rơi đó. Đầu tiên Người rơi xuống trên hai đầu gối và sau đó dập mặt xuống đất, như vậy Người sẽ bị thương nặng nề vì đá sỏi ngổn ngang trong lòng suối, mà bấy giờ rất cạn, nếu Người không kịp giơ đôi tay bị trói lên đỡ. Đôi tay ấy đã được nới lỏng khỏi vòng đai bụng, tôi không biết đó là sự giúp đỡ của Thiên Chúa hay bởi lý hình trước khi chúng xô Người xuống. Theo thánh ý Thiên Chúa, các dấu vết ở đầu gối, chân, khuỷu tay, và ngón tay của Người đã in lên những nơi được chạm đến, mà sau này trở thành những vật được sùng kính. Đá sỏi còn hiền dịu hơn lòng người; vào giây phút khủng khiếp này chúng đã làm chứng cho Thần Chân Lý bằng những vết tích hằn sâu trên đó.
Tôi không thấy Đức Giêsu uống chút nước nào trong cái khát dữ dội sau cơn hấp hối khủng khiếp tại vườn Cây Dầu. Nhưng khi bị đẩy xuống suối Xêron, tôi thấy Người uống một cách khó khăn, và đồng thời, tôi nghe Người thì thầm rằng bởi đó để ứng nghiệm lời tiên tri trong Thánh Vịnh , đề cập đến việc uống nước từ dòng suối trên đường đi.
Trong khi đó bọn lý hình cũng không nới lỏng sợi giây dài cột Đức Giêsu; và vì nếu kéo Người lên trở lại thì quá khó khăn, nhưng cũng vì có một bức tường cao ở bên kia suối khiến không thể nào chúng để Người lội qua, nên chúng lại kéo Người về bên này suối. Sau đó chính chúng đi xuống cầu và kéo Người ngược trở về đầu cầu bên kia. Và bây giờ, giữa những tiếng nhạo báng, nguyền rủa, đánh đấm, bọn người độc ác đó lại lôi Đức Giêsu đáng thương đi qua cầu một lần nữa. Quần áo len của Người sũng nước, dính chặt vào thân thể nên Người bước đi rất khó khăn; và khi đến đầu cầu bên kia, một lần nữa Người lại ngã xuống đất. Chúng lại lôi Người dậy, dùng giây đánh Người cùng với những lời cay đắng và nhục mạ, chúng nhét quần áo Người vào thắt lưng. Chúng nói điều gì đó, hình như về việc thắt lưng để ăn chiên Vượt Qua, và những lời chế nhạo tương tự.
Lúc ấy chưa đến nửa đêm khi tôi thấy bốn lý hình kéo Đức Giêsu trên con đường hẹp và gồ ghề, dọc theo đó chỉ có đường mòn không bằng phẳng. Chúng kéo Người trên đá sắc bén và đá vụn cũng như gai góc, chúng nguyền rủa, đấm đá và thúc giục Người một cách vô cùng dã man. Bất cứ khi nào đường lộ cho phép, sáu người Pharisiêu cục súc luôn đi gần với Người. Mỗi tên cầm một cây gậy tra tấn khác nhau để xô đẩy, thoi thúc và đánh đập Người.
Trong khi các lý hình lôi Đức Giêsu đi, thì đôi chân trần của Người rớm máu vì đá nhọn, gai góc, và các lời nhạo báng khinh miệt của sáu tên Pharisiêu đã đâm qua Trái Tim nhân hậu của Người. Chúng lợi dụng những lúc này để chế nhạo, như: "Tên đến trước hắn, thằng Tẩy Giả không chịu chuẩn bị con đường tốt cho hắn đi!" hoặc: "Sao nó không làm cho tên Tẩy Giả sống lại để dọn đường cho nó?" Những lời chế nhạo ấy được các tạo vật đê tiện thốt ra và được đón nhận với những tiếng cười khả ố. Những lời ấy lại được các tên lý hình đối đáp trong khi đang bị khích động để rồi lại tiếp tục vùi dập Người bằng các trận đòn mới.
Sau khi bọn lính dẫn Đức Giêsu đi được một lúc, chúng nhận thấy có vài người ẩn nấp đây đó ở đàng xa. Họ là các môn đệ, khi nghe tin Đức Giêsu bị bắt, đã đến từ Bét-pha-giê và các nơi ẩn náu khác, để dò xét tình hình của Thầy mình như thế nào. Khi thấy các môn đệ, bọn lính cảm thấy lo lắng, e rằng họ sẽ tấn công bất ngờ và giải cứu Người; bởi đó chúng ra hiệu bằng cách sai người đi cầu cứu với Ôphen, là vùng nhỏ bé trong miền Giêrusalem, để được tiếp viện như chúng đã đồng ý trước.
Khi đám rước vẫn còn cách cổng thành chừng vài phút, về phía Nam Đền Thờ, qua lối Ôphen đến núi Sion, là nơi Anna và Caipha ở, tôi thấy một đám năm mươi người lính đi ra từ cổng này để tăng cường cho đồng đội. Chúng chia làm ba nhóm: nhóm đầu gồm mười tên lực lưỡng; nhóm cuối mười lăm tên, vì tôi có đếm; và nhóm giữa gồm năm tên cộng với hai mươi (25). Chúng cầm vài cây đuốc. Trông chúng lì lợm và ngược ngạo, chúng vừa đi vừa hô to như để thông báo cho đám rước đang đến và chúc mừng sự thành công. Đám này thật ồn ào. Khi nhóm đầu gặp toán áp tải Đức Giêsu, thì một sự hỗn độn nhỏ đã xảy ra, và tôi thấy Mankô cũng như vài người khác tách khỏi nhóm này và lẻn trốn về hướng núi Cây Dầu.
Khi toán lính ồn ào từ Ôphen gặp gỡ đám rước, thì các môn đệ ẩn nấp chung quanh đều tản ra tứ phía. Tôi thấy Đức Trinh Nữ, đau khổ buồn phiền đi với các bà Mácta, Mađalêna, Maria Clêophát, Maria Salômê, Maria Máccô, Su-gia-na, Giô-ha-na Chusa, Vêrônica, và Salômê, lại đi về hướng thung lũng Giôsaphát. Các bà ở phía Nam Giệtsimani, đối diện với núi Cây Dầu là một hang đá mà trước đây Đức Giêsu có thói quen cầu nguyện ở đó. Tôi thấy ông Lagiarô, Gioan Máccô, con của bà Vêrônica, và con của ông Simêon cùng đi với nhóm các bà. Người sau cùng, đi với Natanien, từng ở vườn Giệtsimani với tám Tông Đồ, và đã chạy trốn khi biến động bắt đầu. Họ đưa tin cho Đức Trinh Nữ. Trong khi đó họ nghe tiếng la hét và thấy các ánh đuốc của hai toán lính khi gặp nhau. Đức Trinh Nữ không ngừng chiêm niệm về sự đau khổ của Đức Giêsu và thông phần chịu đựng với Người. Đức Trinh Nữ để các phụ nữ thánh thiện kia dẫn người trở lại một đoạn đường, để khi đám lính ồn ào kia qua đi, người có thể trở lại nhà của bà Maria Máccô.
Năm mươi người lính này thuộc về một đội ba trăm người được sai đi canh giữ ở các cổng và con đường trong thị trấn Ôphen và quanh đó, vì Giuđa, tên phản bội đã thuyết phục được Thượng Tế phải lưu ý đến dân cư ở Ôphen, hầu hết là nông dân nghèo, làm công nhật, và khuân củi gánh nước mướn đến Đền Thờ, nhưng lại là các dân quân rất gắn bó với Đức Giêsu. Bởi đó thật dễ hiểu là bọn chúng lo sợ một âm mưu giải cứu khi điệu Người đi ngang qua đây. Tên phản bội biết rất rõ khi Đức Giêsu ở đây, Người đã đem đến cho đám dân nghèo nhiều an ủi, dạy bảo, chữa lành cũng như bố thí cho họ. Cũng chính tại đây Đức Giêsu đã chần chờ khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết ở Makêrô. Người đã đi từ Bêtania đến Hêron. Người dừng chân đôi chút để an ủi các bạn của Gioan, và Người đã chữa lành nhiều người làm công nhật và gánh hồ từng bị thương tích khi một dinh cơ lớn và tháp Silôe sập xuống. Hầu hết những người này, sau khi Chúa Thánh Thần ngự xuống, đã tham dự Cộng Đồng Kitô Hữu, và khi người Kitô hữu tách khỏi người Do Thái để khởi sự định cư, thì họ cắm lều và dựng nhà tranh ngang qua thung lũng cho tới núi Cây Dầu.
Dân cư ở Ôphen thức giấc vì tiếng la hét của đám quân trú đóng khi đồng bọn của chúng tiến vào. Họ vội vã chạy ra các nẻo đường đến cổng nơi có đám lính trấn giữ để biết nguyên do của sự náo động. Nhưng tại đây họ chỉ gặp một sự tiếp đón cục cằn. Đám lính ô hợp, gồm người nô lệ xấc xược, ti tiện đã đuổi họ về một cách thô tục sống sượng. Nhưng khi nghe được các lời nhận xét như "Giêsu, kẻ làm điều gian ác, Ngôn Sứ giả mạo của các ngươi, sắp sửa bị ngồi tù. Các Thượng Tế sẽ chấm dứt hành động của hắn. Hắn sẽ phải trừng trị trên Thập Giá," thì cả làng thức giấc vì tiếng than khóc của người dân. Những người đáng thương, đàn ông đàn bà, vừa chạy vừa khóc, hoặc đôi tay giang rộng, họ ngồi gục đầu, than van với Trời Cao và ca tụng các hành động tốt lành của Đức Giêsu. Các tên lính xô đẩy họ và đánh đấm đủ mọi phía để buộc họ về nhà, đồng thời chúng xúc phạm đến Đức Giêsu, và nói: "Đây là một bằng cớ hiển nhiên cho thấy nó là một tên khích động dân chúng!" Tuy nhiên, chúng hơi e dè hành động của quần chúng, vì sợ nếu quá mạnh tay chúng sẽ khích động người dân nổi dậy; vì vậy, chúng chỉ nhắm dẹp đường phố cho đám rước đi ngang qua Ôphen.
Trong khi đó Đức Giêsu và đám hộ tống man rợ càng lúc càng đến gần cổng Ôphen. Đức Chúa của chúng ta liên tiếp ngã nhiều lần, và giờ đây dường như Người không thể đi xa hơn nữa. Lợi dụng lúc này, một tên lính tử tế cất lời: "Các anh thấy người này không đi nổi nữa. Nếu chúng ta muốn nó sống sót khi ra trước các Thượng Tế, chúng ta phải nới lỏng giây trói tay cho nó, để nó có thể chống đỡ khi bị té." Trong khi đoàn người tạm dừng chân để bọn lý hình nới lỏng giây trói, một người lính tử tế khác lấy nước từ giếng gần đó và đem cho Người uống. Hắn múc nước bằng một cái chén làm bằng vỏ cây trông như cái nón mà lính tráng cũng như khách du hành thường mang theo để uống. Khi Đức Giêsu nói với người này đôi lời cám ơn, đồng thời Người cũng thốt ra một số lời ngôn sứ về việc "uống từ suối hằng sống," và "nguồn nước hằng sống," thì bọn Pharisiêu lại chế diễu và sỉ vả Người, kết tội Người là phạm thượng và khoác lác. Chúng nói Người phải từ bỏ những lời lẽ rỗng tuếch đó đi. Người không được uống nước nữa dù nước ấy dành cho súc vật, đừng nói gì tới nước của loài người. Tôi được cho thấy hai người lính tử tế này, nhờ họ can thiệp mà tay Đức Giêsu được nới lỏng và được uống nước, bỗng dưng họ được ơn soi sáng. Sau khi Đức Giêsu từ trần, họ đã hoán cải, và sau này tham dự Cộng Đồng với tư cách môn đệ. Có lần tôi biết tên của họ, cũng như các người môn đệ khác và tiểu sử của họ, nhưng bây giờ không thể nào nhớ hết tất cả. Nhiều quá!
Đám rước lại tiến bước, Đức Giêsu lại bị hành hạ như trước, và vượt qua ngọn đồi dẫn đến các cổng của Ôphen. Tại đây đoàn người được nghe những tiếng than khóc não lòng của dân cư, là những người mang ơn Đức Giêsu. Lính tráng phải vất vả lắm mới giữ nổi đám Đông đàn ông đàn bà lấn đến từ mọi phía. Họ xông tới trước, tay nắm chặt, họ quỳ xuống đất và giang rộng đôi tay kêu lớn: "Hãy thả Người này cho chúng tôi! Ai sẽ giúp đỡ chúng tôi? Ai sẽ chữa lành cho chúng tôi? Ai sẽ an ủi chúng tôi? Hãy thả Người này ra cho chúng tôi!" Đó là một cảnh tượng thương tâm-Đức Giêsu nhợt nhạt, thương tích và biến dạng, tóc Người rối nùi, áo Người ướt và dơ bẩn được nhét vào thắt lưng, chính Người thì bị lôi đi bằng giây, bị thúc giục bằng đòn vọt như một con vật yếu đuối đáng thương bị dẫn đi sát tế bởi các lý hình xấc láo và lính tráng hống hách. Đám lính bận rộn ngăn cản đám Đông đang than khóc và những người biết ơn đang tìm cách đến gần Đức Giêsu. Họ giang những cánh tay đã được Người chữa cho khỏi què quặt, họ than khóc nài xin với miệng lưỡi mà trước đây đã được Người chữa cho khỏi tê cứng, họ chăm chú nhìn Người với đôi mắt đã được Người chữa cho khỏi mù lòa mà giờ đây đang tuôn trào nước mắt.
Trong thung lũng Xêron cũng có nhiều người hạ cấp, dơ dáy, rách rưới, vì sự khích động của bọn lính và sự thúc giục của các thuộc hạ Anna và Caipha và các kẻ thù khác của Đức Giêsu, cũng nhập bọn và lớn tiếng nhạo cười. Những người này bây giờ lại lên tiếng chế nhạo và sỉ nhục những người tốt lành ở Ôphen. Thành phố này được xây trên một ngọn đồi, vì tôi thấy giữa thành phố là điểm cao nhất. Đó là một khoảng đất trống, và ở đó có đủ loại rui xà cho việc xây cất như một đống gỗ trong sân người thợ mộc.
Dân chúng bị ngăn cấm không được đi theo đám rước ra ngoài ranh giới thành phố. Giờ đây con đường dẫn vào một phần của thung lũng. Bên phải có một dinh cơ lớn, tôi nghĩ đó là công trình của vua Solomon còn sót lại, và bên trái là hồ Bétsaiđa. Sau khi vượt qua những điểm này, đám rước đi về hướng Tây xuống một con dốc gọi là Mi-u-lô và sau đó, rẽ về phía Nam, họ đi lên các bậc cao đến núi Sion có nhà của Anna trên đó. Trên đường, Đức Chúa chúng ta bị hành hạ và sỉ vả, trong khi từ thành phố đám người hỗn tạp tiếp tục tuốn ra và xúi giục các tên lính đê tiện hành hạ Người một cách tàn nhẫn. Từ núi Cây Dầu cho đến điểm này, Đức Giêsu đã ngã xuống đất bảy lần.
Dân cư Ôphen vẫn đầy dẫy kinh hoàng và đau buồn khi thấy một cảnh tượng mới đầy thương cảm. Đức Mẹ, được các phụ nữ thánh thiện và bạn hữu dìu dắt, từ thung lũng Xêron đi qua Ôphen đến nhà bà Maria Máccô, nằm dưới chân núi Sion. Khi dân chúng nhận ra Đức Bà, họ càng thương cảm hơn nữa và họ lớn tiếng kêu gào thảm thiết. Rất Đông người vây quanh Đức Maria và các bà khác đến độ hầu như họ bế Đức Mẹ trên tay.
Đức Maria buồn sầu không nói nên lời. Người không hé môi khi đến nhà bà Maria Máccô cho đến lúc ông Gioan đến nơi. Sau đó người bắt đầu hỏi han và thố lộ tâm tình. Ông Gioan kể lại cho người nghe mọi sự liên hệ đến Đức Giêsu mà ông đã thấy ngay từ khi họ rời Nhà Tiệc Ly cho đến bấy giờ. Một lát sau, người được dẫn tới nhà bà Mácta gần nhà ông Lagiarô ở phía Tây thành phố. Họ dẫn người đi theo các đường lạ, để tránh những con đường mà Đức Giêsu đang bị lôi đi, nhằm giúp người khỏi bị đau khổ khi gặp Đức Giêsu.
Ông Phêrô và Gioan đi theo đám rước ở xa xa, và khi đoàn người ấy tiến vào thành phố, hai ông chạy vội đến vài người mà ông Gioan quen biết, họ là đầy tớ của các Thượng Tế, để tìm cách lọt vào toà án nơi Đức Giêsu sẽ bị điệu vào trong đó. Những người mà ông Gioan quen biết thì làm việc đưa tin cho tòa án. Bấy giờ họ phải sục sạo khắp thành phố để đánh thức các trưởng lão thuộc mọi cấp bậc cũng như các viên chức khác để mời tham dự Hội Đồng. Họ rất muốn chiều lòng hai Tông Đồ, nhưng họ không nghĩ ra cách nào khác hơn là đưa cho hai ông các áo choàng giống như họ đang mặc và giúp họ đi gọi các thành viên của Hội Đồng; sau đó với áo choàng này hai ông có thể cùng đi với họ vào tòa Caipha, mà không ai được vào ngoại trừ đám dân đen đã bị mua chuộc, lính tráng, và các nhân chứng giả. Vì ông Nicôđêmô, ông Giuse ở Arimathê, và các nhân vật thế lực khác thuộc về Hội Đồng, như thế các Tông Đồ có thể cầu viện với các bạn của Thầy mình, là những người mà có lẽ bọn Pharisiêu cố ý không kể tên trong danh sách được mời. Trong khi đó, Giuđa với ma quỷ bên cạnh, giống như một tên bất lương điên cuồng lang thang men theo các vách núi thẳng đứng hoang vu ở phía Nam Giêrusalem là nơi người ta đổ mọi thứ rác rưởi hôi thối của thành phố.
--------------------
CHƯƠNG VII
KẺ THÙ ĐỨC GIÊSU THI HÀNH KẾ HOẠCH
MỘT CÁI NHÌN VỀ THÀNH GIÊRUSALEM LÚC BẤY GIỜ
Ngay khi Đức Giêsu bị bắt, Anna và Caipha đã được báo tin và chúng bắt đầu tích cực đề ra các kế hoạch. Các phòng tòa án được thắp sáng và mọi lối ra vào đều có lính gác. Bọn người đưa tin được sai đi khắp thành phố để triệu tập các thành viên của Hội Đồng, các Luật Sĩ, và tất cả những ai có liên can đến vụ án. Tuy nhiên, ngay sau khi thỏa thuận với Giuđa, nhiều người trong bọn họ đã tụ tập tại nhà Caipha và ở đó chờ kết quả. Các trưởng lão thuộc ba giai cấp trong dân cũng được mời; và khi bọn Pharisiêu, Xađucê và Hê-rô-đê từ khắp nơi trong nước đổ về Giêruselam dự Lễ, họ bàn tán với nhau cũng như trước Hội Đồng về kế hoạch bắt Đức Giêsu. Giờ đây, các Thượng Tế được chọn ra trong danh sách mà họ biết là những kẻ thù cay đắng của Đức Giêsu. Họ triệu tập những người này với mệnh lệnh là nếu có thể, góp nhặt mọi chứng cớ trong thẩm quyền của mình để tố cáo Đức Giêsu, và đem các bằng chứng ấy ra toà. Chính vào lúc này, tất cả bọn Pharisiêu, bọn Xađucê kênh kiệu từ Nagiarét, từ Caphanaum, Tigia, Gabara, Giêtêbata, Silô và các nơi khác tụ về Giêrusalem, là những người từng bị bẽ mặt trước dân chúng khi Đức Giêsu khiển trách họ hiện hết sức nóng lòng muốn trả thù. Mỗi người trong bọn đi tìm những tên hiềm khích với Đức Giêsu mà họ biết và đem tiền bạc ra mua chuộc những tên này để chúng lên tiếng vu khống chống báng Đức Giêsu. Khách dự Lễ quy tụ thành từng nhóm, tùy theo địa phương. Nhưng ngoại trừ một số chứng gian lố bịch lập tức bị loại ngay sau khi điều tra, không có bằng cớ cụ thể nào được đưa ra chống Người ngoại trừ những lời tố cáo khờ khạo mà Người thường bác bỏ trong các hội đường.
Giờ đây tất cả những bằng cớ ấy lần lượt được gom góp lại tại tòa Caipha. Ở đó cũng có một đám Đông kẻ thù của Đức Giêsu trong số người Pharisiêu và Luật Sĩ ngạo mạn, cùng với các nhân chứng bị mua chuộc ở ngay Giêrusalem. Nhiều người trong số này là các con buôn từng thù hận Đức Giêsu khi bị xua đuổi khỏi Đền Thờ; nhiều người là các tiến sĩ vênh váo đã bị Đức Giêsu làm câm họng trước dân chúng; và nhiều người có lẽ chưa quên tủi hổ khi Đức Giêsu, lúc mới lên 12 tuổi đã từng dạy bảo họ, và giờ đây họ công khai chống đối Người. Trong các kẻ thù của Đức Giêsu còn có những người tội lỗi không chịu sám hối và những kẻ không được Người chữa lành cho; những người tái phạm tội và bị đau ốm trở lại; các thanh niên cao ngạo mà Người không nhận làm môn đệ; những người tham lam độc ác bực tức Đức Giêsu khi Người phân phát tiền của cho người nghèo mà không cho chúng; những tên hư đốn mà một số đồng bọn của chúng đã được Đức Giêsu hoán cải; những người trụy lạc và gian dâm mà nạn nhân của chúng đã được Đức Giêsu giúp tìm về nẻo chánh; những người thừa kế tham lam thất vọng không được hưởng gia tài vì Đức Giêsu đã cứu sống người ban phát; và nhiều kẻ xu thời sẵn sàng xúi bẩy kẻ độc ác. Các tay sai này của Satan căm ghét mọi sự thánh thiện, do đó chúng chống với Đấng Thánh Trên Hết Các Thánh. Lớp cặn bã này của dân tộc Do Thái tụ tập lại để mừng lễ, được sự thúc giục của kẻ thù Đức Giêsu, họ dồn về từ mọi phía và lũ lượt kéo thành một dòng người tuốn về dinh Caipha để bỏ vạ cáo gian Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa, Đấng Tinh Tuyền, Đấng gánh tội trần gian; và để đổ lên đầu Người những hậu quả xấu xa mà, quả thật, Người đã thực sự gánh lấy, mà sau đó Người phải chịu đựng, và vì đó Người đang đền bù.
Trong khi đám người Do Thái hèn hạ này tìm cách bôi nhọ Đấng Cứu Thế thanh sạch, nhiều linh hồn và bạn hữu tốt lành của Đức Giêsu đang lẩn quẩn với những khó khăn và khổ não tâm hồn (vì họ không biết rằng mầu nhiệm phải được hoàn tất), họ thở dài và lắng nghe bất cứ tin tức nào có thể có được. Nếu than thở ra lời, thì họ bị người qua lại phản đối thô lỗ; và nếu giữ im lặng, họ lại bị coi là bất trung. Nhiều người thiện chí, nhưng yếu đuối và chất phác lại bị xúc phạm vì những gì họ nghe được. Họ chịu thua trước cơn cám dỗ và từ bỏ đức tin. Số người kiên trì không có bao nhiêu. Trước như thế nào thì bây giờ cũng vậy. Nhiều người muốn làm ra vẻ họ là Kitô Hữu tốt lành miễn là không gặp phiền phức, nhưng họ trở nên xấu hổ với Thập Giá khi thấy bị khinh bỉ. Cũng có nhiều người trong giai đoạn đầu của các tiến trình bất công và vô căn cứ này đã tức giận và tàn nhẫn kêu xin Thiên Đàng trả thù, nhưng khi nhìn thấy Đấng Cứu Thế kiên nhẫn không than phiền, họ rúng động và im lặng bỏ đi đầy chán nản.
Sau những buổi cầu nguyện chung cũng như riêng, những nghi thức tôn giáo, và các chuẩn bị khác cho ngày lễ, thành phố lớn và Đông dân đã chìm vào giấc ngủ trong khi tin tức về việc bắt giữ Đức Giêsu lại khuấy động các bạn hữu cũng như kẻ thù của Chúa. Nhiều người phản ứng ngay lập tức với lệnh triệu tập của các Thượng Tế, và nhiều điểm trong thành phố bắt đầu nhộn nhịp. Dưới ánh trăng và ánh đuốc họ tuốn ra các đường phố Giêrusalem thường là ảm đạm và vắng vẻ vào ban đêm, vì các cửa lớn nhỏ của mọi nhà chỉ mở vào sân trong. Tất cả mọi người cất bước hướng về Sion, nơi lấp lánh ánh đuốc. Tin tức về việc mới xảy ra lan đi nhanh chóng, và đây đó người ta nghe tiếng gõ cửa để đánh thức người đang ngủ trong nhà. Người ta lăng xăng, bàn tán và hoang mang tại nhiều khu vực thành phố. Gia nhân và người đưa tin xông xáo tìm kiếm tin tức, và sau đó vội vàng báo cáo lại cho chủ nhân. Nhiều thanh gỗ và đinh ốc được chèn vào cổng, vì dân chúng rất lo sợ một cuộc biến loạn. Đây đó, họ bước ra cửa lớn tiếng gọi người quen vừa đi ngang qua để hỏi thăm tin tức; hoặc người lấy tin lại lớn tiếng cho biết các tin tức nóng bỏng. Và rồi có những lời ác tâm không khác gì ngày nay khi có các trường hợp tương tự. Họ nói "Bây giờ Lagiarô và chị em hắn mới sáng mắt để biết rõ người mà họ vẫn quan hệ nay như thế nào. Bây giờ các bà Gioanna Chusa, Sugianna, Maria, mẹ của Gioan Máccô, và Salomê mới hối hận về hành động của mình thì đã quá trễ! Các môn đệ của tên đầu đảng xúi dân nổi loạn này luôn luôn tỏ ra thương hại những người có quan điểm khác với mình, bây giờ thì không biết rúc đầu vào đâu? Những người từng đan lá và trải áo cho hắn cưỡi lừa đi qua, bây giờ đâu hết cả? Những người giả hình, lúc nào cũng muốn tốt lành hơn người khác, bây giờ phải lãnh nhận hậu quả. Họ cũng phải bị đưa ra toà, vì tất cả đều có dính líu đến tên Galilê này. Tôi nóng lòng muốn xem ông Nicôđêmô và Giuse Arimathê tự an ủi mình như thế nào. Bây giờ mọi sự sẽ phơi bày ra ánh sáng." Nhiều người nghe thấy nói như vậy. Họ là những người cay cú với một vài gia đình, và nhất là chống đối các phụ nữ từng công khai làm chứng cho Đức Giêsu và các môn đệ. Ở các nơi khác, phản ứng rất khác biệt. Một số lo sợ khi nghe tin, một số than van kín đáo, trong khi một số khác rụt rè tìm kiếm bạn hữu cùng tâm trạng để thố lộ tâm tình. Nhưng chỉ có một vài người dám bày tỏ cảm tình một cách công khai và cương quyết thôi.
Tuy vậy, không phải tất cả mọi khu vực thành phố đều tỉnh giấc, chỉ có những nơi mà người đưa tin đến trao giấy mời của tòa án hoặc nơi mà người Pharisiêu tìm kiếm các nhân chứng gian dối. Những con đường dẫn đến Sion thì náo nhiệt hơn mọi nẻo khác. Như thể người ta thấy các khu vực khác nhau của Giêrusalem phát ra tia lửa hận thù và ghen ghét, luồn lách qua đường phố, nối kết các đường khác, trở nên mạnh hơn và thế lực hơn cho đến sau cùng như một cơn lốc lửa khủng khiếp, chúng chiếu sáng núi Sion và sảnh đường tòa án Caipha. Trong một số khu vẫn còn yên tĩnh, nhưng ở đó đã có ít nhiều khuấy động.
Binh lính La Mã không can dự gì đến việc đang xảy ra, nhưng các đồn bót được tăng cường và thêm quân. Họ để ý mọi phía. Quả thật, họ luôn thi hành việc này vào dịp lễ Vượt Qua, vì rất Đông người đến dự lễ. Họ thâm trầm và bình tĩnh, nhưng đồng thời rất cảnh giác. Giờ đây dân chúng vội vã tránh xa các tụ điểm có lính canh, vì điều đó thường làm bực mình người Pharisiêu Do Thái được lính hộ tống. Các Thượng Tế gửi tin cho Philatô biết lý do mà họ đưa lính trấn đóng chung quanh Ôphen và khu Sion, nhưng ông ta và bọn họ đều đầy rẫy nghi kỵ lẫn nhau. Philatô không ngủ được. Đêm qua ông lắng nghe các phúc trình và ra lệnh. Tuy nhiên, vợ ông, đang nằm dài trên trường kỷ, thở dài và khóc lóc vì những gì bà thấy trong giấc mơ.
Trong thành phố, không có nơi đâu thương cảm Đức Giêsu thật mủi lòng bằng đám người nô dịch Đền Thờ và làm công nhật ở Ôphen sống trên sườn đồi. Họ đột ngột bàng hoàng tột độ trong không khí tĩnh mịch của đêm đen, và sự thô bạo của đám rước khiến họ không ngủ nổi. Chính mắt họ thấy Thầy chí thánh của họ, Ân Nhân của họ, đã từng chữa lành và nuôi dưỡng họ, bây giờ bị tan nát và bạc đãi, đi ngang trước mắt họ như một hình ảnh kinh hoàng. Mối thương cảm và đau buồn của họ lại được khơi dậy khi thấy người Mẹ đau khổ của Người lang thang với các bạn hữu. Than ôi, buồn thảm biết bao khi thấy Mẹ tan nát lo buồn và đang hối hả rảo bước khắp đường phố vào nửa đêm với các phụ nữ thánh thiện, là bạn của Đức Giêsu, đến từng nhà người thân quen với con, trái tim dồn dập sợ hãi khi họ phải ở ngoài đường phố vào giờ giấc bất thường này! Họ phải ẩn nấp sau các góc phố khi thấy bọn người thô lỗ đi đến; họ cũng thường bị sỉ nhục vì lầm tưởng là hạng phụ nữ mất nết; và nhiều lần họ nghe những lời nói hiểm ác, cay đắng đối với Đức Giêsu, mà ít khi nghe được lời thương cảm. Khi đến nơi trú ngụ, họ khụy xuống như kiệt sức, nước mắt dàn dụa và siết chặt đôi tay. Tất cả các bà đều đau buồn như nhau; tuy vậy mỗi bà lại phải cố nâng đỡ nhau trong cánh tay mình, hoặc ngồi một chỗ với nỗi buồn riêng, đầu gục xuống trên hai chân rã rời. Bấy giờ có tiếng gõ cửa. Các bà lo sợ. Tiếng gõ nhẹ và rụt rè. Không quân thù nào có kiểu gõ như vậy. Dù vẫn sợ hãi, các bà ra mở cửa và đón một người bạn hay gia nhân của bạn hữu Đức Chúa. Họ vây quanh dồn dập hỏi han, và lại được nghe toàn chuyện buồn phiền mới. Các bà không còn giữ im lặng được nữa, họ tuốn ra đường phố để dò la tin tức về Đức Giêsu, dù rằng không lâu sau đó, họ lại trở về nhà với những đau buồn khác.
Hầu hết các Tông Đồ và môn đệ giờ đây rụt rè lang thang trong các thung lũng chung quanh Giêrusalem, hoặc trốn trong các hang động núi Cây Dầu. Họ khởi sự tìm đến nhau, khẽ hỏi nhau tin tức, và mỗi khi nghe tiếng chân ai đến gần là họ lại im lặng. Họ thường thay đổi nơi trú ẩn, còn một số người mạo hiểm đến gần thành phố. Một số khác lén đến lều trại của các khách hành hương để dò la tin tức từ người thân quen của mỗi miền, hoặc sai người dọ thám vào thành phố với cùng một mục đích. Một số khác lại leo lên đỉnh núi Sion lo lắng theo dõi các ánh đuốc ra vào, lắng nghe các tiếng động từ đàng xa rồi họ tưởng tượng hàng ngàn câu phỏng đoán lý do, và sau đó họ vội vã xuống thung lũng với hy vọng được biết vài điều.
Sự tĩnh lặng của ban đêm càng lúc càng bị tiếng ồn ào gián đoạn, hối hả chung quanh tòa Caipha. Khu vực này sáng choang với đèn đuốc, trong khi chung quanh thành phố vang lên tiếng rống của súc vật mà khách dự lễ đem đến trong khu vực hành lễ. Ôi chao, thật mủi lòng biết bao trước tiếng be be của cừu non hiền từ, vô tội bơ vơ! Tiếng kêu ấy vang lên trong đêm tối từ biết bao con vật nhỏ bé sáng hôm sau sẽ bị sát tế trong Đền Thờ. Chỉ có một Đấng tự hiến vì chính Người muốn như vậy. Như con cừu bị đưa đi sát tế, Người không mở miệng; và như con chiên câm nín trước người xén lông, Người không nói một lời. Con Chiên Vượt Qua Tinh Tuyền Không Tì Ố đó là Đức Giêsu Kitô!
Trùm trên cảnh tượng này là bầu trời đen và thấp. Vầng trăng di chuyển với vẻ đầy đe dọa, trên mặt có những đốm đen. Nó có vẻ bệnh hoạn và sợ hãi, như thể nó rùng mình khi nghĩ đến ngày mai là lúc Đức Giêsu bị xử tử. Bên ngoài thành phố về phía Nam, trong thung lũng Himon hoang vu, đồi dốc và tối tăm, một người cô đơn lang thang qua các vùng đầm lâày ghê tởm, đầy dẫy những phân thú và rác rến, hắn đau đớn vì lương tâm dằn vặt nên tránh né ngay cả cái bóng của mình và đang bị Satan săn đuổi, đó là Giuđa Ítcariốt, tên phản bội-trong khi hàng ngàn ma quái chập chờn chung quanh đủ mọi phía thúc giục con người làm điều độc ác và vướng vào cạm bẫy tội lỗi. Cửa hoả ngục được mở ra và khắp mọi nơi ma quỷ xúi giục con người làm điều xấu xa. Gánh nặng của con Chiên lại càng nặng nề hơn, và cơn thịnh nộ của Satan lại gia tăng gấp bội, thật vậy nó trở nên mù quáng và điên cuồng. Con Chiên nhận lấy mọi gánh nặng trên mình, nhưng Satan lại muốn tội lỗi. Mặc dù Đấng Công Chính không phạm tội, mặc dù Đấng bị cám dỗ đã không sa ngã, nhưng hãy để các kẻ thù của Người tàn lụi trong chính tội lỗi của chúng.
Các thiên thần dao động buồn vui lẫn lộn. Các vị từng ước ao nài xin Thiên Chúa đổ xuống cho Đức Giêsu một chút giúp đỡ, nhưng đồng thời họ chỉ có thể tôn thờ trong kinh ngạc tột cùng lòng thương xót và công bằng của Thiên Chúa mà Đấng Thánh của các Thánh ở tột đỉnh thiên đàng đã dự định từ thuở đời đời, và nay sắp sửa hoàn tất trong thời gian của trần thế-vì các thiên thần tin ở Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Thành trời đất, và tin Đức Giêsu Kitô, Con duy nhất của Thiên Chúa, xuống thai bởi Chúa Thánh Thần, được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, Người bắt đầu chịu khổ hình đêm nay dưới thời Phongxiô Philatô, Người sẽ chịu đóng đinh vào ngày mai, sẽ chết, và sẽ được mai táng; Người sẽ xuống ngục tổ tông, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy từ kẻ chết; Người sẽ lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha Toàn Năng, từ đó Người sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Các thiên thần cũng tin ở Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo, các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác loài người sẽ sống lại và sự sống đời đời. Amen!
Tất cả những điều này chỉ là một phần nhỏ của một ấn tượng tràn ngập đến vỡ tung một tâm hồn tội lỗi đáng thương vì đau khổ, thống hối, an ủi và thương cảm. Muốn tìm kiếm một vài khuây khoả từ các cảnh tượng khủng khiếp này, linh hồn ấy chỉ cần một vài phút quay về việc tàn nhẫn bắt giữ Đức Chúa và nhìn về Giêrusalem lúc nửa đêm, giờ phút gặp gỡ của công lý vô cùng và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, ôm ấp, đan quyện nhau, khởi đầu công trình thánh thiện nhất của Thiên Chúa và tình yêu loài người, để trừng trị tội lỗi con người đã được Thần Nhân gánh chịu, và để chuộc tội cho con người cũng bởi chính Thần Nhân ấy. Đó là bề ngoài của Giêrusalem khi Đấng Cứu Thế bị dẫn đến tòa Anna.
----------------------------
CHƯƠNG VIII
ĐỨC GIÊSU TRƯỚC TOÀ ANNA
Khi Đức Giêsu bị điệu đến dinh Anna qua hành lang sáng choang của tòa án thì đã gần nửa đêm. Người được dẫn vào sảnh đường lớn như một ngôi nhà thờ nhỏ. Đối diện với cổng vào là một bệ cao, mà người ta có thể đi lại ở bên dưới, trên đó Anna ngồi giữa hai mươi tám cố vấn. Một chuỗi bậc đá dẫn đến mặt tiền của tòa, hay ghế quan tòa, mà một số bậc bị nứt nẻ ở những chỗ đi lại nhiều hay những chỗ ngồi nghỉ, sau ghế quan tòa có lối vào, vì vậy có thể liên lạc với phần sau của tòa nhà.
Đức Giêsu, vẫn bị đám lính đã bắt giữ Người bao vây, giờ đây bị các tên cung thủ cầm giây lôi lên vài bậc đá. Sảnh đường đầy lính tráng, đám người đê tiện, bọn người Do Thái vu khống, các đầy tớ Anna, và một số nhân chứng mà Anna đã cho triệu tập và sau này chúng cũng lại xuất hiện ở nhà Caipha.
Anna nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế đáng thương. Hắn vui cười với niềm vui tinh quái với một cái nhìn xảo trá chế nhạo. Lúc bấy giờ, hắn là chánh án tại một vài tòa, và hắn ngồi đây với một uỷ ban có quyền khảo sát các học thuyết sai lạc và giao kẻ có tội lên Thượng Tế.
Đức Giêsu nhợt nhạt, kiệt quệ, im lặng đứng trước Anna, đầu Người hơi cúi. Y phục của Người ướt sũng và vấy bùn, tay Người bị cùm, thắt lưng Người bị cột giây mà các cung thủ nắm đầu giây bên kia. Anna, tên già nua nóng nảy, gầy guộc với bộ râu thưa, đầy ngạo mạn lạnh lùng và cứng cỏi của người Do Thái. Hắn cười nửa miệng như thể không biết gì về những việc xảy ra, và như hắn thực sự kinh ngạc khi thấy Đức Giêsu được đem ra trình diện hắn trong tư cách một tù nhân. Anna nói với Đức Giêsu bằng một giọng điệu mà tôi không thể bắt chước được, tỉ như: "Ha, coi kìa! Giêsu Nagiarét! Thì ra chính ngươi! Các môn đệ của ngươi đâu cả rồi? Đám Đông theo ngươi đâu rồi? Vương quốc của ngươi ở đâu? Dường như mọi sự đã đảo lộn đối với ngươi! Những vu khống của ngươi đã đến lúc phải chấm dứt! Dân chúng đã chán ngấy với lời phạm thượng của ngươi. Những lời ngươi vu khống các tư tế, và phá vỡ luật lệ ngày Sabát. Ai là môn đệ của ngươi? Chúng đâu cả? Sao bây giờ im lặng vậy? Hãy lên tiếng đi, tên xúi dân nổi loạn! Nói đi, tên dụ dỗ! Có phải ngươi đã ăn lễ Vượt Qua ở một nơi phi pháp? Ngươi muốn quảng bá một giáo thuyết mới. Ai cho ngươi quyền giảng dạy? Ngươi học thứ đó ở đâu? Nói! Học thuyết của ngươi là gì mà làm đảo lộn mọi thứ? Nói! Nói đi! Học thuyết của ngươi là gì?"
Nghe những lời này, Đức Giêsu ngước đầu mệt mỏi, nhìn Anna và trả lời: "Tôi vẫn nói công khai trước mặt thế gian nơi người Do Thái thường tụ tập. Tôi không nói điều gì trong vòng bí mật. Tại sao ông hỏi tôi? Hãy hỏi những người đã nghe tôi nói. Đó! Họ biết những gì tôi nói."
Phản ứng của Anna khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu là thịnh nộ và khinh bỉ. Một tên đầy tớ đứng gần Đức Chúa, khi nghe Người trả lời, liền đưa tay lên đánh vào mặt Người. Cú đấm trúng ngay miệng và gò má của Đức Chúa trong khi tên hạ tiện này hùng hổ: "Ngươi trả lời Thượng Tế như vậy hả?" Đức Giêsu run rẩy dưới sức mạnh của quả đấm và cùng lúc bị các tên lý hình kéo giật, đứa kéo đầu này, đứa kéo đầu kia, nên Người ngã xuống bậc đá, máu rướm ra từ mặt. Cả sảnh đường vang dội tiếng cười nhạo, lầu bầu và lăng mạ. Sau trận hành hạ mới, chúng kéo Đức Giêsu đứng dậy. Người nhỏ nhẹ nói: "Nếu tôi nói sai, hãy đưa ra bằng chứng, nhưng nếu tôi nói đúng, tại sao lại đánh tôi?"
Anna, vẫn điên tiết trước thái độ bình thản của Đức Giêsu, hắn cho gọi các nhân chứng (vì chính Đức Giêsu muốn như vậy) hãy tiến ra và công bố bất cứ gì mà họ đã nghe Người nói trước kia. Thế là bọn hèn hạ bắt đầu la ó và nhục mạ. Họ kêu lên: "Nó nói nó là vua, và Thiên Chúa là Cha của nó, còn người Pharisiêu là bọn ngoại tình. Nó khuấy động dân chúng, nó chữa bệnh trong ngày Sabát nhờ quyền lực của ma qủy. Dân cư ở Ôphen như điên dại vì nó, gọi nó là người giải phóng, là ngôn sứ. Nó để người ta gọi nó là Con Thiên Chúa. Nó tự xưng là người được Chúa sai đến. Nó lớn tiếng nguyền rủa Giêrusalem, và ám chỉ thành này sẽ bị phá hủy. Nó không giữ chay. Nó đi đây đó với đám môn đệ. Nó ăn mà không rửa tay, nó nhậu nhẹt với quân ngoại đạo, phường thu thuế và kẻ tội lỗi, nó lang thang với các phụ nữ ngoại tình và các đàn bà xấu xa. Vừa mới đây, ngay ngoài cổng thành Ôphen, nó nói với người cho nó uống nước là nó sẽ ban cho họ nước hằng sống và họ sẽ không bao giờ khát nữa. Nó dụ dỗ người ta với những lời nói hai nghĩa. Nó phí phạm tiền bạc và tài sản của người khác. Nó nói với dân chúng đủ loại dối trá về vương quốc của nó và những điều tương tự."
Những cáo buộc này được đưa ra chống Đức Chúa mà không cần theo thứ tự và có thích hợp hay không. Các nhân chứng bước tới tố cáo Người, họ khoa chân múa tay trước mặt Người, trong khi các cung thủ lại kéo bên nay giật bên kia, chúng la lớn: "Nói đi! Trả lời đi!" Anna và các cố vấn nhạo cười, sỉ nhục Người trong khi các nhân chứng vừa dứt lời; tỉ như, họ nói: "Bây giờ tới phiên ngươi đó! Chúng ta nghe giáo thuyết hay thật! Ngươi trả lời gì? Đó cũng là điều giảng dạy ngoài công chúng. Cả nước đầy dẫy giáo thuyết đó! Ngươi không thể nói gì ở đây sao? Sao ngươi không ban ra vài mệnh lệnh, này vua-Con Thiên Chúa-cho thấy sứ mệnh của ngươi đi!"
Những phát biểu của các quan tòa được bồi theo bằng những cú kéo mạnh, xô đẩy, nhạo cười của các lý hình, và các người đứng xem, họ thấy vui khi bắt chước các tên xấc xược đến vả vào mặt Đức Giêsu.
Đức Giêsu lảo đảo bên này bên kia. Với vẻ mặt cứng rắn lạnh lùng, Anna lại nói với Người: "Ngươi là ai? Ngươi là loại vua gì? Ngươi là loại đại diện gì? Ta nghĩ ngươi chỉ là con của một tên thợ mộc vô danh. Hay ngươi là Êlia được đưa lên trời bằng cỗ xe bốc lửa? Họ nói ông ấy còn sống mà. Ngươi cũng có thể làm cho chính ngươi trở nên vô hình, vì ngươi đã từng biến dạng mà. Hay có lẽ ngươi là Malaki chăng? Ngươi luôn khoác lác về ngôn sứ này, và ngươi thích dùng lời của ngôn sứ ấy mà nói về chính ngươi. Người ta cũng nói là ngôn sứ ấy không có cha, là thiên thần, và vì vậy ngôn sứ ấy chưa chết. Thật là một cơ hội quý báu để mạo danh Malaki! Nói đi, ngươi là loại vua gì? Ngươi cao trọng hơn cả Sôlômon sao! Đó cũng là điều ngươi nói mà!"
Bấy giờ Anna truyền lệnh đưa vật liệu ra để viết. Lấy một giải bằng da dài chừng một mét và rộng chừng ba ngón tay, hắn đặt giải da trên bàn trước mặt và với cây bút làm bằng sậy hắn viết một danh sách các lời cáo buộc Đức Chúa. Sau đó hắn cuộn giải da lại và nhét vào trái bầu rỗng rồi đậy nắp. Kế đó hắn cột trái bầu vào cây sậy và, đưa cho Đức Giêsu cầm như vương trượng, rồi hắn nói với Người những lời lẽ khinh miệt như sau: "Đây, hãy cầm lấy vương trượng của nước ngươi. Trong đó bao gồm tất cả mọi danh hiệu của ngươi, mọi quyền bính của ngươi, và mọi vinh dự của ngươi. Hãy mang nó đến vị Thượng Tế, để may ra ông ấy công nhận sứ vụ của ngươi và vương quốc của ngươi, và đối xử với ngươi cho xứng hợp hơn." Sau đó, quay sang các tên lính, Anna nói: "Cột tay nó lại và dẫn tên vua ngụy này đến vị Thượng Tế." Trước đây, có lúc họ đã nới lỏng tay của Đức Giêsu. Giờ đây chúng lại cột chéo hai tay Người trước ngực sau khi buộc các lời kết tội của Anna vào đó, và vì thế, giữa các tiếng la ó, nhạo cười, chế diễu và đủ loại xỉ nhục, Đức Giêsu lại bị kéo đi từ tòa Anna sang nhà Caipha.
-------------------------------------------
CHƯƠNG IX
ĐỨC GIÊSU BỊ DẪN ĐI TỪ TOÀ ANNA ĐẾN TÒA CAIPHA
Khi bị dẫn tới tòa Anna, Đức Giêsu phải đi qua nhà Caipha. Bây giờ Người lại bị dẫn trở lại trên con đường chéo giữa hai nhà, chỉ cách khoảng ba trăm bước. Con đường nằm giữa mấy bức tường cao và dẫy nhà nhỏ thuộc về hành lang tòa án của Caipha, được thắp sáng bằng đèn đuốc, và đầy những người Do Thái hung dữ và ồn ào. Phải vất vả lắm thì các người lính mới đẩy lui được đám Đông. Những người từng xúc phạm Đức Giêsu ở tòa Anna lại tiếp tục chêá diễu và hành hạ, xỉ nhục Người suốt trên quãng đường. Tôi thấy mấy người vũ trang thuộc đủ cấp bậc của tòa án đang đẩy lui một ít người than khóc, thương cảm Đức Giêsu, trong khi một số khác túm năm tụm ba mắng nhiếc và kết tội Người. Bọn này hối lộ để được vào trong tòa Caipha.
Để lên tòa Caipha, người ta phải đi qua một cổng dẫn vào sân lộ thiên thật rộng, sau đó qua một cổng thứ hai vào một sân khác, có tường cao, bao chung quanh toà nhà. (Chỗ này chúng ta sẽ gọi là tòa trong). Một loại tiền đình có ba mặt được bao bọc bằng các cột ở đằng trước tòa nhà, mà chiều dài gấp đôi chiều rộng và trước đó là một quảng trường vuông vức. Tiền đình này được gọi là "atrium", có ba lối dẫn vào từ ba phía, mà lối chính từ phía sau, đó là từ chính tòa nhà. Vào từ phía này, người ta có thể đi sang bên trái ra ngoài trời đến một lò xây bằng gạch, trong đó lửa luôn luôn cháy; sau đó rẽ sang phải, họ sẽ gặp một sân có mái che mà sau lưng là dẫy cột thật cao. Chỗ này tạo thành mặt thứ tư của "atrium" và kích thước chừng một nửa. Ở đây có một bục hình bán nguyệt cao hơn mặt đất vài bậc, có ghế của các thành viên Hội Đồng. Ghế của Thượng Tế ở giữa và cao nhất. Tù nhân, có lính bao quanh, đứng ở giữa vòng bán nguyệt. Ở hai bên hoặc phía sau tù nhân là chỗ của các nhân chứng và người kết tội. Các cửa phía sau ghế quan toà dẫn đến một phòng lớn, hình tròn, chung quanh tường có ghế ngồi. Phòng này được dùng để bàn chuyện mật. Khi rời ghế quan toà và đi vào sảnh đường này, người ta sẽ thấy các cửa bên trái và bên phải. Các cửa này mở ra các bậc tam cấp đi xuống tòa trong. Khi rời sảnh đường qua cánh cửa bên phải và rẽ sang phía trái sẽ thấy lối vào một hầm tối ở dưới đất, dẫn đến các xà lim. Một trong những xà lim này, sau ngày Lễ Hiện Xuống, tôi thấy ông Gioan và Phêrô ngồi ở đó suốt đêm. Họ bị tù sau khi ông Phêrô chữa lành người què ở Cổng Đẹp của Đền Thờ.
Bên trong và chung quanh tòa nhà đèn đuốc sáng choang như ban ngày. Ngoài ra, ở giữa "atrium" là một lò lửa sáng rực. Nó như một cái lò chìm trong lòng đất, nhưng mở nắp. Tôi nghĩ nhiên liệu là than bùn và được mồi vào lò từ bên trên. Vươn cao ở mọi phía là các ống hình sừng cao hơn đầu người để thải khói ra. Tuy nhiên, ngay ở giữa, có thể nhìn thấy ánh lửa. Lính tráng, đầy tớ, bọn hạ cấp, hầu hết được hối lộ để làm chứng dối đang đứng chung quanh lò lửa. Trong bọn có một vài phụ nữ, các cô gái không đoan trang, bán nước uống cho lính tráng và bán bánh nướng cho họ để kiếm ít tiền. Cảnh tượng vô trật tự và náo nhiệt này làm tôi nhớ đến ngày hội hè đình đám.
Hầu hết những người được mời triệu tập đã tề tựu chung quanh Thượng Tế Caipha ngồi trên bục bán nguyệt, trong khi đây đó còn có thêm người đi vào. Các người kết án và các chứng dối hầu như tràn ngập "atrium"; những người khác đang cố chen vào, và thật khó để giữ họ đứng yên tại chỗ.
Không lâu trước khi đám rước dẫn Đức Giêsu vào, ông Phêrô và Gioan, vẫn còn khoác áo của người đưa tin, đi vào tòa ngoài. Nhờ đám đầy tớ quen biết can thiệp nên ông Gioan may mắn lọt qua được cổng vào tòa trong, nhưng vì đám Đông chen lấn, cửa này được đóng lại lập tức. Ông Phêrô, chậm chân vì đám Đông, khi đến được cổng thì người gác không cho vào. Ông Gioan ra can thiệp, nhưng ông Phêrô vẫn không vào được bên trong nếu sau đó không có sự can thiệp của ông Nicôđêmô và Giuse Arimathê vừa mới đến. Khi vào bên trong, cả hai cởi áo choàng và đưa trả cho các người phục dịch, và sau đó đứng lẫn vào đám Đông trong "atrium" phía bên phải, nơi họ có thể thấy ghế các quan toà. Caipha đã ngồi trên toà cao, và chung quanh hắn có khoảng bảy mươi thành viên của Đại Công Nghị. Các viên chức chính phủ, các Ký Lục, và Kỳ Mục ngồi hoặc đứng ở hai bên, và chung quanh họ là các nhân chứng và đám người đê tiện. Lính tráng đứng trấn giữ ở bên dưới bục, ở phía cổng có hàng cột cao, và ở chung quanh "atrium" kéo dài tới cửa là nơi đám rước sẽ đi vào. Cửa này không trực tiếp đối diện với tòa án, nhưng ở phía trên trái của "atrium".
Caipha là một người nghiêm nghị, nét mặt hồng hào và hung dữ. Hắn khoác một chiếc áo dài đỏ sậm được trang điểm bằng hoa và tua vàng. Trên vai, trước ngực và dọc theo đằng trước là các vòng bạc sáng choang dưới nhiều hình dạng. Trên đầu đội nón giống như nón giám mục ngày nay, phía trước và sau uốn cong và dính lại ở đỉnh, hai bên để trống và có vạt phủ dài xuống vai. Caipha và các cố vấn đã tụ họp ở đây từ lâu; nhiều người vẫn ngồi tại đây ngay sau khi Giuđa và nhóm lính đi bắt Đức Giêsu. Caipha tức giận và thiếu kiên nhẫn đến độ, dù đang mặc y phục lộng lẫy, hắn cũng bước khỏi ngai và đi ra tòa ngoài để hỏi một cách giận dữ xem Đức Giêsu đã đến chưa. Sau cùng, khi thấy đám rước đang đi đến thì Caipha trở về ghế ngồi.
-----------------------------
CHƯƠNG X
ĐỨC GIÊSU TRƯỚC MẶT CAIPHA
Giữa những tiếng kêu gào nhục mạ như điên dại, với những xô đẩy, lôi kéo và ném bùn, Đức Giêsu bị dẫn vào "atrium", là nơi, thay vì sự thịnh nộ không kềm chế được của đám Đông lại là những tiếng xì xào và thì thầm của sự giận dữ được kềm lại. Rẽ về bên phải của lối vào, đám rước đối diện với tòa án. Khi Đức Giêsu đi ngang qua Phêrô và Gioan, Người trìu mến liếc nhìn họ tuy không quay đầu lại vì sợ họ bị lộ diện. Khi Người vừa mới đi qua hàng cột ở lối vào và xuất hiện trước Đại Công Nghị, Caipha đã lớn tiếng nói với Người: "Ngươi đã đến, tên xúc phạm Thiên Chúa, Ngươi dám xáo trộn đêm linh thiêng này!" Trái bầu đựng lời kết tội của Anna được tháo ra khỏi vương trượng giả. Khi lời kết tội được đọc lên, Caipha tuôn ra một tràng trách mắng và nhục mạ Đức Giêsu, trong khi lính tráng và những người độc ác đứng gần đó kéo giật Người từng chặp. Chúng cầm trong tay các thanh sắt nhỏ, một số có đầu nhọn, một số có hình trái lê để thúc bên này, thọc bên kia và hét lớn: "Trả lời đi! Mở miệng ra! Không biết nói hả!" Tất cả những điều ấy xảy ra trong khi Caipha, còn giận dữ hơn Anna, quát tháo ầm ĩ hết câu hỏi này đến câu hỏi khác với Đức Giêsu. Nhưng Chúa bình tĩnh và chịu đựng, mắt nhìn xuống đất, ngay cả không liếc nhìn Caipha. Bọn độc ác, để buộc Người phải nói, đã đánh vào cổ, đấm thụi Người từ đủ mọi phía. Hơn thế nữa, một tên hung ác dùng ngón tay cái ấn môi dưới của Đức Giêsu vào răng và nói: "Cắn đi!"
Và bây giờ đến phần hỏi cung nhân chứng. Nó không gì khác hơn là tiếng la hét vô trật tự, tức giận của đám người được mua chuộc, hay các lời khai của kẻ thù Đức Giêsu thuộc đám Pharisiêu và Xađucê bực tức. Một số người trong bọn họ được chọn ra để đại diện cho nhóm trong phần hào hứng này. Chúng đưa ra các điểm mà trước đây Đức Giêsu đã trả lời chúng hàng trăm lần: tỉ như, chúng nói Người chữa bệnh và trừ quỷ nhờ quyền lực của quỷ; Người vi phạm ngày Sabát, không giữ chay; môn đệ Người ăn cơm không rửa tay; Người xúi giục dân chúng, gọi người Pharisiêu là loài rắn độc và thế hệ ngoại tình; Người tiên đoán sự hủy diệt của Giêrusalem; và giao dịch với người ngoại đạo, bọn thu thuế, người tội lỗi và các phụ nữ tai tiếng; Người đi đó đây với đám Đông môn đệ, tự cho mình là một ông vua, một ngôn sứ, phải, ngay cả xưng mình là Con Thiên Chúa; và Người thường nói về Nước Trời. Hơn thế nữa, chúng còn đưa ra rằng Người lên án việc tự do ly dị, Người chúc dữ cho Giêrusalem, Người tự coi là Bánh Sự Sống và đưa ra một giáo thuyết chưa từng nghe thấy bao giờ đó là ai không ăn Thịt và uống Máu Người sẽ không có sự sống đời đời.
Theo cách đó, mọi lời lẽ, giáo huấn và dụ ngôn của Người bị hiểu lầm và xuyên tạc, bị lẫn lộn với các lời sỉ nhục và tức giận, và được gán cho Người như các tội ác. Tuy nhiên, các nhân chứng lại mâu thuẫn và gây lúng túng cho nhau. Một người nói: "Nó tự xưng là vua"; người kia lại kêu lên: "Không! Nó chỉ làm kiểu cách thế thôi, vì khi dân chúng muốn tôn nó làm vua thì nó lại bỏ trốn." Sau đó một người khác la lớn: "Nó nói nó là Con Thiên Chúa," và rồi lại có người bắt bẻ: "Không, không phải vậy! Nó chỉ xưng là con vì nó chu toàn ý muốn của người cha." Một số khác tuyên bố rằng những người được Đức Giêsu chữa lành lại bị đau trở lại, như thế quyền năng chữa lành của Người không gì khác hơn là yêu thuật. Về lời buộc tội dùng ma thuật, nhiều người được đưa vào để chống đối Người, và rất Đông nhân chứng tiến ra. Việc chữa lành một người ở Hồ Bétsaiđa được đưa ra một cách méo mó và được trình bầy sai lạc. Những người Pharisiêu ở Sêphôrít, mà Đức Giêsu từng tranh luận với họ về vấn đề ly dị, bây giờ kết án Người về tội giảng dạy một giáo thuyết sai lầm, và một thanh niên ở Nagiarét, người mà Đức Giêsu từ chối không nhận làm môn đệ, giờ đây hắn đê tiện đến độ dám tiến ra làm chứng tố cáo Người. Chúng còn kết án Người về tội tha thứ cho một phụ nữ phạm tội ngoại tình, dám tố cáo tội ác của người Pharisiêu, và nhiều điều khác.
Bất kể mọi nỗ lực, chúng vẫn không thể chứng minh được một lời buộc tội nào. Đám Đông nhân chứng dường như tiến ra để chế diễu Đức Giêsu hơn là để làm chứng. Chúng sôi nổi cãi nhau, trong khi Caipha và một số cố vấn khác không ngừng nhạo cười vui vẻ và thêm lời châm chọc. Họ lớn tiếng: "Ngươi là loại vua gì? Hãy chứng tỏ quyền lực của Ngươi đi! Hãy gọi đoàn lũ thiên thần mà ngươi nói trong vườn Cây Dầu đi! Ngươi giấu tiền bạc của các bà goá và các tên khờ dại ấy ở đâu? Ngươi hoang phí cả một tài sản, và ngươi có gì để chứng minh quyền đó? Trả lời đi! Nói đi! Bây giờ ngươi phải nói trước các quan toà thì ngươi lại câm nín; lẽ ra ngươi phải làm thinh trước đám Đông và đám phụ nữ thấp hèn thì ngươi lại nói quá nhiều," v.v.
Mọi lời ấy được kèm theo những hành hạ mới của các đầy tớ, chúng đấm đá để cố gắng bắt Người phải trả lời. Chỉ nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa nên Người mới sống nổi, để có thể gánh tội trần gian. Một số nhân chứng độc ác tuyên bố Người là một đứa con bất hợp pháp, mà lời buộc tội ấy lại trái ngược với lời lẽ sau: "Điều đó sai lầm! Mẹ của nó là một trinh nữ đạo đức thuộc về Đền Thờ, và chúng tôi có mặt trong đám cưới của bà ấy với một ông rất kính sợ Thiên Chúa." Và sau đó các nhân chứng này cãi nhau om xòm.
Kế đó chúng kết án Đức Giêsu và các môn đệ về tội không dâng lễ vật vào Đền Thờ. Đúng là tôi không bao giờ thấy Đức Giêsu và các Tông Đồ đem bất cứ lễ vật nào vào Đền Thờ ngoại trừ chiên Vượt Qua, tuy nhiên ông Giuse và bà Anna, khi còn sống, thường dâng lễ vật thay cho Đức Giêsu. Nhưng tục lệ này không có giá trị, vì người Étsen không bao giờ dâng lễ vật, và không ai nghĩ là phải trừng phạt họ vì sự thiếu sót này. Lời kết tội dùng ma thuật thường được lập lại nhiều nhất, và hơn một lần, Caipha từng tuyên bố rằng các nhân chứng lầm lẫn trong lời cáo buộc cũng vì ma thuật.
Giờ đây một vài người nói rằng Đức Giêsu đã trái luật khi ăn chiên Vượt Qua vào ngày hôm trước, và năm trước đó, cũng vào ngày lễ này, Người đã cho phép các điều trái luật khác. Lời chứng này lại tạo nên sự tức giận và chế giễu của đám Đông đê tiện. Nhưng các nhân chứng quá bối rối và mâu thuẫn với nhau đến độ Caipha và các cố vấn, dù nhục nhã và điên tiết, cũng phải tuyên bố là không có lời chứng nào có giá trị. Sau đó ông Nicôđêmô và Giuse Arimathê được gọi ra để giải thích tại sao họ lại để Đức Giêsu ăn lễ Vượt Qua ở căn phòng thuộc sở hữu của ông Giuse. Đứng trước Caipha, hai ông đưa ra tài liệu chứng mình, theo truyền thống cổ truyền, người Galilê được phép ăn lễ Vượt Qua sớm hơn người Do Thái một ngày. Hai ông nói thêm là mọi điều khác liên hệ đến việc mừng lễ cũng được tuân giữ cẩn thận, vì có như thế những người làm việc Đền Thờ mới có thể hiện diện. Điều khẳng định này làm các nhân chứng vô cùng bối rối, và các kẻ thù của Đức Giêsu rất bực tức khi ông Nicôđêmô cho đem ra các văn kiện và chỉ rõ đoạn văn nói về quyền lợi của người Galilê. Ngoài một vài lý do khác nói đến quyền lợi này, mà tôi quên mất, còn có điều này: các đám người quá Đông quy tụ cùng một lúc và cùng một mục đích trong Đền Thờ thì không thể nào cử hành các nghi thức vào cùng một thời điểm; vả lại, nếu tất cả đều trở về nhà cùng một lúc thì đường phố quá chật chội không thể nào di chuyển được. Mặc dù người Galilê thường không lạm dụng quyền lợi của họ, tuy nhiên ông Nicôđêmô đã đưa ra tài liệu để chứng minh một cách chắc chắn về quyền lợi ấy. Cơn thịnh nộ của người Pharisiêu đối với ông Nicôđêmô lại càng mạnh hơn khi ông kết luận rằng các nghị viên của Đại Công Nghị phải cảm thấy buồn phiền khi bị gọi đến chủ tọa một phiên toà hiển nhiên được thiết lập vì thành kiến, được diễn ra vội vàng và quá hung bạo vào đêm trước ngày lễ trọng; và vì thế những mâu thuẫn trắng trợn của các nhân chứng trước sự hiện diện của họ và trước đám Đông phải là một sỉ nhục lớn lao đối với các nghị viên. Người Pharisiêu giận dữ liếc nhìn ông Nicôđêmô và, với sự xấc xược trơ tráo, chúng vội vàng tiếp tục tra hỏi các nhân chứng. Sau nhiều lúng túng, sai lầm, chứng cớ gian dối, hai nhân chứng bước ra và nói: "Ông Giêsu tuyên bố là ông ấy sẽ tiêu hủy Đền Thờ do tay con người làm ra, và trong ba ngày sẽ xây lại Đền Thờ khác không do tay con người." Nhưng hai người này cũng cãi nhau về lời lẽ của họ. Một người nói: "Ông Giêsu sẽ xây một Đền Thờ mới; do đó ông mừng lễ Vượt Qua mới ở chỗ khác, vì ông sẽ tiêu hủy Đền Thờ cũ." Người kia vặn lại: "Nhà mà ông ta ăn lễ Vượt Qua do tay con người làm ra, do đó ông ta không muốn nói như vậy."
Bấy giờ Caipha thật sự điên tiết, vì sự hành hạ Đức Giêsu, sự mâu thuẫn trong lời chứng, và sự im lặng không thể hiểu của Bị Cáo bắt đầu gây một ấn tượng sâu đậm nơi các người hiện diện, và một số nhân chứng còn bị nhạo cười khinh miệt. Sự im lặng của Đức Giêsu đã thức tỉnh lương tâm nhiều người, và khoảng mười người lính quá xúc động trước sự kiện ấy đã miễn cưỡng rời tòa án. Khi họ đi ngang ông Phêrô và Gioan, họ nói với hai ông: "Sự im lặng của ông Giêsu người Galilê giữa những đối xử đáng hổ thẹn thật thương tâm. Cũng lạ là đất không mở ra mà nuốt chửng những tên hành hạ Người. Nhưng các ông hãy cho chúng tôi biết, chúng tôi phải đi đâu?" Tuy vậy, hai Tông Đồ có lẽ vì không tin mấy người lính này hoặc sợ bị nhận diện là môn đệ Đức Giêsu, nên đã buồn bã trả lời một cách rất tổng quát: "Nếu các ông thấy đó là sự thật thì hãy đi theo sự thật; đừng lo đến các điều khác." Sau đó hai người lính ra khỏi tòa ngoài và vội vã đi về thành phố. Họ gặp một vài người đã hướng dẫn họ đến các hang đá ở bên kia núi Cây Dầu về phía Nam Giêrusalem. Ở đây họ tìm thấy một vài Tông Đồ đang ẩn nấp mà lúc đầu họ lùi bước đề phòng. Nhưng sự sợ hãi của họ tan biến khi nghe tin về Đức Giêsu và biết rằng chính các người lính này cũng bị nguy hiểm. Sau đó không lâu, họ chia tay nhau và tản mát đi nhiều nơi.
Caipha, điên tiết vì cuộc cãi nhau của hai nhân chứng sau cùng, nên hắn đã đứng dậy, đi xuống một vài bậc tiến về Đức Giêsu và nói: "Ngươi không trả lời gì về những lời cáo buộc này sao?" Hắn bực tức khi Đức Giêsu không nhìn hắn. Lúc ấy, tên lý hình nắm tóc Đức Giêsu kéo ngửa đầu ra đằng sau và đấm vào cằm Người. Nhưng ánh mắt Người vẫn nhìn xuống. Caipha giận dữ vung hai tay lên và bằng một giọng đầy phẫn nộ, hắn nói: " Nhân danh Thiên Chúa hằng sống Ta buộc ngươi phải nói cho chúng ta biết có phải ngươi là Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu, Con Thiên Chúa Đáng Được Chúc Tụng Nhất hay không?"
Một sự im lặng nặng nề bao trùm đám Đông đang ồn ào. Đức Giêsu, được Thiên Chúa thêm sức, lên tiếng bằng một giọng uy nghi không thể diễn tả, một giọng làm mọi tâm hồn phải kính sợ, giọng của Ngôi Lời Vĩnh Cửu: "Ta đây! Ngươi nói đúng! Và Ta nói cho ngươi biết, không bao lâu ngươi sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu của Thiên Chúa quyền năng, và sẽ từ Trời ngự xuống trong đám mây!"
Khi Đức Giêsu công bố những lời này, tôi thấy Người rực sáng. Các tầng trời mở ra trên Người và, trong một phương cách không thể diễn tả được, tôi nhìn thấy Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng. Tôi thấy các thiên thần và lời cầu nguyện của người công chính từng kêu cầu nài van cho Đức Giêsu. Ngoài ra, tôi thấy Thiên Tính như đang lên tiếng từ Chúa Cha và cùng lúc từ Đức Giêsu: "Nếu Ta có thể chịu đau khổ thì Ta đã làm như vậy, nhưng vì Ta từ bi, Ta đã mặc lấy xác phàm trong Ngôi Vị của Con Ta, để Con Người có thể chịu đau khổ. Ta công bằng chính trực-nhưng kìa! Ngôi Con đang gánh tội của những người này, tội lỗi của toàn thể nhân loại!"
Qua khe hở bên dưới Caipha, tôi thấy vực thẳm của Hỏa Ngục, một khối cầu đầy lửa và khủng khiếp với những hình dạng ghê sợ. Tôi thấy Caipha đứng trên đó, tách biệt với hỏa ngục chỉ qua một lớp mỏng. Tôi thấy hắn ngập tràn thịnh nộ quỷ quái. Giờ đây, cả tòa nhà dường như hòa làm một với vực thẳm Hỏa Ngục ở bên dưới. Khi Đức Chúa long trọng tuyên bố Người là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì hình như Hỏa Ngục khiếp sợ trước mặt Người, như thể nó dốc toàn lực để chống đối Đức Giêsu qua những người đang quy tụ trong tòa Caipha. Khi tôi thấy những điều này trong các cảnh tượng và hình ảnh, tôi thấy sự tuyệt vọng và tức giận của Hỏa Ngục trong biết bao hình thù khủng khiếp bay đến nhiều nơi trên trái đất. Trong đám ấy, tôi nhớ có thấy các đám hình thù nhỏ và đen đúa như những con chó với bàn chân ngắn và móng dài, nhưng tôi không nhớ chúng tượng trưng cho sự dữ nào. Tôi chỉ nhớ các hình thù. Tôi thấy các bóng đen trông dễ sợ như những bóng ma di chuyển giữa những người hiện diện, hoặc ngồi trên đầu, trên vai nhiều người. Chúng đầy dẫy trong nghị hội, và chúng xúi giục người ta giận dữ và độc ác. Vào lúc đó tôi cũng thấy, từ các ngôi mộ ở bên sườn núi Sion, các hình thù ghê tởm bay lên khỏi mặt đất. Tôi nghĩ đó là ma qủy. Tương tự, trong vùng gần Đền Thờ, tôi thấy chúng bay ra khỏi mặt đất. Một số có vẻ đang bị cầm tù, vì chúng di chuyển chậm chạp với xiềng xích. Bấy giờ tôi không rõ những hình thù này là ma quỷ hay các linh hồn bị giam cầm ở nhiều chỗ trên mặt đất và có lẽ giờ đây đang xuống Luyện Ngục, nơi Đức Chúa sẽ mở cửa cho họ qua cái chết của Người. Không ai có thể diễn tả đầy đủ những điều ấy vì sợ mang tiếng là ngu dốt, nhưng khi được thấy, được cảm nhận những điều này, người ta phải nổi da gà. Giây phút đáng kính sợ. Tôi nghĩ là ông Gioan cũng được thấy một số điều đó, vì sau này tôi nghe ông có đề cập đến điều ấy. Những ai không hoàn toàn từ bỏ ma qủy sẽ cảm thấy sợ hãi mất tinh thần vào giây phút này, nhưng những kẻ ác độc chỉ cảm thấy giận dữ bùng nổ mà thôi.
Caipha, như được Hỏa Ngục khích lệ, liền nắm lấy vạt áo choàng lộng lẫy, lấy dao cứa một đoạn rồi xé toạc ra và la lớn: "Nó phạm thượng! Chúng ta cần gì thêm nhân chứng nữa? Đó, các ông vừa nghe lời phạm thượng, các ông nghĩ sao?" Nghe những lời này, cả công nghị đứng dậy và đồng thanh một cách dễ sợ: "Nó đáng tội chết! Nó đáng tội chết!"
Trong khi hô to, cơn thịnh nộ nham hiểm của Hoả Ngục lại càng đáng sợ hơn nữa. Bọn kẻ thù của Đức Giêsu dường như bị Satan chế ngự, và đồng bọn cùng các đầy tớ xu nịnh cũng vậy. Đây là lúc quyền lực bóng tối rêu rao chiến thắng sự sáng. Một cảm giác ghê sợ bao trùm mọi người có mặt, trong đó vẫn còn vài người giữ được chút tốt lành; họ khép áo choàng, âm thầm lẻn ra ngoài. Những nhân chứng thuộc các giai cấp cao hơn, giờ đây không cần thiết nữa, cũng rời bỏ sảnh đường lương tâm bất ổn. Tuy nhiên, đám đê tiện lại tụ tập chung quanh đôáng lửa ở đằng trước là nơi chúng ăn uống thừa mứa sau khi được trả công cho sự phản bội.
Thượng Tế nói với đám lý hình: "Ta trao tên vua này cho các ngươi. Hãy dành cho tên phạm thượng những vinh dự xứng đáng!" Sau những lời này, cùng với công nghị hắn rút lui vào phòng hình tròn phía sau tòa án, khuất sau tiền đình.
Ông Gioan xúc động sâu xa lúc đó chỉ nghĩ đến Đức Trinh Nữ. Ông sợ tin dữ do các kẻ thù đột ngột tới tai người; bởi thế, đưa mắt nhìn về phía Đức Giêsu, Đấng Thánh trên hết Các Thánh, ông nói: "Thầy ơi, Thầy biết con sẽ đi đâu," rồi ông vội vã từ tòa án ra đi tìm Đức Trinh Nữ như được chính Đức Giêsu sai đi. Ông Phêrô, héo mòn vì lo âu và đau khổ, và vì kiệt quệ, ông cảm thấy ớn lạnh vì sương sớm, ông cố che giấu sự muộn phiền rồi len lén đến gần đám lửa trong "atrium", chung quanh đủ loại người bần tiện đang sưởi ấm. Ông không biết mình đang làm gì, nhưng ông không thể rời bỏ Thầy mình được.
--------------------------------------
CHƯƠNG XI
ĐỨC GIÊSU BỊ CHẾ NHẠO VÀ SỈ NHỤC
Sau khi trao Đức Giêsu cho quân lính, Caipha với các nghị viên rời tòa, còn lại là những thành phần cặn bã đê tiện ở đó như đám tò vò điên tiết vì Đức Chúa, mà cho đến lúc ấy Người vẫn bị hai trong bốn tên cung thủ trói chặt bằng hai đầu giây. Hai người kia đã rút lui trước khi kết án để trốn thoát cùng với những người khác. Ngay trong phiên tòa, các lý hình và bọn người đê tiện khác đã hung dữ giật đứt cả một nắm tóc và râu của Đức Giêsu. Một số người tốt lành kín đáo nhặt những lọn tóc vương vãi trên mặt đất và lẻn ra ngoài. Cũng trong phiên toà những người đê tiện vả vào mặt Đức Giêsu, đánh đấm Người liên tục, dùng dùi cui có đầu nhọn thúc Người và đâm cả vào thân thể Người. Giờ đây chúng thể hiện lòng độc ác ấy một cách hoàn toàn điên cuồng và vô lý. Chúng đặt lên đầu Người những vòng rơm và vỏ cây kết thành hình dạng nực cười mà sau đó chúng dùng các vòng ấy đập vào đầu Người kèm theo các lời chế nhạo độc ác. Nhiều khi chúng la lên: "Đây là con vua Đavít được ban thưởng vương miện của cha nó!" Hoặc: "Đây là tên còn lớn hơn Solomon!" Hoặc: "Đây là tên vua đang chuẩn bị đám cưới cho con nó!" Và sau đó, chúng quay sang nhạo cười tất cả các chân lý ngàn đời mà, vì sự nghiệp cứu độ nhân loại, Người đã giảng dậy trong các dụ ngôn và chân lý. Chúng đánh Người bằng gậy, quăng Người ngã bên này bên kia, và vả vào mặt Người. Sau cùng, chúng bện một vòng rơm thô cứng và đặt trên đầu Người một cái nón, gần giống như nón giám mục ngày nay; và sau khi lột áo Người, chúng đặt vòng rơm trên nón. Giờ đây, Đức Giêsu đáng thương đứng ở đó chỉ còn chiếc quần và tấm áo choàng hai mảnh phủ trước ngực và sau lưng; nhưng sau đó không lâu chúng cũng lột luôn tấm áo này ra. Chúng phủ lên Người một áo choàng cũ rách và ngắn cũn cỡn trên đầu gối, và quấn quanh cổ Người một vòng xích có giây sắt kéo dài từ vai qua ngực và xuống đến đầu gối. Cuối các sợi giây xích này là hai vòng sắt lớn và nặng có mấu nhọn mà khi Người bước đi, thì nó đập vào đầu gối và gây thương tích nặng nề. Chúng trói chặt hai tay Người trước ngực, đặt trong tay một cây sậy, và khạc nhổ đầy mặt Người. Trên mớ râu tóc bù xù, trên ngực, và toàn thân của Người phủ đầy toàn rác rến dơ bẩn nhất. Chúng cột ngang mắt Người cái giẻ rách, đấm đánh Người bằng dùi cui rồi kêu lên: "Này đại tiên tri! Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời. Người âm thầm cầu nguyện, thở dài và chịu đựng các cú đấm đá. Với kiểu hành hạ, bịt mắt và phủ đầy rác rến như trên, chúng dùng xích lôi Người đi vào sảnh đường phía sau. Chúng đá và dùng dùi cui thúc Người ngã tới trước, trong khi nhạo cười như: "Tiến lên đi, này ông vua rơm! Nó phải trình diện trước Đại Công Nghị với các huy hiệu mà chúng ta đã ban cho hắn!" Khi đám rước vào sảnh đường, ở đó vẫn còn nhiều nghị viên ngồi với Caipha chung quanh bục bán nguyệt, một cảnh tượng xúc phạm mới lại bắt đầu; chúng bắt chước các truyền thống thiêng liêng cùng các nghi thức nền tảng đầy đủ ý nghĩa và thực sự phạm thượng. Tỉ như, khi chúng khạc nhổ và trét bùn vào Đức Giêsu thì đám người đê tiện kêu lên: "Đây là dầu tôn vương của ngươi, dầu ngôn sứ của ngươi!" Như thế là chúng bóng gió chế nhạo việc xức dầu của bà Mađalêna và bí tích thanh tẩy. Chúng diễu cợt kêu lên: "Cái gì! Ngươi trình diện trước Đại Công Nghị trong y phục dơ bẩn như vậy hả? Ngươi có thói quen thanh tẩy người khác, nhưng chính ngươi lại không sạch. Giờ đây chúng ta sẽ thanh tẩy ngươi." Sau đó, chúng đem ra một chậu nước bùn dơ bẩn trong đó có tấm giẻ rách; và giữa những xô đẩy, chế giễu, nhạo cười pha lẫn với những kiểu chào châm biếm, chúng le lưỡi hay phô bầy phần thân thể kín đáo trước mặt Người, chúng kéo tấm giẻ rách qua mặt Người và hai vai như thể lau chùi nhưng thực ra chỉ tăng thêm sự nhớp nhúa. Sau cùng, chúng đổ cả chậu nước lên mặt Người với lời chế nhạo: "Đây là dầu thơm quý báu cho ngươi đó! Dầu cam tùng này đáng giá tới ba trăm quan đó! Bây giờ ngươi đã được tẩy rửa sạch sẽ tại hồ Bétsaiđa rồi!"
Mặc dù chúng không biết nhưng sự xúc phạm sau cùng này cho thấy Đức Giêsu giống như chiên Vượt Qua, vì vào ngày này, những con chiên bị sát tế trước hết sẽ được tắm rửa ở các hồ gần chuồng và sau đó ở Hồ Bétsaiđa về phía Nam của Đền Thờ. Kế đó các con vật được rẩy nước theo nghi thức trước khi bị sát tế trong Đền Thờ để mừng lễ Vượt Qua. Các kẻ thù của Đức Giêsu muốn ám chỉ người bị tê liệt trong ba mươi tám năm và đã được Người chữa lành ở Hồ Bétsaiđa, và sau đó tôi thấy chính người này gột rửa hoặc thanh tẩy trong nước. Tôi nói "gột rửa hay thanh tẩy" bởi vì ngay bây giờ trong tâm trí tôi không thể diễn lại được hành động này trong hoàn cảnh ấy một cách rõ ràng.
Giờ đây, chúng đấm đá và lôi kéo Đức Giêsu đi một vòng tròn căn phòng nơi các nghị viên đứng chung quanh, mà tất cả đều chế giễu và xúc phạm đến Người. Tôi thấy toàn thể hội đồng đầy dẫy những hình thù ma quái phẫn nộ. Thật là một cảnh tượng hắc ám, đáng sợ và hoang mang. Nhưng chung quanh Đức Giêsu đáng thương, kể từ khi Người tuyên bố Người là Con Thiên Chúa thì tôi thường thấy một ánh quang huy hoàng. Nhiều người hiện diện dường như cũng cảm thấy như vậy trong lòng kẻ nhiều, người ít; tối thiểu, họ khiếp sợ khi thấy điều đó, bất kể những sỉ nhục và coi thường mà Người phải chịu đựng, vẻ uy nghi không tả nổi trong tác phong của Người vẫn không thay đổi. Hào quang chung quanh Người dường như lại khích động kẻ thù thêm tức giận. Nhưng đối với tôi, vinh quang ấy tỏ ra thật rõ rệt đến nỗi tôi cho rằng chúng phải che mặt Đức Giêsu, vì kể từ khi Người tuyên bố: "Ta là Con Thiên Chúa " thì tên Thượng Tế không thể chịu nổi cái nhìn của Người.
---------------------------------------
CHƯƠNG XII
ÔNG PHÊRÔ CHỐI THẦY
Khi Đức Giêsu long trọng tuyên bố: "Ta là Đấng ấy," và Caipha xé áo kêu lớn: "Hắn đáng tội chết"-khi cả sảnh đường vang dội tiếng chế nhạo và hò la tức giận của đám đê tiện-khi các tầng trời mở ra trên Đức Giêsu-khi Hỏa Ngục tuôn trào cơn thịnh nộ-khi mồ mả phóng thích các linh hồn bị giam cầm-khi tất cả chỉ là sự kinh hoàng và sợ hãi-lúc bấy giờ ông Phêrô và ông Gioan đã đau khổ nhiều khi phải im lặng và thụ động chứng kiến sự sỉ nhục ghê gớm mà Đức Giêsu phải gánh chịu, hai ông không thể ở lại chịu đựng thêm nữa. Ông Gioan đi ra ngoài cùng với nhiều người trong đám Đông cũng như một số nhân chứng khác, ông vội vã đến với Mẫu Thân Đức Giêsu, đang ở nhà bà Mátta, không xa nơi ấy bao nhiêu vì ông Lagiarô có mua một căn nhà xinh đẹp ở Giêrusalem. Nhưng ông Phêrô không đi nổi-ông quá yêu mến Chúa Giêsu. Hầu như ông không thể kềm lòng được. Ông khóc một cách cay đắng, dù cố giấu dòng nước mắt. Ông không thể ở trong tòa án lâu hơn nữa, vì sự xúc động sâu xa ấy sẽ tố cáo ông, và cũng không thể ra khỏi đó mà không bị chú ý. Do đó, ông đi đến "atrium" và đứng ở một góc gần đống lửa, chung quanh đó đầy lính tráng và đủ hạng người tụ tập thành từng nhóm. Thỉnh thoảng bọn này đi vào chế nhạo Đức Giêsu rồi trở ra sau đó đưa lời nhận xét hạ cấp tục tĩu về những hành động vừa rồi. Ông Phêrô giữ im lặng; nhưng hành động của ông đã thể hiện điều ông lưu tâm, cộng với nét mặt đau buồn khiến kẻ thù Đức Giêsu phải để ý đến ông. Ngay lúc đó, một tớ gái gác cổng trơ tráo, nói năng cộc cằn tiến đến đống lửa; và khi mọi người đang huyên thuyên chế giễu Đức Giêsu và các môn đệ của Người,thì tên này nhìn ông Phêrô đăm đăm rồi nói: "Anh này cũng là một môn đệ của tên Galilê ấy!" Ông Phêrô, sửng sốt và hoảng sợ, và sợ bị đám Đông thô lỗ hành hạ, ông trả lời: "Này chị, tôi không biết người ấy! Tôi không biết chị muốn nói gì. Tôi không biết chị là ai!" Nói xong, ông đứng dậy và rời khỏi "atrium" vì không muốn bị nhận diện thêm nữa. Vào lúc ấy, một con gà trống đâu đó trong thành cất tiếng gáy. Tôi không nhớ là có nghe thấy hay không, nhưng tôi cảm thấy như tiếng gáy ấy ở bên ngoài thành phố. Khi ông Phêrô trên đường đi ra, một tên đầy tớ gái khác bắt gặp ông và nói với những người qua lại: "Người này cũng ở với tên Giêsu Nagiarét!" Ngay lập tức họ hỏi ông: "Ông không phải là một trong những môn đệ của hắn sao?" Ông Phêrô thật sự bối rối và lúng túng, ông thề và đáp lại: "Làm gì có chuyện đó! Ngay cả người ấy tôi cũng không biết kia mà!" Và ông vội vàng đi qua sân trong ra tòa ngoài, để báo tin cho những người quen biết mà ông thấy họ lấp ló bên kia tường. Ông khóc lóc và ngập tràn muộn phiền cũng như lo lắng cho Đức Giêsu đến nỗi ông không nghĩ gì đến việc chối Thầy. Ở trong sân tòa án có nhiều người không thể đến gần để theo dõi phiên toà, trong đó có vài người bạn của Đức Giêsu, nên họ phải leo lên tường để có thể nghe cho rõ. Ông Phêrô, được phép ra ngoài, gặp được một số môn đệ mà vì quá lo lắng họ phải trốn trong các hang đá ở núi Hinnom. Nhiều người đến thẳng với ông Phêrô vừa khóc vừa hỏi thăm về Đức Giêsu. Nhưng ông Phêrô đang mất bình tĩnh và quá sợ bị lộ tông tích nên ông ngắn gọn khuyên họ hãy đi trốn, vì nguy hiểm đang chờ đợi họ. Rồi ông ngắt lời và thơ thẩn buồn sầu, trong khi các người khác, vì nghe lời của ông nên vội vã rời thành phố. Tôi nhận ra khoảng mười sáu người môn đệ đầu tiên trong đám này: Báctôlômêô, Natanien, Satunin, Giuđa Bácsaba, Simêon (sau này là Giám Mục Giêrusalem), Giakêu, và Manahem, một người trẻ tuổi mù lúc bẩm sinh được ơn nói tiên tri và là người được Đức Giêsu chữa lành.
Ông Phêrô không thể ngồi yên một chỗ. Lòng thương mến Đức Giêsu khiến ông trở lại tòa trong. Họ lại cho ông vào, nhờ ông Nicôđêmô và Giuse Arimathê, là người lúc đầu giúp đỡ ông. Tuy nhiên, ông không trở vào sân tòa án, nhưng rẽ sang phải cho đến chỗ cổng vào phòng phía sau tòa. Trong phòng này, Đức Giêsu đang bị đám người độc ác lôi kéo và sỉ vả. Ông Phêrô run rẩy đến gần, và mặc dù cảm thấy chính ông cũng đang bị theo dõi, nhưng sự lo âu cho Đức Giêsu như lôi ông bước qua cổng, nơi đám Đông đang đứng nhìn Đức Giêsu tiếp tục bị sỉ nhục. Ngay lúc đó, chúng lôi Người đi vòng quanh, đầu đội vòng rơm. Đức Giêsu nhìn ông tha thiết cảnh giác, một cái nhìn như xuyên thấu linh hồn ông. Nhưng trong khi bối rối sợ hãi, ông nghe vài người gần đó hỏi nhau: "Tên nào đó hả?" ông vội trở ra ngoài sân. Ở đó, vừa buồn và quẫn trí vì thương Đức Giêsu cũng như lo cho chính số phận mình, ông lang thang vô định. Chính hình ảnh này khiến người ta để ý ông hơn nữa, ông lại đi vào "atrium" và ngồi bên đống lửa. Ông ngồi đó được khá lâu thì một số người từng thấy ông ở ngoài và nhận ra điều ông đang lưu tâm, cũng như họ chú ý đến kiểu cách ra vào lo lắng của ông, trong khi ông lại không chửi bới Đức Giêsu và các môn đệ Người. Một tên trong bọn nói: "Đích thực anh này cũng là một trong các môn đồ của y! Anh là người Galilê mà. Nghe giọng anh nói là biết ngay." Ông Phêrô lẩn tránh sự dò xét ấy và đi ra ngoài, khi ấy một người em của Mankô bước đến gần ông và nói, "Này ông! Có phải tôi thấy ông ở với người ấy trong vườn Cây Dầu không? Có phải ông gây thương tích cho tai của anh tôi không?"
Vì sợ hãi ông Phêrô không tự chủ được nữa. Trong khi tìm cách thoái thoác câu hỏi ấy, ông bốc đồng thề rằng ông không biết người ấy và chạy vội ra ngoài "atrium" vào phần sân bao quanh tòa. Gà lại gáy một lần nữa. Đúng lúc đó, Đức Giêsu bị dẫn đi từ căn phòng tròn ngang qua sân để xuống xà lim ở hầm bên dưới. Người quay đầu về ông Phêrô và đưa mắt nhìn ông vừa buồn vừa thương hại. Bàng hoàng sợ hãi, ông nhớ lại lời Đức Giêsu: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần!" Tan nát vì đau buồn và lo lắng, ông Phêrô quên hẳn sự phản đối đầy tự tin của mình khi ở núi Cây Dầu, thà chết với Thầy còn hơn chối Thầy, khi nghe lời cảnh cáo của Đức Giêsu. Nhưng trong cái nhìn của Chúa, ông thấy mình ngập tràn tội lỗi và hầu như tan nát tâm hồn. Ông đã phạm tội. Ông đã phạm tội với Đấng Cứu Độ bị đối xử thậm tệ, bất công, nhưng vẫn im lặng trước cơn thịnh nộ khủng khiếp, đã thực sự cảnh giác ông phải đề phòng. Ngập tràn hối hận và buồn phiền, ông kéo áo phủ đầu và vội vã đi ra sân sau, khóc lóc cay đắng. Ông không còn sợ bị hỏi chuyện nữa. Bất cứ người nào ông gặp, ông sẽ sẵn sàng xưng mình là ai, và tội của ông lớn là chừng nào. Ai dám cho rằng trong hoàn cảnh nguy hiểm như thế, trong sự ưu phiền, lo lắng, và bối rối, trong sự giằng co giữa tình yêu và sợ hãi, kiệt quệ vì mệt mỏi, bị hao mòn vì theo dõi, bị theo đuổi bởi sợ hãi, nửa mê nửa tỉnh vì quá buồn phiền trong cái đêm đáng thương này, và với một tính khí thật hăng hái nhưng thật ngây thơ như thế thì có thể nào mạnh hơn ông Phêrô chăng? Đức Giêsu đã để ông Phêrô một mình, bởi đó ông trở nên quá yếu đuối, cũng giống như khi họ thường quên lời dặn: " Các con hãy cầu nguyện và tỉnh thức để khỏi sa chước cám dỗ."
--------------------------------------
CHƯƠNG XIII
ĐỨC MARIA TRONG TÒA CAIPHA
Đức Trinh Nữ, vì tâm hồn luôn kết hợp với Đức Giêsu, nên biết và cảm nghiệm trong linh hồn mọi việc xảy ra cho Người. Mẹ chịu mọi sự đau khổ với Người trong chiêm niệm tinh thần, và giống như Người, Mẹ cũng chìm đắm trong lời cầu nguyện cho những kẻ hành hạ Người. Nhưng đồng thời, trái tim từ mẫu của Mẹ không ngừng kêu cầu với Thiên Chúa để Người khỏi bị đau khổ vì các tội ác đang diễn ra, để Người có thể tránh những đau khổ đang đến với Con Cực Thánh của Mẹ, và Mẹ không ngừng khao khát được gần với Đức Giêsu tội nghiệp, bị xúc phạm. Sau khi ông Gioan nghe tiếng kêu gào kinh hoàng: "Nó đáng tội chết!" ông đã rời tòa Caipha và đến gặp Mẹ tại nhà ông Lagiarô ở Giêrusalem, không xa tòa án bao nhiêu; và qua việc kể lại những đau khổ khủng khiếp của Con Mẹ, ông xác nhận điều mà Mẹ đã biết vì chiêm niệm trong lòng, và Mẹ khao khát mãnh liệt để cùng được dẫn đi với bà Mađalêna (như điên cuồng vì đau buồn), và một số phụ nữ thánh thiện khác đến nơi mà Mẹ có thể được gần với Đức Giêsu đau khổ của Mẹ. Ông Gioan vừa mới xa khỏi Thầy Chí Thánh thì lại phải an ủi Đức Maria là người gần gũi với Đức Giêsu cũng như ông. Ông đã kèm bên Đức Trinh Nữ khi cùng với các bà thánh thiện ra khỏi nhà. Bà Mađalêna, vò đầu khổ não, loạng choạng cùng với các bà khác bước đi trên con đường mờ nhạt ánh trăng, nơi nhiều người khác đang nhộn nhịp trở về nhà. Các bà thánh thiện che mặt. Nhưng nhóm các bà, thường đi sát với nhau, thỉnh thoảng lại nức nở và bày tỏ đau buồn không cầm giữ nổi, khiến nhiều người qua lại phải chú ý, trong đó có những kẻ thù của Đức Giêsu; và những tiếng cay đắng, sỉ nhục mà các bà nghe họ thốt ra đối với Đức Giêsu lại làm các bà càng thêm đau khổ. Đức Mẹ đau khổ liên tục, người chiêm niệm những dằn vặt của Đức Giêsu, mà như mọi điều khác, Mẹ âm thầm giữ trong tâm hồn; vì, cũng như Đức Giêsu, Mẹ chịu đau khổ với Người trong im lặng. Các bà thánh thiện đỡ lấy tay Mẹ. Khi đi qua cổng vào trong thành phố, họ gặp một số người có thiện cảm từ tòa Caipha trở về và xót xa cho những điều họ vừa chứng kiến. Họ tiến đến gặp các bà thánh thiện và, khi nhận ra Mẹ Đức Giêsu, họ dừng chân cúi chào với lòng trắc ẩn chân thành: "Ôi người Mẹ khốn khổ! Bà là người Mẹ đau khổ nhất! Ôi người Mẹ đau khổ của Đấng Thánh Israel!" Đức Maria chân thành cám ơn họ, và các bà vội vã tiếp tục con đường buồn thảm.
Gần đến nhà Caipha con đường đối diện cổng vào chỉ có một bức tường bao quanh, trong khi phía bên kia lối vào, con đường nối liền hai sân. Ở đây không khí buồn thảm cay đắng khác được dành sẵn cho Mẹ Thánh Đức Giêsu và các bà. Họ phải đi qua một gò đất cao mà trên đó, dưới một mái hiên, Thập Giá Đức Kitô đang được chuẩn bị dưới ánh đuốc. Kẻ thù của Đức Giêsu, ngay sau khi Giuđa ra đi để phản bội Người, đã ra lệnh sửa soạn thập giá, vì như vậy Philatô không có lý do gì để trì hoãn một khi Đức Giêsu bị bắt. Chúng nghĩ là sẽ giao Đức Chúa rất sớm cho ông ta để kết án tử hình; họ không ngờ là sự việc quá chậm trễ như vậy. Người La Mã đã chuẩn bị sẵn hai thập giá cho hai tên trộm. Các công nhân, quá chán nản vì phải làm việc ban đêm, đã văng tục chửi thề khi làm việc mà mỗi một lời như đâm thấu tâm hồn đau khổ của Đức Mẹ. Tuy vậy, Mẹ vẫn cầu nguyện cho những người xấu xa mù quáng đó, đang văng tục chửi thề khi lắp ráp một dụng cụ sẽ mang sự tử đạo tàn nhẫn đến cho Con Mẹ nhưng lại là cứu độ cho chính họ.
Khi đến sân ngoài của tòa án, Đức Maria với sự nâng đỡ của ông Gioan và các bà thánh thiện cùng đi theo, lùi vào một góc bên dưới cổng dẫn vào sân trong. Linh hồn Mẹ thống khổ không tả xiết, lại kết hợp với Đức Giêsu. Mẹ ước gì cổng ấy mở ra, hy vọng nhờ sự can thiệp của ông Gioan, để Mẹ được phép vào trong. Mẹ cảm thấy cánh cửa này tách biệt Người với Con Mẹ, đã bị dẫn ra khỏi tòa khi gà gáy lần thứ hai để xuống ngục ở hầm dưới. Sau cùng cánh cửa mở ra và ông Phêrô, khóc lóc cay đắng, đầu che kín và đôi tay giang rộng, ông vội vã gặp họ cũng đang tiến đến. Ánh đuốc chập chờn cộng thêm ánh trăng soi đã giúp ông Phêrô nhận ra ông Gioan và Đức Trinh Nữ. Đối với ông, dường như, sau cái nhìn của Con Mẹ, lương tâm ông đã vươn dậy làm ông khiếp sợ, giờ đây như đang đứng trước mặt ông trong con người của Mẹ Maria. Ôi, linh hồn đáng thương của ông Phêrô run rẩy là dường nào khi Đức Maria đến gần hỏi chuyện: "Kìa Simon, con của Mẹ sao vậy, Đức Giêsu ra sao rồi?" Không thể nói nên lời hoặc không thể chịu nổi cái nhìn từ mẫu của Đức Maria, ông Phêrô quay mặt chỗ khác, vò đầu bứt tai. Nhưng Đức Maria không bỏ cuộc. Mẹ tiến đến với giọng nói đầy xúc động: "Ôi Simon, con của Kêpha, sao con không trả lời Mẹ?" Lúc đó trong cơn đau buồn cực độ, ông Phêrô kêu lên: "Ôi lạy Mẹ, xin Mẹ đừng nói với con! Con của Mẹ đang bị đau khổ quá tàn nhẫn. Xin đừng nói với con! Chúng đã kết án Người phải chết, và con quá xấu hổ đã chối bỏ Người đến ba lần!" Khi ông Gioan tiến lại gần để hỏi han, ông Phêrô như điên cuồng vì đau khổ, vội vã ra khỏi tòa và biến mất khỏi thành phố. Ông không dừng chân cho đến khi tới hang đá ở núi Cây Dầu, mà trên đá còn in các vết tay của Đức Giêsu khi Người cầu nguyện. Trong hang này, tổ tông ADong đã sám hối, vì đó chính là nơi ông đặt chân đến trái đất sau khi bị nguyền rủa!
Đức Trinh Nữ vì thương cảm Đức Giêsu trong đau khổ mới này - bị khước từ bởi người môn đệ từng xưng tụng Người là Con Thiên Chúa Hằng Sống - nên Mẹï đã qụy xuống trên hòn đá bên vệ đường nơi Mẹ đang đứng gần cổng ra vào. Các dấu tay và chân của Mẹ đã hằn sâu trên đá, vẫn còn cho đến ngày nay, mặc dù tôi không nhớ là đã xem thấy ở đâu. Hầu hết các đám Đông đã giải tán sau khi Đức Giêsu bị giam cầm, và cổng vào tòa vẫn còn mở. Gượng đứng dậy và khao khát được gần với Con yêu dấu của Mẹï, ông Gioan lại dẫn Đức Trinh Nữ và các bà thánh thiện đến phía trước hầm giam Đức Chúa. Thực sự Đức Maria luôn kết hợp với Đức Giêsu trong thần khí và đã biết mọi việc xảy ra cho Người, và Người cũng kết hợp với Mẹï. Nhưng người Mẹ vô cùng chung thủy này ao ước được nghe tiếng thở của Con bằng chính đôi tai của mình. Trong vị thế hiện tại Mẹï có thể nghe tiếng thở của Đức Giêsu và những xúc phạm đang chất đầy lên Người. Các vị không thể đứng ở đây lâu mà không bị lưu ý. Bà Mađalêna quá xúc động không thể kềm chế được đau buồn, và Đức Trinh Nữ nhờ ơn đặc biệt đã tỏ ra trang nghiêm một cách kinh ngạc và đáng khâm phục dù bị đau khổ ngoài sức chịu đựng, và ngay cả trong giây phút ngắn ngủi ấy, Mẹï cũng có thể nghe những lời cay đắng, tỉ như: "Đây không phải là Mẹï của tên Galilê ấy sao? Con của bà ấy chắc chắn bị đóng đinh, dù không trước ngày lễ, trừ phi, hắn thực sự là tội phạm ghê gớm nhất." Đức Trinh Nữ quay lưng và được Thần Khí hướng dẫn luôn soi sáng tâm hồn, Mẹï đã đến đống lửa trong "atrium" là nơi chỉ còn một vài người đê tiện đứng đó. Các bà thánh thiện đi theo trong đau buồn câm nín. Trong chỗ ghê sợ này là nơi Đức Giêsu đã từng tuyên bố Người là Con Thiên Chúa, và nơi đoàn lũ của Satan đã kêu lên: "Nó đáng tội chết," sự thống khổ của Mẹï lớn lao đến độ dường như Mẹï là một người đang hấp hối hơn là một người đang sống. Ông Gioan và các phụ nữ đạo đức đưa Mẹï ra chỗ khác. Người bàng quang đứng xem bỗng dưng im lặng, như bị mê mẩn. Sự hiện diện của Đức Maria tạo nên một ảnh hưởng mà có lẽ giống như khi một linh hồn thanh sạch vượt qua Hỏa Ngục.
Cả nhóm đi dọc theo một con đường dẫn đến sau tòa án, và đi ngang một chỗ thật thê lương - nơi Thập Giá đang được chuẩn bị. Việc tuyên án Đức Giêsu khó khăn thế nào thì việc chuẩn bị Thập Giá của Người cũng vậy. Các công nhân phải thường xuyên lấy gỗ mới, vì miếng này hay miếng kia không vừa hoặc bị gẫy vì quá mạnh tay. Làm như vậy thì phải dùng nhiều loại gỗ khác nhau và đó cũng là điều Thiên Chúa muốn. Tôi được thấy nhiều hình ảnh về vấn đề này, và tôi thấy các thiên thần gây trở ngại cho đám thợ nhiều lần cho đến khi họ bắt đầu lại và hoàn tất thập giá theo thánh ý Thiên Chúa. Nhưng vì không còn nhớ rõ một vài hoàn cảnh, nên tôi bỏ qua.
----------------------------------------
CHƯƠNG XIV
ĐỨC GIÊSU TRONG TÙ
Nhà tù giam Đức Giêsu nằm bên dưới tòa án Caipha. Phòng thì chật hẹp và vòm hình tròn. Một phần của phòng này tôi thấy vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Chỉ có hai trong bốn tên cung thủ canh gác Đức Giêsu. Sau một thời gian ngắn, chúng thay phiên với hai người khác và cứ như thế. Chúng không trả lại quần áo cho Đức Chúa. Người chỉ có tấm áo choàng dơ bẩn che phủ và hai tay vẫn bị trói.
Khi Đức Chúa bước vào nhà tù, Người xin Chúa Cha trên trời hãy chấp nhận mọi sỉ nhục và hành hạ mà Người đã gánh chịu cho đến lúc bấy giờ và cả những gì Người sẽ phải chịu về sau để đền bù tội lỗi của các lý hình và của tất cả những ai, trong tương lai, sẽ vấp phạm vì thiếu kiên nhẫn và nóng giận.
Ngay cả trong tù, bọn lý hình cũng không để Đức Giêsu yên. Chúng trói Người vào cột trụ ở giữa nhà tù, nhưng lại không cho tựa vào đó. Người phải lảo đảo lết đi trên đôi chân rã rời vì thương tích và sưng vù sau những lần ngã qụy cũng như bị xích sắt bầm dập. Chúng không ngừng chế nhạo và sỉ nhục Người, và khi hai tên lý hình mệt mỏi, thì hai tên khác lại thay phiên và bắt đầu dở những đòn hành hạ mới.
Tôi không thể nào lập lại mọi hành động ác độc mà chúng làm đối với Đấng Tinh Tuyền và Thánh Thiện. Tôi thấy mệt mỏi, muốn chết vì thương cảm. Ôi chao, chúng ta phải xấu hổ dường nào khi chỉ vì yếu đuối và khó tính mà chúng ta không thể nói lên hay lắng nghe mọi chi tiết mà Đấng Cứu Độ vô tội đã kiên nhẫn chịu đựng vì chúng ta. Trong những trường hợp như thế, sự sợ hãi đã trói buộc chúng ta, tương tự như một tên sát nhân buộc phải đặt tay lên các thương tích của nạn nhân. Đức Giêsu chịu đựng tất cả mà không hé môi; và chính con người, con người tội lỗi đã nổi cơn thịnh nộ với Đấng Cứu Độ, Người Anh Em và cũng là Thiên Chúa của nó. Tôi cũng là một tạo vật tội lỗi, đáng thương và chính vì tôi mà mọi đau khổ đã đổ lên đầu Người. Vào Ngày Phán Xét, mọi sự sẽ sáng tỏ. Và rồi chúng ta sẽ thấy, trong việc đối xử tệ hại với Con Thiên Chúa, Người đã xuất hiện đúng lúc như Con Người, chúng ta phải chịu hậu quả của các tội lỗi mà chúng ta thường vấp phạm, và đó đúng là một loại sỉ nhục được kéo dài cũng như góp phần vào những sỉ nhục mà bọn vô thần qủy quái đã đổ lên đầu Đức Giêsu. Ôi chao! Nếu thực sự suy nghĩ về điều này, chúng ta phải thành khẩn lập lại những lời có ghi trong các sách kinh nguyện hơn bao giờ hết: "Lạy Chúa, xin cho con thà chết còn hơn phạm tội làm mất lòng Chúa!"
Đứng trong nhà tù, Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện cho kẻ tra tấn Người. Khi chúng ngừng tay vì quá mệt mỏi với trò chơi tàn bạo, tôi thấy Đức Giêsu dựa vào cột và ánh sáng bao quanh Người. Ngày đã ló dạng, ngày của những đau khổ và đền tội không cùng của Người. Ngày của Đấng Cứu Độ chúng ta lấp loé một cách yếu ớt qua một lỗ hổng cao trên bức tường nhà tù và chiếu trên Chiên Vượt Qua rất thánh của chúng ta, Đấng tự nguyện gánh hết tội trần gian. Đức Giêsu đưa bàn tay bị cùm lên chào đón ánh bình minh và dâng lời cầu nguyện cảm động với Cha trên trời. Người cảm tạ Chúa Cha vì đã ban cho ngày hôm nay, thời điểm mà các tổ phụ hằng ao ước, và chính Người cũng vậy, kể từ khi đến thế gian, Người hết sức mong mỏi ngày ấy đến độ đã thốt thành lời: "Thầy còn phải chịu một Phép Rửa nữa, và Thầy sẽ mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi Phép Rửa này được thực hiện." Lời cảm tạ của Đức Giêsu cảm động biết bao, vì ngày ấy sẽ chu toàn mục đích cuộc đời Người, ơn cứu độ của chúng ta; ngày ấy sẽ mở cửa Thiên Đàng, sẽ chiến thắng Hỏa Ngục, sẽ khai thông mọi nguồn ơn cho nhân loại, và chu toàn thánh ý Chúa Cha!
Tôi đã lập lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng bây giờ tôi không thể nhớ nổi. Tôi quá yếu đuối vì thương cảm Người và tôi phải khóc cho những đau khổ của Người. Khi Người tiếp tục cảm tạ vì mọi đau khổ khủng khiếp Người phải chịu vì tôi, tôi không thể nào không nài xin: "Ôi lạy Chúa, xin cho con, xin Chúa hãy cho con những đau khổ của Ngài! Những đau khổ ấy đúng là của con, tất cả đều vì tội ác của con!" Đức Giêsu chào đón một ngày mới trong luồng ánh sáng bằng lời cảm tạ tha thiết đến nỗi tôi lập lại những lời của Người như một đứa trẻ lòng ngập tràn ngập yêu mến và thương cảm. Thật là một cảnh tượng thê lương, thánh thiêng, trang trọng khôn tả, một cảnh tượng ngập tràn tình yêu-khi thấy Đức Giêsu sau một đêm đầy những xáo trộn khủng khiếp, đứng đó tỏa sáng giữa nhà tù chật hẹp, chào đón ánh bình minh dâng lời cảm tạ vì một ngày vĩ đại để hy sinh chuộc tội. Ôi chao! Tia sáng đến với Đức Giêsu như một quan tòa đến thăm tội nhân trong tù để hòa giải trước giờ hành quyết. Đức Giêsu ân cần cảm tạ điều đó. Các lý hình, quá mệt mỏi dường như đang lơ mơ ngủ. Bỗng dưng, chúng ngước nhìn kinh ngạc, nhưng không quấy rầy Đức Giêsu. Chúng tỏ vẻ sợ hãi và sửng sốt. Có lẽ Đức Giêsu đứng như vậy trên một tiếng đồng hồ.
-------------------------------
CHƯƠNG XV
GIUĐA TRONG TÒA ÁN
Khi Đức Giêsu bị nhốt trong tù thì Giuđa trông như tuyệt vọng và bị ma qủy dẫn đưa lang thang trong thung lũng Hinnom, trên sườn đồi ở phía Nam thành phố Giêrusalem, nơi đó không có gì khác hơn là một bãi rác đầy xương xẩu, xác chết thối tha, cho đến lúc hắn đến gần khu tòa Caipha. Túi bạc, giá của phản bội, vẫn lủng lẳng bên thắt lưng hắn. Cảnh vật im lìm. Giuđa, vẫn chưa bị nhận diện, y hỏi lính canh về chuyện xảy ra cho ông Galilê. Họ trả lời: "Ông ta bị kết án tử hình, và sẽ bị đóng đinh." Giuđa nghe bọn lính canh nói với nhau về cách đối xử tàn bạo đối với Đức Giêsu nhưng Người vẫn kiên nhẫn chịu đựng, trong khi một số người khác cho biết Người sẽ xuất hiện trước Đại Công Nghị lúc tảng sáng để bị chính thức kết án. Trong khi tên phản bội, để tránh bị nhận diện, đi đó đây để lượm lặt tin tức thì bình minh ló dạng và mọi sự bắt đầu xôn xao bên trong và bên ngoài tòa án. Giuđa không muốn bị nhìn thấy nên hắn lẻn ra sau tòa. Như Cain, hắn tránh ánh mắt của mọi người. Tuyệt vọng đã chế ngự linh hồn hắn. Nhưng hắn gặp gì ở đây? Đây là chỗ người ta đang chuẩn bị Thập Giá. Các thanh gỗ được xếp theo thứ tự bên cạnh nhau, và mấy người thợ phủ áo lên đầu nằm ngủ lây lất. Bầu trời lấp lánh tia sáng trên núi Cây Dầu như rùng mình khi nhìn thấy dụng cụ Cứu Độ chúng ta. Giuđa kinh sợ liếc nhìn thập giá rồi bỏ đi. Hắn đã nhìn thấy giá treo cổ khi hắn bán Đức Chúa! Hắn lẩn tránh khỏi nơi đó và ẩn nấp, nhất quyết chờ kết quả của phiên tòa buổi sáng.
PHIÊN TOÀ BUỔI SÁNG
Ngay khi trời sáng rõ, Caipha, Anna, các Kỳ Lão và Ký Lục tề tựu trong đại sảnh đường để tiến hành một phiên tòa hợp pháp. Xử án ban đêm thì không hợp pháp. Phiên tòa đêm hôm trước sở dĩ được tiến hành chỉ vì thời gian quá gần với ngày lễ, và để chuẩn bị thu lượm một số nhân chứng. Hầu hết các thành viên đã nghỉ đêm trong các phòng nhỏ của nhà Caipha, hay trên các trường kỷ dành sẵn cho họ trong sảnh đường; nhưng nhiều người, như ông Nicôđêmô và ông Giuse Arimathê, ra về và trở lại sáng hôm sau. Đó là một hội đồng rất lớn, và phiên họp được tiến hành một cách rất vội vã. Giờ đây, khi Công Nghị được triệu tập để chống Đức Giêsu nhằm kết án tử hình Người thì ông Nicôđêmô, ông Giuse Arimathê, và một ít người khác lên tiếng phản đối các kẻ thù của Đức Giêsu. Các ông yêu cầu đình hoãn phiên tòa cho đến sau kỳ lễ để đừng gây xáo trộn trong dân. Họ cũng lý luận rằng không thể nào có phán quyết chính đáng khi các cáo buộc chưa được đưa ra, vì các nhân chứng đều mâu thuẫn với nhau. Thượng Tế và phần lớn nghị viên rất bực tức vì sự chống đối này, và chúng thẳng thừng nói với các ông rằng chúng hiểu rất rõ tại sao phiên tòa này quá mâu thuẫn đối với các ông có lẽ vì chính các ông cũng ủng hộ giáo thuyết của tên Galilê. Thượng Tế còn đi xa hơn nữa bằng cách loại trừ khỏi Đại Công Nghị những ai có cảm tình với Đức Giêsu. Các nghị viên này phản đối không nhận bất cứ vai trò nào trong vụ kiện, họ rời bỏ sảnh đường và tụ tập trong Đền Thờ. Từ lúc đó trở đi họ không bao giờ có mặt trong Công Nghị nữa. Bây giờ, Caipha ra lệnh đưa Đức Giêsu đáng thương, mệt mỏi từ nhà tù vào trình diện Công Nghị, để sau khi kết án Người sẽ bị đưa cấp tốc sang Philatô. Bọn đầy tớ lao xao vội vã đến nhà tù, áp đảo và chửi rủa Đức Giêsu, chúng nới lỏng tay Người ra, kéo tấm áo choàng tả tơi khỏi vai Người, khoác lên chiếc áo dài của Người vẫn còn dính đầy rác rến dơ bẩn, chúng xiết chặt các vòng giây ngang thắt lưng, và dẫn Người ra khỏi nhà tù. Tất cả các việc này thi hành hối hả kèm theo đấm đá, vì bây giờ cũng như trước đây mọi sự đều xảy ra vội vàng quá đáng và dã man khủng khiếp. Như con chiên bị sát tế đáng thương, Đức Giêsu bị bọn lý hình đấm đá chế nhạo và lôi vào toà qua hàng lính dàn chào phía trước. Kiệt quệ vì bị đối xử tàn bạo, Đức Giêsu với dáng vẻ tiều tụy xấu xí, với y phục duy nhất là bộ quần áo mặc bên trong tơi tả, dơ bẩn, được đem ra trình diện nên kẻ thù Đức Giêsu lại càng nổi cơn thịnh nộ dữ dội hơn nữa. Trong con tim chai đá của người Do Thái lúc đó không có chỗ cho thương cảm.
Caipha, đầy vẻ khinh miệt và thịnh nộ vì Đức Giêsu đứng trước mặt hắn trong hoàn cảnh quá tồi tàn, nên hắn nói với Người: "Nếu ngươi có phải là Người Được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng Mêsia, thì hãy cho chúng ta biết!" Đức Giêsu ngẩng đầu lên, trong tư cách uy linh và nhẫn nhục thần thánh, nói: "Nếu tôi có nói với ông, ông cũng không tin. Nếu tôi có hỏi ông, ông cũng không trả lời hay thả tôi ra. Nhưng sau này Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng." Các nghị viên trong Công Nghị đưa mắt nhìn nhau, và với nụ cười đầy khinh bỉ chúng hỏi Đức Giêsu: "Vậy thì ngươi là Con Thiên Chúa?" Với giọng nói của Chân Lý Đời Đời, Đức Giêsu trả lời: "Phải, đúng như các ông nói, tôi đây!" Khi nghe Đức Chúa nói như vậy, tất cả nhìn nhau, và nói: "Chúng ta cần gì đến lời chứng nữa? Vì chính chúng ta đã nghe từ miệng nó nói."
Sau đó tất cả đứng dậy chửi rủa Đức Giêsu, "một tạo vật hèn hạ đáng thương, lạc lõng, tội nghiệp, cơ cực, là Đấng Mêsia của bọn chúng, và một ngày nào đó Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa!" Chúng ra lệnh cung thủ trói chặt Người lại, lấy xích sắt quấn vào cổ, và dẫn Người đến Philatô như một tội phạm. Một thông tín viên được sai đi trước báo tin để Philatô sẵn sàng xử tội phạm càng sớm càng tốt vì ngày lễ đã gần đến, không nên để mất một phút nào. Nghe đâu Tổng Trấn Rôma không hài lòng một vài điều; chúng bực mình vì phải đưa Đức Giêsu đến cho ông này xử trước đã. Chính chúng không dám tuyên án tử hình trong những trường hợp liên quan đến những sự kiện ngoài luật tôn giáo và Đền Thờ; và khi chúng muốn giết Đức Giêsu với cái vỏ pháp lý bề ngoài thì chúng muốn Người bị xét xử như một kẻ chống đối Hoàng Đế, vì vậy Tổng Trấn Rôma phải chính thức tuyên án. Lính tráng được dàn hàng bên ngoài và phía trước tòa án, và nhiều kẻ thù của Đức Giêsu cũng như những kẻ đê tiện cũng đã tụ tập ngoài đó. Thượng Tế và một vài nghị viên đi trước, sau đó là Đấng Cứu Thế đáng thương giữa các lý hình và bọn lính, và sau cùng là đám dân ô hợp. Theo thứ tự này, tất cả xuống Sion vào phía dưới thành phố, và đến thẳng dinh Philatô. Nhiều tư tế từng tham dự phiên tòa sau cùng giờ đây vội vã đến Đền Thờ vì có nhiều việc phải làm trong ngày hôm nay.
---------------------
CHƯƠNG XVI
SỰ TUYỆT VỌNG CỦA GIUĐA
Giuđa, tên phản bội, ẩn nấp không xa tòa án nên nghe tiếng ồn ào của đám rước đang đi đến, cũng như các lời bàn tán của những người theo sau: "Họ đưa Người đến Philatô. Đại Công Nghị đã kết án tử hình ông Galilê. Ông ta phải chết trên Thập Giá. Ông ấy không thể sống lâu được vì bọn chúng đối xử với ông thật tàn tệ. Trông ông ấy rất bình tĩnh như không can hệ gì đến mình. Ông ấy không nói nhiều, chỉ tự xưng là Mêsia và một ngày kia sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì Người nói, bởi vậy ông mới bị đóng đinh. Nếu ông ấy không nói như vậy, chúng đâu có lý do gì để kết án tử hình, nhưng bây giờ Người phải chịu treo trên thập giá. Tên độc ác bán đứng Người lại là một môn đệ của Người và tên này ở lại có một thời gian ngắn khi ăn lễ Vượt Qua với Người. Tôi không thể nào tiếp tay vào hành động đó được. Dù ông Galilê có thế nào đi nữa, không bao giờ lại nỡ bán đứng bạn mình vì đồng tiền. Nói cho đúng thì tên độc ác đó đáng bị treo cổ!" Thế là đau khổ, tuyệt vọng và hối hận bắt đầu tấn công linh hồn Giuđa, nhưng đã quá trễ. Satan giục hắn bỏ trốn. Gói bạc lủng lẳng bên hông dưới tấm áo choàng từng là vật kích thích hắn, được hắn nắm chặt để tránh tiếng leng keng sau mỗi bước đi và để khỏi bị ray rứt. Hắn chạy hết tốc lực, không phải đi theo đám rước, không phải để sấp mình dưới chân Đức Giêsu nài xin thương xót và tha thứ, không phải để chết với Đức Giêsu. Không, không phải để thú nhận trước mặt Thiên Chúa về tội ác ghê tởm của hắn, nhưng để trút gánh nặng tội của hắn và giá của sự phản bội ấy trước mặt người đời. Như người mất trí, hắn vội vã vào Đền Thờ, nơi có mặt một vài nghị viên đang giám sát công việc của tư tế, và cũng có vài Kỳ Lão đã đến thẳng đây sau khi kết án Đức Giêsu lúc sáng sớm. Họ nhìn nhau tự hỏi, cười khinh bỉ ngạo mạn, họ nhìn Giuđa đang đứng trước mặt họ vẻ mặt méo mó vì đau khổ tuyệt vọng. Hắn giật túi bạc ra khỏi thắt lưng đưa cho họ, trong khi hắn gào lên giọng đầy đau khổ: "Hãy cầm lấy tiền của các ông đi! Vì nó mà các ông đã khiến tôi giao nộp Đấng Công Chính. Cầm lấy tiền của các ông đi! Hãy thả Đức Giêsu ra! Tôi hủy bỏ cam kết. Tôi đã phạm tội nặng nề khi phản bội máu người vô tội!" Các tư tế trút lên đầu hắn tất cả khinh miệt. Khi Giuđa chìa số bạc ra thì họ lùi lại và vội rút tay ra sau lưng như không muốn bị ô nhiễm và nói: "Mày phạm tội thì liên can gì đến chúng tao? Mày nghĩ là đã bán máu người vô tội sao? Hãy nhìn kỹ lại đi! Đó là chuyện của mày! Chúng tao biết đã mua được cái gì của mày, và chúng tao thấy nó đáng phải chết. Mày đã lấy tiền rồi. Chúng tao không muốn một xu nào trong số tiền ấy!" Nói xong và với thái độ bận rộn của những người muốn khỏi bị phiền toái, họ quay lưng đi. Lối đối xử ấy khiến Giuđa càng thêm tức giận và tuyệt vọng, hắn như điên. Tóc hắn dựng đứng và hai tay giựt đứt xâu tiền, hắn quăng số bạc vung vãi trong Đền Thờ, và ra khỏi thành phố.
Tôi lại thấy hắn chạy như điên dại trong thung lũng Himmon với Satan trong một hình thù ghê sợ bên cạnh hắn. Để dồn ép Giuđa đến chỗ tuyệt vọng, tên qủy sứ rỉ tai hắn tất cả những lời nguyền rủa của các Ngôn Sứ đã thốt lên đối với thung lũng này, là nơi người Do Thái đã từng sát tế chính con mình cho tà thần. Đối với hắn dường như tất cả những lời nguyền rủa ấy đang nhắm đến chính bản thân hắn; tỉ như "Chúng sẽ tiến ra, và này đây là các tử thi của những người xúc phạm đến Ta, mà dòi bọ không hề chết, lửa cháy không hề tắt." Và rồi lại có tiếng nói trong tai hắn: "Này Cain, Aben em ngươi đâu? Ngươi đã làm gì? Máu của nó kêu đến Ta. Ngươi bị nguyền rủa phải lang thang trốn chạy trên mặt đất!" Và khi đến suối Xêđon, Giuđa đưa mắt nhìn núi Cây Dầu, hắn rùng mình và đưa mắt nhìn đi chỗ khác trong khi tai hắn văng vẳng những lời: "Này bạn, bạn đến đây với mục đích gì? Giuđa, ngươi phản bội Con Người với một nụ hôn sao?"
Ôi, sau đó sợ hãi lấp đầy linh hồn hắn! Tâm trí hắn mông lung, và tên qủy sứ lại rỉ tai hắn: " Đây chính là nơi vua Đavít đi qua suối Xêđon để trốn khỏi tay Ápsalom. Ápsalom treo cổ chết trên cây. Đavít cũng đề cập đến ngươi khi nói: 'Và chúng dùng sự dữ đáp trả lại điều lành tôi làm. Mong sao hắn bị án phạt nặng nề! Mong sao Satan đứng bên hữu hắn, và mong sao mọi tòa công chính đều luận phạt hắn! Ngày của hắn sẽ bị rút ngắn, và sứ vụ của hắn sẽ bị người khác lấy đi! Mong sao Chúa sẽ nhìn thấy tội lỗi của cha hắn, và đừng để tội lỗi của mẹ hắn được xoá sạch, vì hắn đã ngược đãi kẻ nghèo không thương xót và giết những kẻ tâm hồn bị tan nát! Hắn thích nguyền rủa, và lời ấy sẽ chụp lên đầu hắn, bao phủ hắn như quần áo, và thấm vào lòng hắn như nước, vào xương hắn như dầu. Mong sao lời nguyền rủa bao trùm hắn, và như giây lưng trói buộc hắn muôn đời!'" Giữa những dằn vặt lương tâm đầy khiếp sợ này, Giuđa đi đến chỗ vắng vẻ đầy rác rưởi hôi tanh, cặn bã, và sình lầy phía Đông Nam thành Giêrusalem, dưới chân núi Vấp Phạm, nơi không ai có thể thấy hắn. Từ thành phố lại có tiếng ồn ào xáo trộn, và Satan lại rỉ tai: "Bây giờ nó bị đưa đến chỗ chết! Ngươi đã bán nó! Ngươi không biết lề luật đã viết: "ai bán linh hồn anh em mình, và nhận tiền ấy thì phải chết hay sao? Hãy chết đi, hỡi tên khốn nạn! Hãy chấm dứt cuộc đời ngươi đi!" Bị trùm lấp trong tuyệt vọng, Giuđa lấy giây thắt lưng treo cổ trên cành cây. Cây đó có vài cành, và mọc lên từ một chỗ trũng dưới đất. Khi treo cổ, thân thể hắn nứt ra, và ruột đổ xuống đất.
-----------------------------
CHƯƠNG XVII
ĐỨC GIÊSU BỊ DẪN ĐẾN PHILATÔ
Bọn người phi nhân dẫn Đức Giêsu từ nhà Caipha đến dinh Philatô băng ngang qua khu Đông dân nhất của thành phố, mà bấy giờ đầy dẫy khách đến dự lễ và rất nhiều người lạ từ khắp nơi trong nước. Từ núi Sion, đám rước đi về phía Bắc, men theo những đường mòn chật hẹp ngoằn ngoèo qua thung lũng, sau đó đi qua một khu phố gọi là Cánh Đồng, dọc theo phía Tây Đền Thờ đến dinh và tòa án của Philatô, nằm ở góc Tây Bắc Đền Thờ đối diện với khu thị tứ.
Caipha và Anna, với một số Đông Trưởng Công Nghị áo dài trịnh trọng, oai vệ dẫn đầu đám rước. Kế đó là những thư ký mang các biên bản của tòa được cuộn tròn lại. Sau họ là vô số Ký Lục và người Do Thái, trong đó có những người làm chứng dối và người Pharisiêu cuồng nộ hăng hái tố cáo Đức Chúa. Sau đó cách một khoảng ngắn, Đức Giêsu bị trói như trước, do bọn cung thủ kéo đi giữa đám lính vây quanh và sáu viên chức từng có mặt khi bắt Người. Đám dân hạ tiện chen vào từ mọi phía, hò hét, nhạo cười. Nhiều đám Đông dân chúng khác tò mò đứng dọc hai bên đường.
Bấy giờ Đức Giêsu mặc bộ quần áo trong của Người dính đầy bùn đất. Cổ Người đeo một sợi giây xích nặng, và mỗi bước đi giây xích lại đập vào đầu gối Người. Tay Người bị cùm như ngày hôm trước, và bốn tên lý hình lôi Người đi bằng bốn sợi giây buộc ở thắt lưng. Vì sự ngược đãi khủng khiếp đêm hôm trước, nên Người thực sự đã biến dạng. Người bước đi lảo đảo, một hình ảnh cực kỳ đau đớn-hốc hác, râu tóc bơ phờ, mặt bị đánh thâm tím và sưng vù. Người bị lôi đi giữa những lời sỉ nhục và chế nhạo. Nhiều người đê tiện bị bọn có quyền thế xúi bẩy đùa cợt cuộc rước này như lúc Đức Giêsu vinh hiển tiến vào Giêrusalem hôm Chúa Nhật Lễ Lá. Chúng diễu cợt chào bái Người với đủ loại vương tước hài hước; chúng ném đá, gậy gộc và rác rưởi dơ bẩn trên lối Người đi; và với đủ loại bài hát chế nhạo chúng châm biếm Người. Bọn lý hình dùng giây kéo để điều khiển Người phải đi qua các chướng ngại vật, do đó cả đoạn đường dài là một cực hình không bao giờ gián đoạn.
Không xa nhà Caipha, Thân Mẫu Đức Giêsu, bà Mađalêna và ông Gioan đứng thành một nhóm ở góc nhà và chờ đám rước đến. Linh hồn Đức Maria luôn ở với Đức Giêsu, nhưng bất cứ lúc nào có thể, người cũng đến với Đức Giêsu trong hình hài, vì tình yêu của Mẹ không cho phép người ngừng nghỉ. Tình yêu ấy thúc đẩy Mẹ đi theo lối đi và dấu chân của Đức Giêsu. Sau khi đến tòa Caipha đêm hôm qua, người đau khổ không nói nên lời và chỉ ở lại đôi phút trong Nhà Tiệc Ly; vì chắc chắn là Đức Giêsu không bị điệu đi từ nhà tù đến phiên tòa buổi sáng khi chính người cũng thức giấc. Phủ kín trong tấm áo choàng và khăn che mặt, Mẹ đi trước ông Gioan và bà Mađalêna. Người nói: "Chúng ta hãy theo Con Mẹ đến nhà Philatô. Mắt Mẹ phải được thấy Người." Dùng một lối tắt, cả nhóm đi trước đám rước, và Đức Trinh Nữ cùng với các người khác đứng đó đợi. Rất Thánh Đức Mẹ biết rõ những gì xảy ra cho Con của người. Linh hồn Mẹ luôn ở với Đức Giêsu trước khi mắt thấy, nhưng cái nhìn nội tâm ấy không thể nào gợi lại được hình ảnh thực sự đã biến dạng quá nhiều của Đức Giêsu vì sự ngược đãi mà ác tâm của loài người tạo ra. Thực sự, Đức Maria đã luôn nhìn thấy những đau khổ ghê rợn của Đức Giêsu, nhưng tất cả đều rực sáng với sức sáng của tình yêu và sự thánh hiến của Người, với vinh hiển của sự kiên nhẫn chịu đựng mà nhờ đó Người chu toàn sự hy sinh của mình. Nhưng giờ đây, diễn ngang qua con mắt Đức Maria là một thực tế ghê sợ nhục nhã khôn tả xiết. Kẻ thù của Đức Giêsu hết sức kiêu hãnh và cuồng nộ, các Thượng Tế của Thiên Chúa Đích Thực, kênh kiệu mũ mãng cân đai, đầy ác tâm, lừa đảo, gian trá, và phạm thượng, đi ngang trước mặt người để thực hiện kế hoạch giết Chúa. Tư tế của Thiên Chúa nay trở thành tư tế của Satan. Ôi, cảnh tượng khủng khiếp! Sau đó là những tiếng ồn ào kêu la inh ỏi của dân chúng! Và sau cùng, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Con Người, Con của chính Đức Maria, rõ ràng đã biến dạng và bị hành hạ, bị gông cùm và đầy những thương tích đấm đá, lảo đảo bước đi không vững, bị bọn lý hình man rợ nắm giây trói kéo giật từng chặp, bị vùi dập dưới cơn bão nhạo báng và nguyền rủa! Than ôi! Nếu Người không phải là bất hạnh nhất, khốn khổ nhất trong cơn bão tuôn trào của Hoả Ngục, nếu Người không phải là người duy nhất vẫn bình thản và vẫn âu yếm cầu nguyện thì Đức Maria không thể nào nhận ra Người, vì Người biến dạng một cách thảm khốc. Ngoài ra, Người chỉ còn bộ quần áo trong phủ đầy dơ bẩn của bọn lý hình độc ác. Khi Đức Giêsu đến gần Đức Maria, người than van như bất cứ bà mẹ nào: "Than ôi! Có phải con Mẹ đây không? Ôi chao! Đây đúng là con tôi! Ôi Giêsu, Giêsu của mẹ!" Đám rước vội vã đi qua. Đức Giêsu liếc nhìn Mẹ đầy thương cảm. Mẹ té xỉu không còn biết ai nữa ở chung quanh. Ông Gioan và bà Mađalêna phải vực người ra chỗ khác. Nhưng khi vừa mới hồi tỉnh Mẹ lại yêu cầu ông Gioan đưa người đến dinh Philatô.
Nhiều khi bạn hữu bỏ rơi chúng ta vào lúc chúng ta cần họ nhất, Đức Giêsu cũng cảm nghiệm như vậy trong cuộc hành trình này. Tất cả dân cư ở Ôphen đã tụ tập ở một chỗ trên con đường. Nhưng khi họ thấy Đức Giêsu bị khinh miệt quá độ và biến dạng, bị đám lý hình kéo đi, thì đức tin họ cũng nao núng. Họ không thể tưởng tượng nổi một vị Vua, một Ngôn Sứ, Đức Mêsia, Con Thiên Chúa lại có thể trong tình trạng ấy. Họ nghe người Pharisiêu chế nhạo tình họ quyến luyến Đức Giêsu khi chúng đi ngang qua. "Kìa, nhìn thử tên vua tốt lành của các người đi!" "Chào vua các người đi! À, giờ đây các người sẽ phải gục đầu khi hắn được phong vương, khi hắn lên ngôi! Những việc phi thường của hắn đã chấm dứt. Thượng Tế đã chấm dứt ma thuật của hắn rồi." Những người dân đáng thương, đã từng nhận lãnh biết bao ơn lành bệnh và ơn huệ của Đức Giêsu, giờ đây đức tin bị rúng động trước cảnh tượng hãi hùng nhất đang được các nhân vật đáng kính nhất trên mặt đất, là Thượng Tế và các tư tế Đại Công Nghị phô bầy trước mắt họ. Những người tốt lành nhất trong bọn họ quay lưng bỏ đi lòng đầy ngờ vực, trong khi những người xấu xa lại ngả theo. Vì người Pharisiêu đã chỉ định lính canh để đề phòng biến loạn dọc các lối đi nên bất cứ chỗ nào thuận tiện nhập cuộc thì họ nhập vào đám rước, miệng hô lớn những lời nhạo báng diễu cợt.
--------------------------
CHƯƠNG XVIII
QUANG CẢNH TẠI DINH PHILATÔ
Dưới chân đồi của Đền Thờ, dinh Philatô, Tổng Trấn Rôma nằm ở góc Tây Bắc. Dinh thự nằm trên một chỗ hơi cao, nên phải leo một cầu thang đá bằng cẩm thạch. Dinh chiếm một khoảng rộng có hàng cột bao bọc quanh và ở phía dưới có dân chúng ngồi bán hàng. Một chòi canh và bốn cổng vào ở bốn phía Đông Tây Nam Bắc làm mất vẻ đều đặn của hàng cột bao bọc khu vực mà người ta gọi là Diễn Đàn. Phía Đông kéo dài đến góc Tây Bắc của núi Đền Thờ. Từ góc này của Diễn Đàn, người ta có thể nhìn tận tới núi Sion. Dinh Philatô nằm ở phía Nam. Diễn Đàn cao hơn các con đường chung quanh, từ đó đổ xuống. Ở bên ngoài mấy hàng cột là dãy nhà dọc các đường bên cạnh mà có khi nối liền với Diễn Đàn. Dinh Philatô có một quảng trường phân cách nên không dính vào Diễn Đàn. Phía Đông quảng trường là một cổng vòm cao, quay mặt ra đường dẫn đến cửa chuồng chiên trên con đường đến núi Cây Dầu. Về phía Tây là một cổng khác giống như cổng trước, đi về phía Tây của thành phố qua khu Cánh Đồng và lên đến Sion. Từ các bậc đá lên dinh Philatô, có thể nhìn ngang qua quảng trường và cả bên trong Diễn Đàn, nằm về phía Bắc; cổng vào ở chỗ đó có hàng cột và các ghế đá dựa lưng vào bờ tường. Các tư tế Do Thái đến tòa Philatô chỉ được ngồi ở các hàng ghế này là chỗ xa nhất, vì sợ nhiễm uế; người ta còn kẻ cả một cái vạch bằng vôi để đánh dấu giới hạn. Gần cổng vào ở phía Tây quảng trường là một chòi canh lớn được dựng lên trong khu vực, trải dài cho đến phía Bắc của Diễn Đàn, và về phía Nam một cổng vào nối liền Pháp Đình của Philatô với chòi canh, tạo thành sân trước và một hành lang từ Diễn Đàn đến Pháp Đình. Phần đó của dinh Philatô được dùng như một tòa án được gọi là Praetorium (Pháp Đình). Chòi canh có cột bao bọc. Có một sân lộ thiên ở giữa, bên dưới là các nhà giam trong đó đã có hai tên trộm cướp. Sân này nhộn nhịp với sinh hoạt của đám lính Rôma. Trong Diễn Đàn, không xa chòi canh và gần hàng cột, là Cột Đánh Đòn. Cũng có một số cột khác trong khu vực quảng trường. Cột gần nhất được dùng để phạt xác; các cột xa nhất để cột các con vật đem bán. Ở Diễn Đàn phía trước chòi canh là một sân có mái hiên, bẳng phẳng và xinh đẹp, có chỗ như để hành quyết tội nhân, có ghế đá và đi lên bằng một số bậc đá. Philatô có thói quen công bố các bản án quan trọng ở chỗ này mà người ta gọi là Gápbata. Cầu thang đá cẩm thạch vào dinh Philatô dẫn vào một sân lộ thiên nơi Tổng Trấn nghe các nguyên đơn ngồi ở băng đá đối diện gần cổng vào Diễn Đàn. Trong Diễn Đàn, từ sân này mà nói lớn thì có thể nghe được dễ dàng.
Sau dinh Philatô là các sân lộ thiên cao hơn nữa với vườn hoa và nhà nghỉ mát. Qua khu vườn, dinh này nối liền với cung của vợ Philatô, tên là Clođia Prôcla. Một đường hào chung quanh tách khu nhà này với Đền Thờ xây trên đồi cao.
Dính liền với dinh Philatô về phía Đông là nhà công nghị hay tòa của Hêrôđê, trong tòa đó nhiều trẻ em vô tội đã bị giết ngày xưa. Bên ngoài tòa đã có nhiều thay đổi, vì có xây thêm một số dinh thự; lối vào là từ phía Đông, mặc dù vẫn có một cổng vào từ phía dinh Philatô.
Từ phía Đông thành phố có bốn con đường đổ về đây, ba đường đưa đến dinh Philatô và Diễn Đàn; đường thứ tư băng qua phía Bắc của Diễn Đàn đến một cổng dẫn đến Bétsua. Gần cổng và trên đường này là căn nhà xinh đẹp của Lagiarô ở Giêrusalem, và nhà của Mácta cách đó không xa.
Trong bốn con đường này, đường gần Đền Thờ nhất dẫn tới cổng chuồng chiên. Khi đến chuồng chiên, thì bên phải là Probatica, tức là cái hồ để tắm rửa chiên. Hồù được xây sát bên tường đến nỗi vòm trên dính vào tường. Hồ có đường mương dẫn ra bên ngoài tường chảy xuống thung lũng Giôsaphát, vì vậy nên ngay trước cổng rất lầy lội. Chung quanh hồ có một số dinh thự. Những con "Chiên Vượt Qua" được tắm rửa lần thứ nhất ở đây trước khi đưa vào Đền Thờ; và chúng được tẩy rửa chính thức sau đó ở hồ Bétsaiđa, phía Nam Đền Thờ. Trên con đường thứ hai có một ngôi nhà và sân nhỏ trước kia là tài sản của Thánh nữ Anna tức thân mẫu Đức Maria. Bà và gia đình thường đưa chiên đi sát tế khi họ lên Giêrusalem trong các ngày lễ. Lễ cưới của ông Giuse và Đức Maria cũng được cử hành trong nhà này, nếu tôi nhớ không lầm.
Diễn Đàn, như tôi đã nói, cao hơn các đường chung quanh qua đó các máng nước dẫn xuống hồ tắm chiên. Trên núi Sion, đối diện với cổ thành vua Đavít, có một Diễn Đàn tương tự; về phía Đông Nam và trong vùng phụ cận là Coenaculum (Nhà Tiệc Ly và nơi các thánh Tông Đồ tụ họp trong ngày lễ Ngũ Tuần); về phía Bắc là các dinh thự của Anna và Caipha. Cổ thành vua Đavít nay đổ nát hoang vu, gồm những sân trống, chuồng súc vật và phòng ốc mà trước kia các đoàn hành hương thuê mướn để nghỉ ngơi với súc vật của họ. Thành này đã bỏ hoang từ lâu. Ngay cả khi Đức Giêsu giáng sinh tôi đã thấy như vậy rồi. Đoàn tùy tùng của Ba Vua cùng súc vật của họ cũng đã trọ ở đây.
---------------------------------------
CHƯƠNG XIX
ĐỨC GIÊSU TRƯỚC MẶT PHILATÔ
Theo ước tính thời gian của chúng ta ngày nay (thế kỷ 18), đám rước gồm các Thượng Tế và phái Pharisiêu cùng Đấng Cứu Thế bị ngược đãi đến dinh Philatô khoảng sáu giờ sáng. Giữa quảng trường lớn và cổng vào Pháp Đình có nhiều ghế ngồi dọc theo hai bên đường, đó là nơi Anna, Caipha và các nghị viên của Công Nghị ngồi. Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn bị trói và bị lý hình lôi lên bậc thứ nhất dẫn đến ngai tòa Philatô. Khi đám rước đến, Philatô đang ngả lưng trên ghế. Một cái bàn nhỏ ba chân để cạnh ông ta, trên đó có huy hiệu chức vụ của ông và một số đồ vật khác mà bây giờ tôi không còn nhớ. Sĩ quan và binh lính đứng quanh ông, và họ cũng đeo các phù hiệu biểu thị quyền lực Rôma. Các Thượng Tế và người Do Thái đứng cách xa tòa án vì, theo Lề Luật của họ, nếu đến gần sẽ bị nhiễm uế. Họ không dám bước qua lằn ranh giới.
Khi Philatô thấy đám đê tiện vội vã tiến đến la hét ồn ào và Đức Giêsu bị kéo lê đến bậc đầu tiên, ông đứng dậy và nói với chúng bằng giọng khinh bỉ. Kiểu cách của ông giống như một tướng Pháp đối xử với các sĩ quan tỉnh lẻ. "Sao chúng bay đến đây sớm vậy? Sao chúng bay đối xử với người này cộc cằn như vậy? Chúng bay bắt đầu sớm để lột da hắn, làm thịt hắn hả." Nhưng bọn chúng cùng với các lý hình la lớn: "Lôi nó lên toà!" Sau đó quay sang Philatô, chúng nói: "Xin nghe chúng tôi cáo buộc tên tội phạm này. Vì sợ nhiễm uế nên chúng tôi không thể vào tòa được."
Tiếng ồn ào vừa dứt thì một người cao lớn, oai vệ, đáng kính từ đám Đông bước ra, nói lớn: "Thật đúng vậy, các người không dám vào toà vì đã được thánh hiến với máu của Người Vô Tội! Chỉ có Người ấy mới dám vào! Toàn dân Do Thái chỉ có Người ấy mới tinh tuyền như các thánh Anh Hài!" Sau khi thốt lên những lời ấy, ông ta biến mất trong đám Đông. Tên ông là Giađốc. Ông là một người giầu có và là bà con của chồng bà Xêraphia, sau này được gọi là bà Vêrônica. Hai người con trai của ông, theo lệnh vua Hê-rô-đê, đã bị giết với các trẻ em vô tội trong sân toà án. Kể từ đó, ông rút hẳn khỏi thế gian và, như một người Étxên, sống thanh tịnh với vợ. Có lần ông đã thấy Đức Giêsu tại nhà ông Lagiarô và đã nghe Người giảng dậy. Vào lúc bấy giờ, khi nhìn thấy Đức Giêsu vô tội bị lôi lên các bậc thang một cách dã man, ông nhớ lại những đau khổ khi con ông bị giết, và ông đã thốt lên những lời đó để làm chứng cho sự vô tội của Đức Chúa. Tuy nhiên, kẻ thù của Đức Giêsu quá vội vã thỉnh cầu và quá bực tức với thái độ của Philatô đối với chúng nên đã không để ý đến lời ấy.
Đức Giêsu bị bọn lý hình kéo lên bậc cao nhất và đứng phía sau sân thượng, mà từ đó Philatô có thể nói với những kẻ buộc tội Người ở bên dưới. Khi Philatô thấy Đức Giêsu trước mặt, người mà ông nghe nói đến nhiều, bị hành hạ thậm tệ và mặt mày dầm bập, nhưng vẫn có một phong thái cao trọng mà không kiểu cách đối xử tệ hại nào có thể thay đổi được, thì ông ta lại càng khinh miệt và ghê tởm các tư tế Do Thái và Công Nghị. Vào sáng sớm, Đại Công Nghị đã báo cho ông biết là họ sẽ trao nộp Đức Giêsu Nagiarét, là người đáng tội chết, để ông công bố bản án đối với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Philatô lại muốn họ thấy rằng ông sẽ không kết án Người nếu không có bằng chứng rõ ràng. Bởi đó, ông nói với các Thượng Tế một cách hống hách và khinh bỉ: "Các ngươi cáo buộc Người này về tội gì?" Họ trả lời một cách tức giận: "Nếu chúng tôi không biết hắn là kẻ có tội thì chúng tôi đã không trao nộp cho ngài." Philatô đáp lại: "Hãy đem hắn đi mà xử theo Luật của các ngươi." Họ vặn lại: "Ngài đã biết là chúng tôi không được xử tử bất cứ ai mà."
Các kẻ thù của Đức Giêsu thật điên cuồng và tức giận. Dường như họ chỉ muốn kết thúc cuộc đời Đức Giêsu trước ngày lễ, để sau đó họ có thể sát tế chiên Vượt Qua. Vì mục đích này họ muốn tiến hành công viêïc một cách vội vã cực kỳ tàn ác. Họ không biết rằng chính Người là Chiên Vượt Qua đích thực, Người mà chính họ lôi ra trước tòa án của một quan toà tôn thờ ngẫu tượng, qua cả ngưỡng cửa mà họ không dám đi qua vì sợ nhiễm uế và như thế không thể ăn chiên Vượt Qua một cách tượng trưng.
Vì Tổng Trấn ra lệnh cho họ đưa ra các lời cáo buộc, họ tiến hành công việc này. Họ đưa ra ba lời buộc tội chính đối với Đức Giêsu, mỗi lời cáo buộc họ bịa ra mười nhân chứng. Họ lèo lái để Đức Giêsu có vẻ như là một người chống lại Hoàng Đế, và buộc Philatô phải kết án Người. Chỉ trong những trường hợp liên hệ đến luật lệ tôn giáo và Đền Thờ thì họ mới nắm quyền xét xử trong tay. Lời buộc tội thứ nhất họ đưa ra là: "Giêsu là tên dụ dỗ dân chúng, người phá rối trật tự, người khích động quần chúng," và sau đó họ đưa ra một vài nhân chứng để chứng minh cho lời cáo buộc này. Kế đó họ nói: "Hắn tổ chức nhiều cuộc họp lớn, vi phạm ngày Sabát, và chữa bệnh ngày Sabát." Đến đây Philatô ngắt lời họ một cách khinh bỉ: "Hiển nhiên là không ai trong các ngươi bị bệnh cả, nếu không thì các ngươi đã không làm rùm beng về việc chữa bệnh ngày Sabát." Họ nói tiếp: "Hắn dụ dỗ dân chúng bằng những giáo huấn ghê tởm, vì hắn nói để có sự sống đời đời, họ phải ăn thịt và uống máu hắn." Philatô bị khiêu khích bởi sự căm thù mà chỉ vì đó họ đưa ra lời cáo buộc. Ông đưa mắt nhìn các sĩ quan vừa cười vừa nghiêm khắc nói với người Do Thái: "Hiển nhiên là chính các ngươi cũng đang theo lời giảng dạy của Người ấy, và đang nhắm đến sự sống đời đời, vì dường như các ngươi đang muốn ăn tươi nuốt sống Người đó."
Lời cáo buộc thứ hai của họ là: "Giêsu xách động dân chúng đừng trả thuế cho Hoàng Đế." Đến đây Philatô giận dữ ngắt lời họ. Vì cơ quan của ông có nhiệm vụ phải biết những điều đó, nên ông ta gằn giọng bắt bẻ lại: "Đó mới là điều lừa dối! Ta biết rõ hơn ai hết!" Sau đó người Do Thái la lên lời cáo buộc thứ ba: "Mặc kệ chúng tôi! Tên hạ cấp này có nguồn gốc mù mờ và đầy hồ nghi, hắn tự cho mình là thủ lãnh của một đảng phái và lớn tiếng nguyền rủa Giêrusalem. Hắn cũng gieo rắc trong dân các dụ ngôn hai nghĩa về một ông vua chuẩn bị tiệc cưới cho con trai. Dân chúng vây quanh hắn thật Đông trên một ngọn núi, và có lần họ muốn tôn hắn làm vua; nhưng sớm hơn là hắn muốn, và vì vậy hắn lẩn trốn. Trong vài ngày qua, hắn tiến ra mạnh dạn hơn. Hắn rùm beng tiến vào Giêrusalem, tạo nên những vinh dự như vua chúa đối với hắn, trong khi dân chúng, theo lệnh của hắn, phải hô lên: 'Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng triều đại Cha Đavít của chúng tôi giờ đây đang đến!' Ngoài ra, hắn dạy rằng hắn là Đấng Kitô, Người Được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng Mêsia, vị Vua đã được hứa ban cho dân Do Thái, và hắn để người ta gọi hắn như vậy." Lời cáo buộc này, cũng như hai lần trước, được hỗ trợ bởi mười nhân chứng.
Khi nghe rằng Đức Giêsu tự để cho mình được gọi là Đấng Kitô, Vua dân Do Thái, Philatô cảm thấy tư lự. Ông đi từ sân thượng vào khu nhà nối liền, liếc nhìn Đức Giêsu một cách dò xét khi đi ngang qua Người, và ra lệnh lính canh đưa Đức Giêsu vào phòng trong.
Philatô là một người ngoại giáo mê tín, hay thay đổi và thiếu quyết tâm. Ông tin rằng con cái các thần linh ông thờ vẫn còn sống trên mặt đất, và ông cũng biết rõ là các Ngôn Sứ Do Thái từng báo trước Đấng được gọi là Người Được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Đấng Giải Thoát, Đức Vua, mà nhiều người Do Thái đang trông chờ Người giáng thế. Ông cũng biết các vua từ Phương Đông đã đến với vua Hê-rô-đê để hỏi thăm về một vị Vua mới sinh, để họ có thể tôn kính Người; và vì đó nhiều trẻ em đã bị giết theo lệnh của Hê-rô-đê. Ông cũng biết các truyền thống liên hệ đến Đấng Mêsia, Vua dân Do Thái; nhưng là một người rất sùng kính ngẫu tượng, ông không tin họ, ông cũng không thể mường tượng ra loại vua đó có nghĩa gì. Ông suy nghĩ rất giống với tâm trạng phóng khoáng của người Do Thái và Hê-rô-đê thời bấy giờ, chỉ mơ tưởng về một người cai trị đầy uy quyền và khải hoàn. Bởi thế lời cáo buộc Đức Giêsu, người đang đứng trước mặt ông quá tội nghiệp, quá đáng thương, quá méo mó, là Người Được Xức Dầu của Thiên Chúa, là Đức Vua thì thật nực cười đối với ông. Nhưng vì kẻ thù của Đức Giêsu đã đưa ra lời buộc tội như thoá mạ quyền năng của Hoàng Đế, nên Philatô cho dẫn Đức Giêsu đến trước mặt ông để tra hỏi.
Philatô nhìn Đức Giêsu kinh ngạc khi hỏi Người: "Ông có phải là vua dân Do Thái không?" Và Đức Giêsu trả lời: "Ngài nói điều này bởi chính ngài, hay người khác đã nói với ngài về tôi?" Philatô hơi bực mình vì nghĩ Đức Giêsu coi ông thật ngu xuẩn khi tự ý hỏi một tạo vật nghèo nàn và đáng thương có phải là vua hay không, và để xoá tan ảnh hưởng này, ông trả lời: "Ta có phải là người Do Thái đâu mà cần biết những điều vô lý như vậy? Dân chúng và tư tế giao nộp ông cho ta để chịu kết án như một người đáng tội chết. Hãy nói cho ta biết, ông đã làm gì?" Đức Giêsu nghiêm trọng trả lời: "Vương Quốc của tôi không thuộc thế gian này. Nếu Vương Quốc tôi ở thế gian này, chắc chắn phải có các thuộc hạ chiến đấu cho tôi, để tôi không bị giao nộp cho người Do Thái. Nhưng Vương Quốc tôi không ở dưới thế này." Philatô nghe những lời nghiêm trang của Đức Giêsu mà rùng mình, rồi ông ân cần nói với Người: "Vậy quả thật ông là vua sao?" Và Đức Giêsu trả lời: "Đúng như ông nói! Phải, tôi là vua. Tôi được sinh ra, và đến thế gian này, để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi." Philatô nhìn đến Người, đứng dậy và nói: "Sự thật! Sự thật là gì?" Sau đó có những lời trao đổi, mục đích gì thì bây giờ tôi không nhớ.
Philatô lại đi ra sân thượng. Ông không thể hiểu Đức Giêsu, nhưng ông chỉ biết về Người như thế này: Người không phải là một ông vua có hại cho Hoàng Đế, và Người không tự nhận bất cứ vương quốc nào dưới trần gian này. Khi là một vương quốc thuộc thế giới khác, chính Hoàng Đế cũng ít bận tâm về điều đó. Bởi vậy từ trên sân thượng Philatô nói với các Thượng Tế ở phía dưới: "Ta không thấy Người này có tội gì!"
Ngay sau đó kẻ thù Đức Giêsu tràn ngập thịnh nộ. Chúng phun ra một tràng cáo buộc trong khi Đức Giêsu đứng im lặng cầu nguyện cho các tạo vật đáng thương ấy. Philatô quay sang Người và hỏi: "Ông không nói gì về những lời cáo buộc đó sao?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời một tiếng. Philatô nhìn Người kinh ngạc và nói: "Rõ ràng tôi thấy chúng vu cáo ông!" Nhưng những người tố cáo tức giận cao độ gào lên: "Sao! Ngài không thấy hắn có tội gì sao? Khuấy động dân chúng không phải là tội sao? Hắn còn gieo rắc giáo thuyết của hắn trên khắp nước, từ Galilê cho tới đây."
Khi Philatô nghe chữ Galilê, ông suy nghĩ đôi chút và hỏi: "Có phải người này từ Galilê, thuộc thẩm quyền của Hê-rô-đê không?" Các người cáo buộc trả lời: "Phải. Cha mẹ hắn từng sống ở Nagiarét, và bây giờ hắn cư ngụ gần Caphácnaum." Sau đó Philatô nói: "Vì ông ta là người Galilê và thuộc thẩm quyền của Hê-rô-đê, hãy đưa ông ta đến Hê-rô-đê. Vua Hê-rô-đê đang ở đây dự lễ nên có thể xử ngay lập tức." Sau đó ông ra lệnh đưa Đức Giêsu ra khỏi tòa và giao lại cho kẻ thù Đức Giêsu, trong khi cùng lúc ấy ông sai một sĩ quan đi báo cho Hê-rô-đê biết rằng một người Galilê, tên là Giêsu Nagiarét, được đưa đến để ông ta phân xử. Philatô cảm thấy vui vì làm như vậy ông không phải kết án Đức Giêsu, vì từ sáng đến giờ ông không cảm thấy thoải mái đối với toàn bộ vấn đề này. Đồng thời, ông cũng khôn khéo chứng tỏ rằng ông tử tế với Hê-rô-đê, vì giữa hai người từng có bất hòa, và ông còn biết rằng Hê-rô-đê rất ao ước được nhìn thấy Đức Giêsu.
Kẻ thù của Đức Giêsu nổi điên tột độ khi bị giải tán trước công chúng, nay lại phải đưa Đức Giêsu sang một tòa khác nên chúng trút phẫn nộ lên Đức Giêsu. Với cơn tức giận mới, chúng bao vây Người, trói Người lại và cùng với bọn lính tráng ồn ào, chúng hấp tấp hung bạo lôi Người đi với những cú đấm đá khi đi ngang qua đám Đông ở Diễn Đàn và qua các đường phố dẫn đến dinh Hê-rô-đê không xa đó lắm. Một số lính Rôma đi theo họ.
Bà Clođia Prô-cơ-la, vợ hợp pháp của Philatô, trong khi ông bàn cãi với người Do Thái, bà đã sai đầy tớ nói với chồng rằng bà muốn nói với ông vài lời. Giờ đây, khi Đức Giêsu bị dẫn sang dinh Hê-rô-đê, bà lo âu kín đáo với tâm hồn bối rối đứng nép mình dưới một lan can cao nhìn Đức Giêsu bị điệu đi ngang qua Diễn Đàn.
----------------------
CHƯƠNG XX
NGUỒN GỐC VIỆC SÙNG KÍNH "CÁC CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ"
Đức Trinh Nữ đứng với bà Mađalêna và ông Gioan trong một góc của Diễn Đàn đau khổ không nói nên lời khi chứng kiến tất cả cảnh tượng kinh hoàng như đã kể trên, và nghe hết những tiếng la hét ồn ào. Giờ đây khi Đức Giêsu bị đưa sang Hê-rô-đê, Mẹ nài nỉ ông Gioan và bà Mađalêna đưa Mẹ trở lại toàn thể đoạn đường đau khổ mà Con Thiên Chúa đã đi qua kể từ khi bị bắt đêm hôm trước. Cả ba đi lại toàn thể các con đường-đến toà Caipha, đến dinh Anna, và từ đó qua Ôphen đến Giệtsimani trên núi Cây Dầu. Ở những chỗ Đức Giêsu bị sỉ nhục và bị thương tích, các ngài dừng chân đôi phút trong muộn phiền và thương cảm, và bất cứ nơi nào Đức Giêsu ngã xuống đất, thì Đức Trinh Nữ lại quỳ xuống hôn mặt đất. Bà Mađalêna vò đầu buồn bã trong khi ông Gioan nhỏ lệ đỡ người Mẹ ưu phiền đứng dậy, và đưa người đi tiếp. Đây là nguồn gốc việc sùng kính Đàng Thánh Giá của Giáo Hội, nguồn gốc việc chiêm niệm sự Thống Khổ cay đắng của Đấng Cứu Thế ngay cả trước khi Người hoàn tất công trình ấy. Mặc dù vậy, ngay khi Đức Giêsu đang đi qua chặng đường vô cùng đau khổ, người Mẹ tinh tuyền và vô nhiễm của Người, trong tình yêu thánh thiện và bất diệt, đã tìm cách chia sẻ những đau khổ linh hồn và thể xác của Con Mẹ và cũng là Thiên Chúa của người, khi tôn kính và than khóc những bước chân của Người trên đường chịu chết vì chúng ta, và dâng tất cả cho Cha Trên Trời để cứu chuộc nhân loại.
Như vậy, trong mỗi bước chân của Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã gom góp tất cả công nghiệp vô cùng mà Người đã giành lại cho chúng ta, và đặt trong trái tim xót thương rất thánh của Mẹ là kho tàng độc đáo và đáng tôn kính của tất cả mọi ơn cứu độ, từ đó và qua đó, với tính bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi kết quả và ảnh hưởng của mầu nhiệm Cứu Độ được hoàn thiện trong viên mãn thời gian được ban tặng cho loài người sa ngã. Từ máu tinh tuyền nhất của trái tim thánh thiện nhất mà Chúa Thánh Thần đã tạo cho một Thân Thể, và qua hàng ngàn thương tích, Thân Thể ấy đang tuôn trào hết Máu châu báu là giá mà Đấng Cứu Độ phải trả vì chúng ta. Đức Giêsu ẩn náu dưới trái tim đầy ơn sủng đó trong chín tháng trời. Với tư cách của một Trinh Nữ vẹn tuyền Đức Maria đã đưa Người vào đời, chăm sóc Người, trông nom Người, nuôi dưỡng Người bằng chính nguồn sữa của mình, để hôm nay trao Người cho chúng ta trong cái chết vô cùng tàn nhẫn trên cây Thập Giá. Cũng như Cha trên trời không miễn cho Con Duy Nhất của mình, nhưng lại trao Người cho chúng ta, thì Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, cũng không miễn cho Hoa Quả Thánh Thiện của lòng Mẹ, nhưng đồng ý để Người, Con Chiên Vượt Qua đích thực, phải bị sát tế vì chúng ta trên Thập Giá.
Tất cả những người công chính xa xưa từ nguyên tổ cho đến linh hồn cuối cùng từng đi vào lòng ông Abraham, hôm nay đã than khóc, cầu nguyện, và dâng lễ hy sinh trong trái tim thánh thiện của Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương các Tổ Phụ và Ngôn Sứ. Cũng vậy, cho đến tận thế, việc sùng kính Đàng Thánh Giá, xuất phát từ Đức Maria và qua người truyền lại cho Giáo Hội, cũng sẽ chỉ tùy thuộc vào tình yêu như con trẻ dành cho Mẹ. Vì sự sùng kính này quá dồi dào ơn sủng, quá đẹp lòng Thiên Chúa, nên một linh hồn sẽ thăng tiến trong đức tin và đức mến đối với Đấng Cứu Độ Cực Thánh. Một dữ kiện cực kỳ quan trọng, nhưng không may lại ít được coi trọng, là bất cứ khi nào tình yêu dành cho Đức Maria trở nên nguội lạnh và việc lần chuỗi Mai Khôi mai một đi, thì sự sùng kính Đàng Thánh Giá cũng tan biến-phải, ngay cả đức tin trong giá trị vô cùng của Máu Châu Báu cũng tàn lụi.
Bà Mađalêna phiền muộn như điên dại. Tình yêu đối với Thiên Chúa không đo lường được của bà thế nào thì sự thống hối của bà cũng vậy. Trong tình yêu của bà, khi khao khát trải hồn mình dưới chân Người, như đã có lần xức dầu thơm trên đầu Người, bà lại thấy giữa bà và Đấng Cứu Thế là vực thẳm đầy tội lỗi khủng khiếp của mình; sau đó tâm hồn bà lại sống dậy đau khổ thống hối cay đắng khôn tả xiết. Trong sự biết ơn Đức Giêsu, khi khao khát dâng lên Người lời cảm tạ như hương trầm vì mình đã được tha thứ, bà lại nhìn thấy Người chịu đầy đau đớn và dằn vặt đang bị đưa đi sát tế. Trong nỗi buồn không tả nổi bà hiểu rằng Đức Giêsu phải trải qua tất cả những điều này vì tội lỗi của bà, mà Người đã gánh chịu để đền bù với Máu của Người. Ý nghĩ này khiến bà càng chìm đắm trong vực thẳm của sầu muộn thống hối. Linh hồn bà, như trước đây, tan biến trong biết ơn và tình yêu, trong đau khổ và cay đắng, trong than khóc và phiền muộn, vì bà đã thấy và cảm được sự vô ơn, tội ác lớn lao của dân tộc Người khi đưa Đấng Cứu Độ của chính họ đến cái chết nhục nhã trên thập giá. Tất cả những điều này biểu lộ qua toàn thể dáng điệu, lời lẽ và cử chỉ của bà.
Ông Gioan cũng đau khổ không kém, nhưng nhờ tâm hồn trong trắng nên ông được bình an hơn phần nào.
------------------------------------------
CHƯƠNG XXI
PHILATÔ VÀ VỢ ÔNG
Khi Đức Giêsu bị điệu sang dinh Hê-rô-đê và khi Người bị nhạo báng tại tòa này, tôi thấy Philatô đến tìm vợ ông là bà Clođia Prôcla. Hai người gặp nhau tại nhà mát trong khu vườn đằng sau dinh Philatô. Bà run rẩy và xúc động. Bà là một phụ nữ cao ráo, thanh nhã tuy hơi xanh xao. Bà đội khăn duyên dáng rủ xuống sau lưng nhưng không che hết mái tóc, quấn gọn trên đầu và được tô điểm bằng vài đồ trang sức. Bà đeo bông tai và chuỗi ngọc, và chiếc áo thẳng nếp có nút thắt ở ngực. Bà nói chuyện lâu với Philatô và yêu cầu ông đừng xúc phạm đến Đức Giêsu, vị Ngôn Sứ, Đấng Thánh của Các Thánh, và sau đó bà kể lại một số điều trong giấc mơ, hay thị kiến về Đức Giêsu mà bà được thấy trong đêm hôm trước.
Tôi nhớ bà có được linh kiến việc thiên thần Truyền Tin cho Đức Maria, việc Đức Kitô Giáng Sinh, sự Sùng Bái của Mục Đồng và ba Vua, các Tiên Đoán của ông Simêon và bà Anna, cuộc Trốn Tránh sang Ai Cập, việc Thảm Sát các Anh Hài, sự Cám Dỗ trong Sa Mạc, và các cảnh tượng khác trong cuộc đời cực Thánh của Đức Giêsu. Bà luôn trông thấy Người có ánh sáng bao quanh, trong khi cái độc ác và xấu xa của kẻ thù Người thì xuất hiện dưới những hình thù khủng khiếp nhất. Bà nhìn thấy sự thánh thiện và khổ não của Mẹ Người và những đau khổ không cùng của Người dưới các biểu hiệu của tình yêu và kiên trì bất biến. Bà đau khổ và buồn sầu không thể tả vì các thị kiến này, vì ngoài tính cách bất thường chúng còn gây cho bà một ấn tượng rất đáng tin và không thể xóa bỏ. Tỉ như, việc Thảm Sát các Anh Hài và lời Tiên Đoán của ông Simêon trong Đền Thờ, bà trông thấy như đang xảy ra ngay kế cận nhà bà.
Khi sáng hôm sau, hoảng hốt vì tiếng la hét ồn ào của đám người đê tiện, bà nhìn về Diễn Đàn và nhận ra Đức Chúa là Đấng mà bà đã nhìn thấy trong thị kiến đêm hôm qua. Bà trông thấy Người giờ đây là đối tượng của mọi loại sỉ nhục và hành hạ, trong khi Người bị kẻ thù dẫn ngang qua Diễn Đàn đến dinh Hê-rô-đê. Trong khổ não khủng khiếp, bà lập tức sai người đến với Philatô và bà đã kể lại cho ông các thị kiến trong giấc mơ với đầy đủ chi tiết mà bà có thể hiểu được. Bà khẩn khoản nài xin, và bám lấy Philatô trong dáng diệu thống thiết nhất.
Philatô rất đỗi ngạc nhiên, và bối rối về những điều bà kể. Ông so sánh điều đó với những gì được nghe về Đức Giêsu, với sự thịnh nộ của người Do Thái, với sự im lặng của Đức Giêsu, và với các câu trả lời tuyệt diệu của Người cho tất cả câu hỏi ông đặt ra. Ông thấy bứt rứt khó chịu, nhưng không lâu ông nhượng bộ các yêu cầu của vợ và nói: "Tôi đã tuyên bố là tôi không tìm thấy tội gì nơi ông Giêsu. Tôi sẽ không kết án ông ta, vì tôi biết người Do Thái hoàn toàn độc ác." Ông nói nhiều về thái độ chịu đựng của Đức Giêsu đối với chính ông, và đã trấn an sự lo sợ của vợ, ngay cả hứa với bà là ông sẽ không kết án Người. Tôi không nhớ vật trang sức nào, hoặc chiếc nhẫn hay một dấu ấn nào Philatô đã đưa cho bà để làm tin cho lời hứa. Trong sự thông cảm này hai người chia tay.
Tôi thấy Philatô là một người gàn dở, tham lam, kiêu căng và do dự, đầy bủn xỉn trong cách cư xử của ông. Để đạt được các mục đích riêng tư, ông không ngần ngại sử dụng những hành vi đê tiện nhất vì ông không kính sợ Thiên Chúa, và đồng thời khi gặp khó khăn, ông mê tín chạy đến các tà thần thấp hèn nhất và thường dựa vào bói toán. Vì vậy, lúc đó ông ta vội vã chạy đến các tượng thần của ông để trong một căn nhà hẻo lánh và thắp nhang khấn vái, cầu xin đủ mọi dấu lạ. Sau đó ông quan sát đàn gà "linh" ăn uống, và Satan rỉ tai ông lúc thế này lúc thế nọ. Có lúc ông nghĩ Đức Giêsu phải được phóng thích vì Ngài vô tội; nhưng ông lại sợ các tà thần của ông trừng phạt nếu ông cứu mạng sống Đức Giêsu là người đã có ảnh hưởng đặc biệt đối với ông đến độ ông tin rằng Người là một loại á thần, và Đức Giêsu có thể làm hại cả các tà thần của ông. Ông nghĩ "Có lẽ hắn thực sự là một ông thần của người Do Thái. Đã có nhiều Ngôn Sứ đề cập đến một vị vua của người Do Thái và ông ta sẽ thắng tất cả. Các vị vua từ phương Đông đã đến đây để tìm một vị vua như vậy trong quốc gia này. Có thể, ông ta sẽ đưa mình lên cao hơn thần thánh và Hoàng Đế của ta, và như thế thì mình sẽ phải trả lời thế nào nếu ông ta không chết. Có lẽ nếu ông ta chết thì sẽ là một chiến thắng cho các thần thánh của ta." Sau đó ông nhớ lại các giấc mơ lạ lùng của vợ ông, là người chưa bao giờ thấy Đức Giêsu, và hồi tưởng lại chuyện này khiến ông nghiêng về việc phóng thích Đức Giêsu trong khi ông vẫn rất do dự. Bấy giờ, dường như ông quyết tâm phóng thích Người. Ông muốn mình cũng là một người công chính, nhưng ông không đạt được ý định này vì một lý do cũng giống như lý do khiến ông đã không chờ đợi câu trả lời từ Đức Giêsu cho câu hỏi của ông: "Sự thật là gì?"
---------------------------
CHƯƠNG XXII
ĐỨC GIÊSU TRƯỚC MẶT HÊ-RÔ-ĐÊ
Trên Diễn Đàn và trong các đường phố nơi Đức Giêsu bị dẫn đến dinh Hê-rô-đê, dân chúng càng lúc càng tụ về Đông đảo. Họ là cư dân từ các vùng kế cận và từ khắp nước đến dự lễ. Những người Pharisiêu thù nghịch trong vùng đã có mặt với tay chân bộ hạ của họ để khích động đám đê tiện chống đối Đức Giêsu. Trước chòi canh gần dinh Philatô, binh lính Rôma đổ về rất Đông, và tại nhiều tụ điểm quan trọng trong thành phố cũng có mặt họ.
Dinh Hê-rô-đê nằm trong khu phố mới phía Bắc của Diễn Đàn, không xa dinh Philatô bao nhiêu. Một toán lính từ miền đất nằm giữa nước Thụy Điển và nước Ý cũng có mặt trong đám rước. Các kẻ thù của Đức Giêsu vô cùng tức giận khi phải đi tới đi lui, và chúng không ngừng nhục mạ Người và thúc giục các lý hình lôi Người hết bên này đến bên kia. Vì được Philatô đưa tin đám rước sắp đến nên Hê-rô-đê chờ đợi. Hắn ngồi trên ngai có đệm trong một sảnh đường lớn, chung quanh là bọn nịnh thần và lính tráng. Các Thượng Tế đi vào qua hàng cột cao và xếp hàng ở một bên, trong khi Đức Giêsu đứng ngay ở lối vào. Hê-rô-đê lấy làm khoái trá khi Philatô công khai chấp nhận trước mặt các Thượng Tế quyền xét xử của hắn đối với một người Galilê; bởi thế hắn tỏ ra hách dịch và kiêu căng tột bực. Hắn cũng rất hài lòng khi thấy Đức Giêsu đứng trước mặt hắn trong một cảnh ngộ quá nghèo hèn tiều tụy, vì trước đây Người không thèm xuất hiện trước mặt hắn. Ông Gioan Tẩy Giả đã từng nói về Đức Giêsu bằng những ngôn từ thật trang trọng, và hắn cũng từng nghe nhiều về Người qua các tên dọ thám và bép xép, nên Hê-rô-đê cực kỳ tò mò về Người. Hắn mỉm cười khoái chí khi nghĩ đến cuộc tra vấn Đức Giêsu trước mặt bọn nịnh thần và Tư Tế, và hắn có thể khoe khoang kiến thức của hắn trước mặt hai thành phần này. Hắn cũng được cho biết là Philatô đã không tìm thấy Đức Giêsu có tội gì, và với tâm trạng luồn cúi, điều đó ám chỉ rằng hắn sẽ lạnh nhạt đối xử với những người buộc tội Đức Giêsu, là một hành động chỉ làm gia tăng sự bực tức của bọn này. Ngay khi vào trước mặt hắn, họ đã lớn tiếng phàn nàn. Tuy nhiên Hê-rô-đê tò mò nhìn Đức Giêsu, và khi thấy Người thật đáng thương, bị đối xử tàn tệ, y phục dính đầy dơ bẩn, tóc xõa tung, mặt đầy máu và bùn đất, một tâm trạng trắc ẩn miễn cưỡng lẻn vào lòng ông vua bù nhìn và hoang dâm này. Hắn thốt ra thánh danh Thiên Chúa (nghe như "Giêhôva"), với dáng điệu kinh tởm hắn quay mặt đi và nói với các tư tế: "Đưa nó đi chỗ khác! Chùi rửa nó! Tại sao các ngươi đưa đến trước mặt ta một tạo vật quá dơ dáy, bị ngược đãi quá đỗi như vậy!" Nghe thế, bọn đầy tớ đưa Đức Giêsu vào tiền sảnh, đem ra một chậu nước và giẻ rách để lau chùi các vết dơ mà trong suốt thời gian ấy chúng không ngừng hành hạ Người. Kiểu cách thô bạo của chúng lại xé các vết thương ra trên khuôn mặt méo mó của Người. Trong khi đó Hê-rô-đê chỉ trích sự hung ác của các tư tế. Dường như hắn muốn bắt chước kiểu cách của Philatô khi đối xử với họ, vì hắn nói: "Hiển nhiên là nó đã rơi vào tay các đồ tể. Các ngươi khởi sự công việc hôm nay trước cả thời hạn." Các Thượng Tế chỉ trả lời bằng cách hung hăng đưa ra các lời buộc tội và than phiền. Khi Đức Giêsu lại được dẫn vào, Hê-rô-đê, là người muốn tỏ ra tán thành với Người, đã ra lệnh đem cho Người một ly rượu để lấy lại sức. Nhưng Đức Giêsu lắc đầu, và sẽ không uống.
Hê-rô-đê rất hòa nhã với Đức Giêsu; ngay cả tâng bốc Người và luôn miệng nói rằng hắn từng biết Người. Lúc đầu hắn hỏi Người vài câu hỏi, và muốn nhìn thấy một dấu hiệu từ Người. Nhưng Đức Giêsu không trả lời một tiếng, im lặng nhìn xuống đất. Hê-rô-đê trở nên rất bực mình và xấu hổ trước những người có mặt. Tuy nhiên, để che giấu sự bối rối đó, hắn tuôn ra một tràng câu hỏi với những lời lẽ vô nghĩa. Hắn nói, "Tôi rất tiếc khi thấy ông bị buộc tội nặng nề. Tôi đã nghe nhiều điều về ông. Ông có biết là ông đã xúc phạm tôi khi ở Tigia, ông phóng thích các tù nhân do tôi giam cầm ở đó, dù chưa có lệnh của tôi không? Nhưng có lẽ ông có ý tốt. Giờ đây Tổng Trấn Rôma giao ông cho tôi xét xử. Ông nói gì về những lời cáo buộc này? Ông im lặng sao? Họ đã nói với tôi về lời giảng dạy khôn ngoan của ông mà-tôi muốn nghe ông bác bỏ những người buộc tội ông. Ông đã nói những gì? Có thật ông là Vua dân Do Thái không? Có phải ông là Con Thiên Chúa không? Ông là ai? Tôi nghe ông đã từng làm nhiều phép lạ. Hãy chứng tỏ điều đó bằng cách cho tôi thấy một vài dấu chỉ. Vấn đề thả ông ra là tùy ở tôi. Có phải đúng là ông đã đem lại ánh sáng cho người mù không? Có phải ông đã làm cho Lagiarô sống lại không? Có phải ông đã nuôi hàng ngàn người với vài miếng bánh không? Sao ông không trả lời hả! Tôi ra lệnh ông phải làm một phép lạ! Nó sẽ có lợi cho ông." Nhưng Đức Giêsu giữ im lặng. Hê-rô-đê lại tiếp tục ba hoa: "Ông là ai? Ông có vấn đề gì? Ai cho ông quyền lực? Sao ông không tiếp tục thi hành quyền ấy? Ông có phải là người mà mới sinh ra đã có nhiều điều lạ thường không? Có lần một số vua chúa từ phương Đông đến với cha tôi để hỏi về một vị vua mới sinh của người Do Thái mà họ muốn thần phục. Bây giờ, họ nói rằng đứa trẻ đó không ai khác hơn chính là ông. Có đúng không? Có phải ông đã thoát chết trong khi nhiều đứa trẻ khác phải chịu chết không? Làm sao được? Sao ông ẩn dật quá lâu vậy? Hay họ gán cho ông những điều này để đưa ông lên làm vua? Hãy trả lời tôi đi! Ông là loại vua gì? Thực sự, tôi không thấy có gì là vương giả nơi ông cả! Tôi nghe nói mới đây họ đã mừng đón ông vào Đền Thờ một cách vinh quang. Điều đó nghĩa là gì? Nói đi! Sao một việc nổi tiếng lại kết thúc như thế này?" Với tất cả những câu hỏi ấy, Hê-rô-đê không nhận được một trả lời nào từ Đức Giêsu. Tôi được biết là Đức Giêsu không nói với Hê-rô-đê vì hắn phạm tội loạn luân với Hêrôđia và giết Gioan Tẩy Giả nên Hê-rô-đê bị phạt không được thông công.
Anna và Caipha lợi dụng sự bất mãn của Hê-rô-đê vì sự im lặng của Đức Giêsu để lập lại các lời cáo buộc. Trong đó chúng đưa ra điều sau đây: Đức Giêsu từng gọi Hê-rô-đê là con chồn, và từ lâu Người hoạt động để lật đổ cả dòng họ của ông; Người muốn thiết lập một tôn giáo mới, và Người đã ăn lễ Vượt Qua ngày hôm qua. Lời cáo buộc sau cùng này đã được nêu lên cho Caipha khi Giuđa phản bội, nhưng một số bạn hữu của Đức Giêsu đã trưng ra các tài liệu để chứng minh rằng điều này hợp pháp trong một số hoàn cảnh.
Hê-rô-đê, tuy rất bực mình với sự im lặng của Đức Giêsu, nhưng hắn không quên các mục tiêu chính trị. Hắn không muốn kết án Đức Giêsu, phần vì sợ Người một cách kín đáo và hối hận vì đã giết ông Gioan, và phần khác vì hắn rất ghét các Thượng Tế, vì họ sẽ không bao giờ tha tội loạn luân của hắn và vì vậy hắn không được dâng của lễ. Nhưng lý do chính để Hê-rô-đê không kết án Đức Giêsu vì hắn không muốn tuyên án một người mà Philatô đã tuyên bố không có tội. Quan điểm chính trị của hắn cũng thể hiện trong hành động; hắn muốn tỏ ra tử tế với Philatô trước sự hiện diện của các Thượng Tế. Hắn kết thúc bằng cách trấn át Đức Giêsu với những lời lẽ khinh bỉ và xúc phạm, và nói với bọn đầy tớ cũng như cận vệ (có đến hai trăm tên trong dinh): "Hãy đem tên khùng này đi chỗ khác, và phong cho nó vinh dự xứng đáng với một tên vua lố bịch. Hắn là một tên khùng hơn là một kẻ gian tà!"
Đấng Cứu Thế giờ đây lại bị dẫn ra ngoài vào một sân lớn và bị đối xử với những lời chế nhạo và tức giận không thể tả. Sân được bao quanh bằng những hành lang của dinh, và Hê-rô-đê đứng trên sân thượng nhìn cảnh hành hạ Đức Giêsu một lúc lâu. Anna và Caipha đứng sau lưng hắn, cố gắng mọi cách thúc giục hắn lên án Đức Giêsu. Tuy nhiên, Hê-rô-đê không nhượng bộ. Hắn trả lời bằng một giọng thật lớn cốt để lính tráng nghe được: "Nếu tôi kết án người ấy, thì tôi phạm tội rất lớn." Có lẽ hắn muốn nói tội phạm ở đây là tội đối với quyền quyết định của Philatô, là người quá tốt bụng khi giao Đức Giêsu cho hắn.
Khi các Thượng Tế và kẻ thù Đức Giêsu thấy Hê-rô-đê không chiều theo ý muốn của chúng, thì họ sai phái một số người trong bọn đem tiền đến Cánh Đồng, một khu vực của thành phố lúc bấy giờ rất Đông người Pharisiêu dừng chân. Những sứ giả này được lệnh triệu tập người Pharisiêu phải có mặt ngay lập tức trong khu vực dinh Philatô. Một số tiền lớn được trao cho những người này để phân phát mua chuộc đám đông để họ mạnh mẽ và kịch liệt đòi xử tử Đức Giêsu. Các sứ giả khác được sai đi loan tin đồn trong dân là Thiên Chúa sẽ trả thù nếu họ không nhất quyết xử tử tên phạm thượng. Chúng cũng phao tin rằng nếu Đức Giêsu không bị tử hình, Người sẽ về phe với dân Rôma, và đó là điều Người ám chỉ về Vương Quốc mà Người luôn luôn đề cập đến. Rồi sau đó, người Do Thái sẽ thực sự bị tiêu diệt. Đằng khác, chúng phao tin nào là Hê-rô-đê đã kết án Đức Giêsu, nhưng dân chúng phải bày tỏ ý kiến của mình; nào là các môn đệ của Người phải bị sợ hãi, vì nếu Đức Giêsu được trả tự do cách nào đó, thì buổi lễ sẽ bị xáo trộn, và sau đó người Rôma và các môn đệ của Người sẽ trả thù. Như vậy họ đã phao tin đồn thất thiệt nhằm gây hoang mang lo lắng để xúi giục và xách động dân chúng. Đồng thời, kẻ thù của Đức Giêsu cũng phân phát tiền cho đám lính của Hê-rô-đê để chúng hành hạ Đức Giêsu dã man hơn nữa. Đúng! chúng muốn Người chết sớm, vì Người chết theo cách đó còn hơn là sống để được phóng thích do phán quyết của Philatô.
Chính vì đám dân độc ác, vô thần này mà Đức Chúa phải đau khổ và bị sỉ nhục thậm tệ, bị hành hạ man rợ nhất. Khi chúng dẫn Người vào sân, thì từ trạm gác một tên lính đem ra cái túi lớn trước kia dùng để đựng bông. Chúng cắt một lỗ ở đáy túi và, giữa tiếng hò reo nhạo cười của mọi người hiện diện, chúng chụp lên đầu Đức Giêsu. Cái túi chụp xuống đến tận chân Người. Một tên lính khác buộc một miếng vải đỏ quanh cổ Người. Rồi chúng cúi chào trước mặt Người, đẩy Người bên này bên kia, sỉ nhục Người, đánh vả vào mặt Người vì Người không chịu trả lời cho vua của chúng, và chúng dâng cho Người hàng ngàn cử chỉ tôn trọng hài hước. Chúng quăng rác rến vào Người, lôi kéo Người như là đang khiêu vũ, thúc đẩy Người ngã xuống đất rồi kéo Người dọc theo đường mương chung quanh sân, để đầu Người đập vào các cột đá và góc tường. Sau đó chúng lôi Người đứng dậy và lại bắt đầu xỉ vả, hò hét. Giữa hai trăm tên lính và đầy tớ của dinh Hê-rô-đê còn có những người từ các miền rất xa, và mỗi người đê tiện độc ác trong đám đông đó lại muốn có những hành động đặc biệt bỉ ổi hơn đối với Đức Giêsu để chúng được hoan hô và quê quán chúng được vinh dự. Chúng tiếp tục cảnh man rợ hung bạo giữa tiếng la hét nhạo cười. Những ai nhận tiền hối lộ của người Pharisiêu bèn lợi dụng sự hỗn loạn ấy để lấy gậy đánh vào đầu Đức Giêsu. Người nhìn họ thương cảm, rồi thở dài và rên rỉ vì đau đớn. Nhưng họ lải nhải chế nhạo tiếng rên của Người, và mỗi một xúc phạm lại kèm theo tiếng nhạo cười chế diễu. Không một ai thương xót Đức Giêsu. Tôi thấy máu từ đầu Người chảy xuống vô cùng đáng thương, và tôi thấy Người đã ba lần qụy xuống đất khi bị đánh bằng gậy. Cùng lúc ấy, tôi thấy các thiên thần khóc lóc bay quanh Người, xức dầu trên đầu Người. Tôi được cho biết là những đòn chí tử ấy thực sự đã giết Người, nếu không có Thiên Chúa giúp đỡ. Ngày xưa người Philitinh hành hạ ông Sam-sông mù lòa cho tới chết ở hầm đá Ga-da cũng không hung dữ và tàn bạo cho bằng đám dân vô loại này.
Nhưng thời giờ gấp lắm rồi. Các Thượng Tế phải có mặt ở Đền Thờ ngay sau đó và, khi được bảo đảm là mọi chỉ thị của họ sẽ được thi hành, một lần nữa họ cố gắng xin Hê-rô-đê kết án Đức Giêsu. Nhưng Hê-rô-đê vẫn làm ngơ trước lời cầu xin của họ. Hắn vẫn chỉ nghĩ đến Philatô, mà bây giờ hắn gửi Đức Giêsu trở lại trong y phục ô nhục của Người.
----------------------------
CHƯƠNG XXIII
ĐỨC GIÊSU BỊ ĐIỆU ĐI TỪ DINH HÊ-RÔ-ĐÊ SANG DINH PHILATÔ
Cáu kỉnh, các Thượng Tế và kẻ thù Đức Giêsu lại cùng với Người từ dinh Hê-rô-đê trở về dinh Philatô. Chúng thật xấu hổ khi buộc phải trở về nơi mà Đức Giêsu đã được tuyên bố là vô tội. Bởi đó, chúng dùng một con đường khác dài hơn để mọi khu vực trong thành phố được thấy Đức Giêsu trong sự ô nhục của Người, và cũng để chúng hành hạ Người lâu hơn, và có thêm thời giờ cho các sứ thần của chúng khích động dân chúng chống đối Người.
Con đường bây giờ thật gồ ghề lởm chởm. Bọn lý hình dắt Đức Giêsu không cho Người một chút thư thả, và tấm áo choàng lại cản trở bước chân Người. Áo lê trên mặt đất đôi khi làm Người vấp ngã, đó là những dịp Người bị chúng dùng giây lôi dậy với những đấm đá. Trên con đường này Người bị dân chúng và các tên lý hình khinh miệt và sỉ nhục không thể tả, nhưng Người cầu xin để khỏi chết ngay cho đến khi hoàn tất Cuộc Khổ Nạn vì chúng ta.
Lúc đó khoảng tám giờ mười lăm sáng khi đám rước với Đức Giêsu bị hành hạ lại đi qua Diễn Đàn (dường như từ phía khác, có thể là hướng Đông) đến dinh Philatô. Đám người quá đông đảo. Dân chúng đứng thành từng nhóm, theo nơi cư ngụ và quê quán. Người Pharisiêu lăng xăng chung quanh họ để khích động. Vì nhớ đến cuộc nổi loạn của người Galilê quá khích trong kỳ lễ Vượt Qua năm trước, Philatô cho triệu tập hơn một ngàn lính và phân phối ở "Pháp Đình" và các vùng lân cận, cũng như ở những cổng vào Diễn Đàn và trong chính dinh của ông.
Trong khi biến cố xảy ra, Đức Trinh Nữ, bà chị Maria Hêli với cô con gái Maria Clêôphát, bà Mađalêna, và một vài phụ nữ đạo đức khác-tất cả khoảng hai mươi người-đứng trong sảnh đường mà từ đó họ có thể nghe mọi sự, và là nơi họ có thể ra vào dễ dàng. Ngay từ đầu, ông Gioan đã có mặt với họ.
Đức Giêsu, trong y phục nhơ bẩn, bị dẫn qua đám Đông hò hét. Những tên trơ tráo có mặt khắp nơi và được người Pharisiêu thúc giục nên chúng hết sức thi nhau chế nhạo sỉ nhục Đức Giêsu hơn những bọn khác. Một trong các viên chức tòa án của Hê-rô-đê, đã đến dinh trước đám rước, thông báo với Philatô là Hê-rô-đê rất cảm kích trước sự lưu tâm của ông, nhưng hắn không tìm thấy nơi người Galilê này điều gì khác hơn là một tên khùng câm nín, và hắn đã đối xử với Người như vậy và đưa Người trở lại với Philatô. Philatô vui mừng khi thấy Hê-rô-đê không hành động ngược với ông và không kết án Đức Giêsu. Phi-la-tô gởi lời thăm hỏi lại để đáp lễ, sau đó hai người từng là kẻ thù trước đây sau vụ bể cống dẫn nước nay đã trở thành bạn.
Đức Giêsu lại bị dẫn qua con đường trước dinh Philatô và leo lên các bậc đá đến nền nhà trên cao. Bọn lý hình lôi Người lên một cách vô cùng man rợ, tấm áo dài làm Người vấp ngã nhiều lần đến nỗi các bậc đá vấy máu nơi đầu của Người. Kẻ thù của Người, đã an tọa trong các ghế một bên Diễn Đàn, và đám đông thô bạo lại phá lên cười chế nhạo mỗi khi Người vấp ngã, trong khi bọn lý hình đá Người tàn bạo để thúc Người đứng dậy.
Philatô ngả người trên chiếc ghế giống như một chiếc giường nhỏ, bên cạnh là chiếc bàn con. Cũng như lần thư trước, các sĩ quan và người cầm cuộn giấy viết hộ tống ông. Bước ra sân thượng nơi ông có thói quen diễn thuyết với đám đông, ông nói với những người kết án Đức Giêsu: "Các ngươi trình diện người này trước mặt ta như một tên đầu độc dân chúng. Ta đã từng tra khảo ông ta trước mặt các ngươi, nhưng không thấy những điều các ngươi tố cáo. Ngay cả Hê-rô-đê cũng vậy. Vì ta đã sai các ngươi đến với ông ấy và các ngươi thấy đó, không có bằng chứng nào đáng tội chết đưa ra để chống đối ông ta. Do đó, ta sẽ trừng phạt người này và sẽ thả y ra." Nghe những lời ấy, lúc đầu có tiếng xì xầm trong đám người Pharisiêu rồi sau đó những tiếng la hét ồn ào phản đối nổi lên, họ bắt đầu hăng say tung tiền mua chuộc và khích động dân chúng hơn nữa. Philatô thật sự khinh thường tư cách của họ. Đưa ra một lời nhận xét chua chát, ông đã thốt ra lời châm biếm này: "Chắc các ngươi vẫn khát máu vô tội khi chưa nếm máu của người này!"
Theo một truyền thống cổ truyền, người dân có thói quen đến với Philatô ngay trước lễ Vượt Qua để xin phóng thích một tù nhân. Bây giờ là lúc đó. Người Pharisiêu, khi ở dinh Hê-rô-đê, đã sai đại diện đến Cánh Đồng-một khu phố về phía Tây của Đền Thờ-để xúi đám đông dân chúng đừng đòi hỏi tha Đức Giêsu, mà phải đóng đinh Người. Philatô hy vọng dân chúng sẽ xin tha cho Đức Giêsu, và ông nghĩ nếu đưa ra một tên đê tiện khốn kiếp, đã bị kết án tử hình, cùng lúc với Đức Giêsu thì dân chúng sẽ không còn chọn lựa nào khác. Tên hạ tiện nổi tiếng đó là Baraba, và cả nước ghét hắn. Trong một cuộc nổi loạn hắn đã giết người; ngoài ra, tôi còn thấy hắn đủ tánh xấu xa. Hắn sử dụng ma thuật, và trong một lần hành nghề, hắn đã mổ bụng một phụ nữ mang thai.
Bấy giờ tại Diễn Đàn dân chúng vô cùng huyên náo. Một đám đông tiến tới trước, đi đầu là các phát ngôn viên của họ. Chúng nói lớn để Philatô có thể nghe được từ trên sân thượng: "Hãy ban cho chúng tôi một tục lệ trong ngày lễ lớn!" Vì ông đang chờ đợi yêu cầu này nên Philatô lập tức đáp: "Theo tục lệ của các ngươi thì ta sẽ phóng thích một tù nhân trong ngày lễ của các ngươi. Ai là người ta sẽ phóng thích cho các ngươi, Baraba hay Giêsu, Vua dân Do Thái-Giêsu, Người Được Xức Dầu của Thiên Chúa?"
Philatô rõ ràng lúng túng về vấn đề Giêsu. Ông gọi Người là "Vua dân Do Thái," một phần vì đặc tính kiêu ngạo của người Rôma vốn khinh miệt người Do Thái vì họ có một ông vua quá khốn khổ, và giữa Người và tên sát nhân thì không còn chọn lựa nào khác; và một phần vì sự tin tưởng rằng rất có thể Người thực sự là Vua đã được hứa ban cho dân Do Thái, Người Được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng Mêsia. Linh cảm của ông về sự thật này cũng nửa thật nửa giả. Ông nhắc đến các danh xưng đó của Đức Chúa vì cảm thấy động lực chính khiến các Thượng Tế chống lại Đức Giêsu là ghen tị người mà bản thân ông coi là vô tội.
Sau câu hỏi của Philatô, dân chúng do dự và tranh luận đôi phút, và sau đó chỉ có vài tiếng la lớn: "Baraba!" Ngay lúc đó, Philatô được một đầy tớ của vợ ông mời vào bên trong. Người này nhắc ông điều ông đã hứa với bà buổi sáng, và nói: "Bà Clođia Prôcla nhắc ông nhớ đến lời hứa của ông." Các Thượng Tế và phe Pharisiêu bị kích thích tột độ. Họ lăng xăng trong đám đông để hăm dọa và ra lệnh. Tuy nhiên, khi thúc giục đám đông thực hiện điều họ hằng ao ước thì quả có nhiều khó khăn.
Đức Maria, bà Mađalêna, ông Gioan, và các phụ nữ đạo đức, đang run rẩy khóc lóc, tất cả đứng ở một góc trong sảnh đường. Mẹ Maria dù biết rằng nếu Đức Giêsu không chết thì Người không thể cứu giúp nhân loại được, nhưng vì là Mẹ của Con Chí Thánh nên Mẹ rất băn khoăn, và cũng mong muốn sự sống của Người được bảo tồn. Đức Giêsu trở thành người tự ý chịu đóng đinh; tuy vậy, khi bị dẫn đến cái chết, dù vô tội, Người vẫn bị day dứt và đau khổ như bất cứ con người nào khi bị hành hạ khủng khiếp như vậy. Và cùng cách ấy, Đức Maria chịu mọi ưu phiền và lo lắng như một người mẹ bình thường mà người con vô tội phải gánh chịu những cay đắng từ đám người vô ơn. Đức Maria run rẩy, rùng mình sợ hãi, nhưng người vẫn hy vọng. Ông Gioan thường đi trước xa hơn một chút hy vọng thu được tin tức gì tốt đẹp hơn không. Đức Maria cầu xin cho thiên hạ đừng phạm vào tội ác lớn lao này. Người cầu xin như Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu: "Nếu được, thì xin cất chén này đi!" Và vì thế người Mẹ yêu thương tiếp tục hy vọng, vì trong khi người Pharisêu rỉ tai khích động dân chúng, thì Mẹ cũng nghe được là Philatô tìm cách phóng thích Đức Giêsu. Không xa chỗ Mẹ đứng là một nhóm dân Caphácnaum, trong đó có mấy người đã được Đức Giêsu chữa lành và dạy bảo. Họ làm như không biết Đức Maria, ông Gioan cũng như các phụ nữ che mặt buồn sầu đứng gần đó, nhưng thỉnh thoảng họ lại liếc trộm. Đức Maria, cũng như mọi người khác, nghĩ rằng dân chúng chắc chắn sẽ chọn Đức Giêsu thay vì Baraba, nhưng cũng chính vì vậy mà người thật tuyệt vọng.
Philatô nhắc lại với vợ lời ông đã hứa sáng nay, như để chứng tỏ ông tôn trọng lời hứa. Ông lại bước ra sân thượng và ngồi vào ghế. Các Thượng Tế cũng ngồi. Philatô lại lớn tiếng nói: " Ai trong hai người này sẽ được ta phóng thích cho các ngươi?" Ngay sau đó trong khắp Diễn Đàn và từ mọi phía vang dội tiếng kêu: "Đem tên ấy đi! Trao Barada cho chúng tôi!" Philatô lại la lên: "Nhưng ta sẽ làm gì với ông Giêsu này, Đấng Kitô, Vua dân Do Thái?" Ồn ào náo nhiệt, tất cả la lớn: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!" Philatô hỏi đến lần thứ ba: "Tại sao, người này đã phạm tội ác nào? Ta không thấy có lý do gì để ông ta phải chết. Ta sẽ cho đánh đòn và thả ông ta ra." Nhưng tiếng la: "Đóng đinh nó! Đóng đinh nó!" bùng lên từ đám đông như tiếng reo hò của Hỏa Ngục, trong khi các Thượng Tế và người Pharisiêu, điên cuồng giận dữ, la hét om sòm. Sau đó, Philatô nhu nhược, thiếu quả quyết phóng thích tên Baraba và truyền đánh đòn Đức Giêsu!
---------------------------------
CHƯƠNG XXIV
ĐỨC GIÊSU CHỊU ĐÁNH ĐÒN
Philatô, một quan tòa nhu nhược, đê tiện đã nhiều lần lập lại các lời hèn nhát: "Ta không thấy y có tội gì, do đó ta sẽ trừng phạt và thả y ra!" Nghe vậy người Do Thái la lên, "Đóng đinh nó! Đóng đinh nó vào thập giá!" Nhưng Philatô, vẫn hy vọng tiếp tục giải pháp lúc đầu là không kết án tử hình Đức Giêsu, nên ra lệnh đánh đòn Người theo kiểu cách của người Rôma. Sau đó các lý hình dùng dùi cui đánh đập và thúc đẩy Đức Giêsu, dẫn Người đi ngang qua đám đông thịnh nộ trong Diễn Đàn đến cột đánh đòn ngay phía trước một trong các sảnh đường bao quanh quảng trường về phía Bắc của dinh Philatô và không xa chòi canh bao nhiêu.
Đầy tớ bọn lý hình đem roi, gậy và giây thừng đến ném gần cột đá trước mặt Đức Giêsu. Có sáu tên da ngăm đen, thấp hơn Đức Giêsu, tóc quăn tít và thô cứng, không có râu mà chỉ có ria lởm chởm. Chúng thắt đai lưng và y phục còn lại là áo vét bằng da, hoặc bằng thứ rẻ tiền gì đó, hai bên để hở, và che phủ phần trước thân thể như áo choàng. Tay chúng để trần, và chân mang dép tơi tả. Đây là những tên lưu manh bất lương ở biên giới Ai Cập đến đây làm thợ xây cất đào kênh như nô lệ và tội phạm. Trong bọn chúng, tên nào hèn hạ, độc ác nhất thì thường được chọn để trừng phạt các tội nhân ở "Pháp Đình".
Những tên man rợ này từng đánh chết người ở chính cột đá ấy. Trông chúng cục cằn gian ác, và thường nửa tỉnh nửa say. Mặc dù Đức Chúa không chống cự chút gì, nhưng chúng cũng giận dữ đánh đấm Người rồi lôi đến cột đá, đứng trơ trọi giữa trời chẳng dựa vào đâu. Cột không cao lắm, vì một người lớn có thể với tới đỉnh, nơi có các vòng sắt. Khoảng giữa cột cũng có vòng hay móc sắt ở một bên cột. Không thể nào diễn tả hết sự man rợ mà những tên lưu manh hung bạo này xúc phạm đến Đức Giêsu trên quãng đường ngắn đến cột đá. Chúng châm biếm lột chiếc áo choàng của Người ra, và hầu như quăng Đấng Cứu Thế tội nghiệp ngã xuống đất.
Đức Giêsu run lẩy bẩy trước cột đá. Với đôi tay sưng vù và rướm máu vì giây trói quá chặt, và hấp tấp run rẩy, Người để y phục sang một bên, trong khi các lý hình đánh đập và sỉ nhục Người. Đức Giêsu cầu nguyện nài xin vô cùng cảm động, có lúc quay đầu nhìn về phía người Mẹ đau khổ của Người, đang đứng với các bà thánh thiện trong một góc dưới cổng vòm ở quảng trường, không xa nơi đánh đòn. Đức Giêsu quay mặt về cột đá, như muốn ẩn nấp sau đó, Người nói: "Xin Mẹ đừng nhìn Con!" Tôi không biết Người thốt ra lời này hay còn nghĩ trong tâm trí, nhưng cùng lúc ấy, tôi thấy Đức Maria quay đầu đi và ngả vào cánh tay của các phụ nữ đạo đức đứng chung quanh, lấy khăn che kín mặt.
Bây giờ Đức Giêsu ôm lấy cột đá. Các lý hình, chửi rủa thô bạo kéo giật cánh tay Người lên cao một cách dã man và cột vào móc sắt trên đầu cột. Làm như vậy, thân thể Người căng ra mà chân Người, bị cột vào chân cột, như treo lơ lửng trên không. Đó là Đấng Thánh của các Thánh, bị lột hết quần áo, nặng trĩu đau khổ, nhục nhã không kể xiết, bị căng thây ở cột đá dành cho tội nhân, trong khi hai tên khát máu bắt đầu dùng roi xé nát thân xác Người từ đầu tới chân. Những cái roi đầu tiên chúng dùng dường như làm bằng một loại gỗ trắng dẻo, hoặc kết bằng gân bò, hoặc bằng những sợi da cứng.
Đức Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, Con Thiên Chúa, Thiên Chúa thật và Người thật, quằn quại dẫy dụa như một con giun đáng thương dưới lằn roi của lý hình. Người khóc trong câm nín, và rên rỉ giọng ngọt ngào, trong trẻo như lời cầu nguyện chí ái dưới sự tra tấn đau đớn, tạo thành phần phụ đệm cho tiếng rít của ngọn roi lý hình. Thỉnh thoảng, pha lẫn với các âm điệu đầy thương xót, thiêng liêng, thần thánh, bi ai đó là tiếng gào thét của dân chúng và người Pharisiêu như sấm sét xuất phát từ một đám mây giận dữ. Có nhiều tiếng đồng thanh kêu lớn: "Đưa nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" vì Philatô vẫn còn thương lượng với dân chúng. Tiếng ồn ào quá lớn đến độ mỗi khi ông ta muốn nói vài lời, phải có kèn thổi báo im lặng. Trong những lúc đó, người ta có thể nghe được tiếng roi quất, tiếng rên rỉ của Đức Giêsu, tiếng xúc phạm của các lý hình, và tiếng be be của những con chiên Vượt Qua đang được tắm rửa ở một hồ gần cổng chuồng chiên ở phía Đông. Sau lần thanh tẩy đầu tiên này, để chúng không ăn dơ bẩn nữa, họ cột mõm chúng lại và vác chúng trên vai đi đến Đền Thờ trên một con đường sạch sẽ. Sau đó họ đi vòng về phía Tây là nơi chiên được thanh tẩy lần thứ hai. Tiếng kêu be be tuyệt vọng của các con chiên nghe thật não nề. Đó là những âm thanh duy nhất hoà điệu với tiếng thở hổn hển của Đấng Cứu Thế.
Đám vô lại Do Thái đứng xa xa, cách chỗ đánh đòn khoảng bề ngang một con đường. Lính Rôma đứng rải rác nhưng chủ yếu là chung quanh chòi canh. Đủ loại người lang thang thơ thẩn gần cột đá, một số thinh lặng, một số khác tỏ vẻ khinh bỉ. Tôi thấy nhiều người trong bọn họ bỗng dưng nổi lòng thương cảm, và chính những lúc đó dường như luồng sáng phát ra từ Đức Giêsu chạm đến họ.
Tôi thấy bên cạnh chòi canh có nhiều tên du thủ du thực trẻ gần như trần truồng đang chuẩn bị các cây roi mới, và những tên khác đi tìm cành gai. Một số lý hình của các Thượng Tế đến gần bọn lý hình giúi cho chúng ít tiền, sau đó lại đem cho chúng một bình lớn đầy chất lỏng màu đỏ và chúng uống ừng ực cho đến khi điên cuồng vì say. Chúng không ngừng tra tấn trong khoảng mười lăm phút, sau đó chúng dừng tay và say sưa cùng với hai tên kia. Thân thể Đức Giêsu thâm tím những vết nâu, xanh và đỏ, toàn thân đầy những dấu cắt sưng vù. Máu thánh của Người đổ xuống đất. Người run lẩy bẩy. Nhạo cười và chế diễu từ mọi phía tấn công Người.
Đêm hôm trước trời rất lạnh. Cả buổi sáng cho đến bấy giờ trời âm u, và một cơn mưa đá đổ xuống thật nhanh khiến đám đông ngỡ ngàng. Tuy nhiên, đến trưa thì trời sáng sủa và mặt trời ló dạng.
Hai tên tra tấn khác giờ đây lại trút sự tức giận của chúng lên Đức Giêsu. Chúng dùng một loại roi khác, sần sùi, có vẻ làm bằng cây gai, và cây roi có thắt nút và gắn những cục gỗ. Bị trận đòn hung bạo này, các chỗ sưng phồng trên thân thể Đức Giêsu như rách toạc ra; máu Người bắn ra dính quanh cánh tay của mấy tên lý hình. Đức Giêsu rên rỉ và cầu nguyện, run rẩy trong thống khổ.
Đúng lúc ấy, một số đông khách lạ cưỡi lạc đà đi ngang qua Diễn Đàn. Họ chăm chú nhìn đầy vẻ kinh sợ trong khi một số người qua lại giải thích cho họ việc gì đang xảy ra. Họ là những người du hành, một số đã được Thanh Tẩy, và một số khác từng có mặt khi Đức Giêsu giảng về Tám Mối Phúc Thật. Tiếng la hét ồn ào của dân chúng trở nên dữ dội hơn chung quanh dinh Philatô.
Hai tên tra tấn đánh Đức Giêsu với roi làm bằng xích nhỏ, hay giây da, cột vào một cán đầu kia có móc sắt. Chúng xé rách từng mảnh da thịt từ mạng sườn Người. Chao ôi, ai diễn tả nổi sự man rợ khủng khiếp của cảnh tượng này!
Nhưng hai tên quái vật vẫn chưa thỏa mãn tánh hung ác. Chúng cởi trói Đức Giêsu và dựa lưng Người vào cột đá, và vì Người quá kiệt quệ không thể đứng nổi, chúng lấy giây luồn dưới cánh tay, vòng qua ngực và trói Người vào cột, bên dưới đầu gối cũng thế. Chúng giật cánh tay Người ra đằng sau và cột vào các vòng sắt ở giữa cột. Chỉ có máu và vết thương, chỉ có các miếng thịt lủng lẳng một cách man rợ là có thể thấy được trên Thân Thể cực thánh, đáng kính trọng của Con Thiên Chúa. Như những tên khát máu điên cuồng, chúng tiếp tục tra tấn. Một tên cầm cây nhỏ đánh vào mặt Đức Giêsu. Chẳng còn chỗ nào lành lặn trên Thân Đức Chúa. Với đôi mắt đầy máu, Người nhìn tên tra tấn và khẩn khoản xin thương xót; nhưng chúng chỉ thêm tức giận. Người rên rỉ yếu ớt: "Khổ thân tôi! Khổ thân tôi!"
Việc đánh đòn dã man ấy kéo dài tới bốn mươi lăm phút, cho đến khi một người vô danh, một người lạ bà con với Têsiphon mù mà Đức Giêsu đã chữa lành, phẫn nộ vội vã đến đàng sau cột, tay cầm con dao hình lưỡi liềm, ông nói lớn: "Ngừng tay! Đừng đánh chết người vô tội này!" Bọn lý hình đang say sưa, sững sờ đôi chút và dừng tay, trong khi người khách lạ mau mắn cắt đứt giây trói Đức Giêsu. Các sợi giây được buộc chung với nhau và cột vào một đinh sắt lớn ở phía sau cột. Sau đó ông ta lẻn vào đám đông biến mất. Thân thể đầy máu và vết thương, Đức Giêsu khụy xuống dưới chân cột và bất tỉnh trên vũng máu. Bọn lý hình để mặc Người nằm đó và chúng gọi đồng bọn, đang kết một vương miện bằng gai, đến uống rượu.
Với các vết thương rỉ máu, Đức Giêsu nằm run rẩy trong thống khổ. Sau đó tôi thấy vài thiếu nữ trơ trẽn đi ngang qua. Chúng im lặng dừng chân trước mặt Người, nắm tay nhau nhìn Người như ghê tởm trước một người đàn bà có kinh nguyệt, điều đó lại càng làm Người thêm đau khổ. Người ngẩng đầu bê bết máu lên và quay khuôn mặt đau khổ nhìn chúng thương hại. Chúng bỏ đi, trong khi các lý hình và lính tráng cười đùa và thốt những lời tục tĩu sau lưng chúng.
Một vài lần trong khi đánh đòn, tôi thấy thiên thần than khóc chung quanh Đức Giêsu và, trong toàn thể hình phạt cay đắng, nhục nhã đổ trên Người như một trận mưa đá, tôi nghe Người dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha vì tội lỗi của nhân loại. Nhưng giờ đây, khi Người nằm trong vũng máu dưới chân cột, tôi thấy một thiên thần đến tăng sức cho Người. Dường như thiên thần đưa cho Người một mẩu gì đó sáng ngời.
Các lý hình lại đến gần và dùng chân đá Đức Giêsu ra lệnh bắt Người đứng dậy, vì chúng chưa chấm dứt việc tra tấn. Chúng đánh Người trong khi Người bò lê đến mớ quần áo mà các tên ác độc bỉ ổi vừa cười vừa lấy chân hất từ bên này sang bên kia, khiến Người phải bò trên mặt đất đẫm máu như một con giun quằn quại trên đất, để lấy giây thắt lưng che đậy bộ phận dưới rách nát. Sau đó chúng đấm đá liên hồi bắt Người phải lảo đảo đứng dậy, nhưng không để Người có thời giờ khoác lại chiếc áo mà chúng quăng lên vai Người. Chúng thúc Người đi đến nhà giam bằng con đường quanh co, nhờ vậy Người có thời giờ lấy áo lau khuôn mặt bết máu. Từ chỗ đánh đòn, chúng có thể đi mau hơn vì các cổng chung quanh dinh đều mở về phía Diễn Đàn; qua dẫy hàng hiên có mái người ta có thể thấy những tên trộm cướp và Baraba trong tù. Khi Đức Giêsu bị dẫn đi qua chỗ ngồi của các Thượng Tế, chúng la lên: "Đem nó đi! Đem nó đi!" và chúng ghê tởm quay mặt đi chỗ khác. Khi Đức Giêsu đi vào nhà giam trong đó không có lính tráng, nhưng có đủ loại nô lệ, lý hình và những tên du thủ du thực vô gia cư, cặn bã của xã hội.
Khi đám Đông càng lúc càng sôi nổi, Philatô sai lính Rôma đến tăng cường pháo đài Antônia, và bây giờ ông ra lệnh cho họ bao quanh nhà giam. Họ được phép nói chuyện, cười đùa và chế nhạo Đức Giêsu, nhưng phải giữ hàng ngũ. Philatô muốn cản trở dân chúng và kềm chế họ trong sợ hãi vì có đến hàng ngàn người tụ tập tại đó.
ĐỨC MARIA TRONG THỜI GIAN ĐỨC GIÊSU CHỊU ĐÁNH ĐÒN
Trong thời gian Đấng Cứu Độ chúng ta bị tra tấn, tôi thấy Đức Trinh Nữ luôn trong tình trạng xuất thần. Bà Maria Hêli, là chị lớn của người, trông rất giống thánh nữ Anna, đứng bên cạnh nâng đỡ người. Bà Maria Clêopha, con gái bà Maria Hêli cũng có mặt ở đó, và hầu như lúc nào cô cũng bám lấy tay mẹ. Những phụ nữ đạo đức khác thì run rẩy lo âu phiền muộn. Họ ôm nhau khóc thầm quanh Đức Trinh Nữ, như đang đợi cái chết của chính mình. Đức Maria mặc áo dài xanh, màu da trời, bên ngoài khoác một áo choàng len mầu trắng, che mặt bằng khăn vuông trắng mịn. Người trông thấy và chịu đựng hết những gì mà Con của người đang phải gánh chịu trong một tình cảnh không thể diễn tả. Người cũng bị hành hạ và sự đồng tử đạo của Mẹ với Đức Giêsu cũng lớn lao không thể tưởng như tình yêu rất thánh của người. Mẹ luôn phát tiếng rên khe khẽ, mắt người sưng húp vì thương khóc, nhưng vẻ đường hoàng đơn sơ của Mẹ trong suốt thời gian này thì không tài nào tả nổi. Bất chấp đau đớn và lo âu, bất chấp nỗi mệt nhọc mà người phải chịu khi lang thang trong các đường phố Gìiêrusalem và qua thung lũng Gio-sa-phat đêm hôm trước, nét mặt của Mẹ luôn luôn khiêm nhu bình tĩnh, y phục hoàn toàn tề chỉnh dường như không hề bị nhàu nát, xốc xếch. Với dáng vẻ tuyệt đối uy nghi Mẹ đưa mắt nhìn quanh, tấm khăn voan quấn trên bờ vai một cách thật duyên dáng. Tuy con tim tan nát đau thương khôn cùng, Mẹ vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và di chuyển trong yên lặng. Y phục của Mẹ tuy có ẩm ướt vì sương đêm, dù đã thấm không biết bao nhiêu nước mắt nhưng không hề có một dấu vết lấm bùn. Sắc diện Mẹ đẹp siêu phàm tuyệt vời khôn tả không có gì dưới thế có thể sánh nổi, nó như một tổng hợp của uy linh, thánh thiện, đơn sơ và trinh trong!
Bà Maria Mađalêna thì khác hẳn. Trông bà cao và khỏe mạnh hơn; nét mặt đầy cương nghị nhưng sắc đẹp hầu như bị hủy hoại vì những đam mê thuở trước, do lòng thống hối ăn năn cực độ đắng cay vì cuộc khổ nạn của Thày mình.
Sau khi bị đánh đòn, Đức Giêsu quỵ xuống chân cột, tôi thấy bà Clođia Prôcla, vợ ông Philatô, gửi một mớ băng vải cho Đức Mẹ. Tôi không biết bà ấy có nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ được thả hay không, sau đó Đức Mẹ có thể dùng vải ấy băng bó các vết thương của Người, hoặc người ngoại giáo đầy lòng thương xót này đã đưa băng vải để Đức Trinh Nữ dùng vào việc ngay sau đó.
Đức Maria trông thấy người Con tan nát của mình bị lý hình điệu đi ngang qua. Đức Giêsu lấy áo lau đôi mắt ứa máu để nhìn rõ Mẹ Người. Đức Maria giơ cánh tay về phía Người và đăm đăm nhìn vào các vết máu dưới dấu chân. Sau đó, khi đám Đông dồn sang một phía, tôi thấy Đức Trinh Nữ và bà Mađalêna đi lại chỗ Đức Giêsu đã bị đánh đòn. Nhờ các phụ nữ đạo đức cũng như một vài người danh vọng đứng gần đó kín đáo bao quanh, hai bà quỳ xuống dùng các khăn vải để thấm Máu Thánh Đức Giêsu cho đến khi không còn chút vết tích nào!
có khoảng hai mươi bà đạo đức, nhưng lúc bấy giờ tôi không thấy ông Gioan. Ông Ôbét, con ông Simêon, con trai bà Vêrônica, và ông Aram, ông Têmêni, hai người cháu của ông Giuse Arimathê, dù buồn phiền thất vọng nhưng họ đang phải bận rộn trong Đền Thờ.
Việc đánh đòn tra tấn chấm dứt khoảng chín giờ sáng.
----------------------------------
CHƯƠNG XXV
ĐỨC GIÊSU BỊ ĐỘI MÃO GAI NHẠO BÁNG
Trong khi Đức Giêsu bị đánh đòn, Philatô đã vài lần lên tiếng với đám đông dân chúng, nhưng họ lại ho tô: "Nó phải bị xử tử, dù chúng tôi có phải tranh đấu cho đến chết!" Và khi Đức Giêsu bị dẫn đi đội mão gai, họ lại kêu lên: "Đem nó đi! Đem đi!" Ở quảng trường, lúc nào cũng có các đoàn người Do Thái mới đến, và khi họ đến nơi, thì đầy tớ của các Thượng Tế lại xúi bẩy họ la to những lời ấy.
Bấy giờ, sau khi nghỉ mệt, Philatô truyền cho đám lính một vài điều. Trong khi đó thì các Thượng Tế và Công Nghị, vẫn ngồi trên các băng ghế có mái và cây che nắng ở hai bên đường trước sân thượng của Philatô sai đầy tớ đi mua thức ăn nước uống. Tôi lại thấy Philatô bối rối do dự. Vì mê tín dị đoan, ông lại lẻn đi đốt nhang trước các tà thần và lăng xăng với đủ loại bói toán.
Tôi thấy Đức Trinh Nữ và các bà rời Diễn Đàn ngay sau khi lau khô máu ở cột đá. Tôi thấy các vị và những khăn vải đẫm máu (thánh Chúa) trong một ngôi nhà nhỏ sát vách với một nhà hàng xóm. Bây giờ tôi không nhớ nhà ấy của ai, và cũng không nhớ ông Gioan có ở chỗ Đức Giêsu bị đánh đòn hay không.
Việc đội mão gai và chế nhạo Đức Giêsu xảy ra trong sân nhỏ của nhà giam, thuộc khu Diễn Đàn. Sân này có hàng cột bao quanh, và lối vào bỏ ngỏ. Có chừng năm mươi tên hung hãn gồm bọn lính tráng, đầy tớ cai ngục, lý hình, mấy đứa bé con, nô lệ, và các tên tra tấn tích cực hành hạ Đức Giêsu. Lúc đầu đám đông dân chúng hăng hái đổ về, nhưng sau đó hàng ngàn lính Rôma đứng chung quanh dinh đã giải tán họ. Lính đứng theo đội ngũ, cười đùa và chế nhạo, bởi đó các tên tra tấn Đức Giêsu lại được khích lệ đổ thêm đau khổ cho Người. Những tiếng cười và diễu cợt kích động chúng cũng như tràng pháo tay khích lệ diễn viên.
Ở giữa sân có một cái lỗ và chúng lăn đến đó một cái đế cột đã cũ mà có lẽ trước đây được cắm ở đó. Trên đế, chúng đặt một ghế đẩu tròn thấp có dựa lưng, và chúng nham hiểm rắc đá nhọn và mảnh sành trên ghế.
Một lần nữa chúng lại lột quần áo khỏi thân thể đầy thương tích của Người, và thay vào đó chúng khoác lên Người một áo choàng đỏ của lính đã cũ nát, tơi tả và ngắn cũn cỡn chưa đến đầu gối. Có các giây tua mầu vàng lủng lẳng đây đó. Áo này được cất trong một xó nhà giam và được dùng để phủ lên các phạm nhân sau khi bị đánh đòn, để thấm khô máu hay để chế nhạo. Bấy giờ chúng lôi Đức Giêsu đến chiếc ghế đẩu đầy đá nhọn và mảnh sành, và dùng sức mạnh ấn thân thể trần truồng và đầy thương tích của Người ngồi xuống ghế. Sau đó chúng đội lên đầu Người một 'vương miện' làm bằng cây gai. Nó cao khoảng hai gang tay, dầy và đan vào nhau thật khéo, trên đỉnh thì nhọn. Chúng đặt mão gai như ép vào trán Người và sát vào sau đầu, tạo thành như một vương miện. Vòng gai bện rất khéo từ các cành gai dầy đến ba ngón tay, các gai nhọn đâm thẳng ra ngoài. Khi đan vương miện này, bọn chúng cố ý để gai chĩa vào bên trong. Có ba loại gai, như loại chúng ta thường gọi là gai cứng, gai đen và gai cây táo. Trên đỉnh được làm bằng một loại gai mà ta gọi là gai đen, và bọn tra tấn đã cột loại này vào đó để tạo ra đau đớn mỗi khi chuyển động. Tôi được thấy chỗ bọn côn đồ này lấy gai. Sau đó chúng đặt trong tay Đức Giêsu một cây sậy to có búi lá trên đỉnh. Chúng làm những điều này một cách long trọng khôi hài, như thể chúng thực sự tấn phong Người làm vua vậy. Sau đó chúng giật cây sậy trong tay Người và đập mạnh vào mão gai, cho đến khi mắt Người đầy máu. Chúng quỳ trước mặt Người, le lưỡi, vả vào mặt Người, và kêu lớn: "Kính chào Vua dân Do Thái!" Vừa cười chế nhạo chúng vừa xô Người ngã khỏi ghế để sau đó lại ép buộc ấn Người ngồi xuống ghế.
Tôi không thể lập lại mọi sáng chế hèn hạ được bọn này xử dụng để xúc phạm Đấng Cứu Độ đáng thương. Ôi chao! Người khát nước khủng khiếp, khô héo vì các thương tích rách nát sau những đòn vọt vô nhân đạo. Người run rẩy. Phần da thịt bên cạnh sườn bị xé toạc nhiều chỗ, lòi cả xương. Lưỡi Người co thắt dữ dội. Chỉ có Máu thánh đang nhỏ giọt từ đầu chảy xuống, như thể thương hại đôi môi Người nứt nẻ đang mòn mỏi đợi chờ. Khi thấy vậy, các tên quái vật quay miệng Người vào cái bô đựng nước tiểu của chúng. Đức Giêsu chịu hành hạ khoảng nửa giờ, trong thời gian đó đám lính đứng quanh "Pháp Đình" theo hàng ngũ vẫn tiếp tục nhạo báng và cười đùa.
"ĐÂY LÀ NGƯỜI"
Và bây giờ chúng lại dẫn Đức Giêsu đến dinh Philatô đội mão gai trên đầu, vương trượng giả trong tay bị cùm và áo choàng tím khoác trên vai. Diện mạo Đức Giêsu không còn như trước vì mắt ứ đầy máu chảy xuống miệng và râu của Người. Thân thể Người đầy thương tích và vết roi tựa như một tấm vải đẫm máu, dáng đi lòm khòm chập chững. Chiếc áo choàng này quá ngắn nên Người phải lom khom để che hạ bộ, vì khi đánh đòn chúng đã xé rách áo của Người. Khi Người đến bậc đầu tiên của cầu thang dẫn đến tòa Philatô, ngay cả người cứng lòng cũng phải hoảng sợ rùng mình vì thương cảm và phẫn nộ. Philatô đứng dựa vào một trong các sĩ quan trong khi các tư tế và dân chúng tiếp tục la ó và chế nhạo. Ông nói: "Nếu ma quỷ hung ác như người Do Thái, thì không ai có thể sống với chúng trong hoả ngục!" Đức Giêsu mệt mỏi lết lên các bậc đá, và trong khi Người đứng đó, Philatô bước ra phía trước sân thượng. Tiếng kèn trổi lên kêu gọi chú ý, vì Philatô sắp sửa lên tiếng. Với các Thượng Tế và dân chúng, ông nói: "Đây! Ta đưa Người đến với các ngươi, để các ngươi biết rằng ta không thấy người này có tội gì!"
Sau đó các lý hình dẫn Đức Giêsu ra phía trước sân thượng nơi Philatô đang đứng, để mọi người trong Diễn Đàn có thể trông thấy. Ôi, thật là một cảnh tượng khủng khiếp, não lòng! Yên lặng khủng khiếp và thê lương bao trùm dân chúng khi họ trông thấy Đức Giêsu, bị hành hạ vô nhân đạo, một hình dáng đọa đầy, thánh thiện của Con Thiên Chúa thân mình đầy những máu và thương tich, đầu đội mão gai đáng sợ, Người nhìn xuống đám Đông với con mắt đầy máu! Đứng cạnh đó, Philatô chỉ tay vào Đức Giêsu và lớn tiếng nói: "Đây là Người!"
Trong khi Đức Giêsu, với áo choàng hài hước đỏ lòm phủ trên thân thể rách nát, đầu cúi xuống vì sức nặng của mão gai, đôi tay bị cùm cầm vương trượng giả đứng trước dinh Philatô, buồn thảm và nhân từ khôn cùng, đau thương và yêu mến, như một bóng ma đẫm máu được phơi bầy trước tiếng la phẫn nộ của tư tế và dân chúng, thì một đám khách lạ, nam nữ, quần áo thắt gọn ngang lưng, đi ngang qua Diễn Đàn để xuống hồ tắm chiên. Họ đến giúp tắm rửa chiên Vượt Qua, mà tiếng kêu be be trộn lẫn với tiếng reo hò khát máu của dân chúng, như thể chúng ao ước được làm chứng cho Sự Thật Câm Nín. Giờ đây Chiên Vượt Qua Đích Thực của Thiên Chúa, Mầu Nhiệm được tỏ lộ nhưng không ai nhận biết trong ngày thánh thiện này, đã chu toàn các Sấm Ngôn và im lặng phơi mình trên bàn sát tế.
Các Thượng Tế và quan tòa điên tiết tột độ khi trông thấy Đức Giêsu, một Tấm Gương đáng sợ cho chính lương tâm bọn chúng, và chúng quát tháo ầm ĩ: "Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" Philatô kêu lên: "Các ngươi chưa thỏa mãn sao? Người này bị đối xử tàn bạo như vậy thì sẽ không bao giờ muốn làm vua nữa." Nhưng bọn này và dân chúng, thịnh nộ không kềm chế được, la lên dữ dội: "Đem nó đi! Đóng đi nó vào thập giá!" Một lần nữa Philatô phải ra lệnh thổi kèn, và một lần nữa ông lớn tiếng nói: "Các ngươi đem ông ta đi mà đóng đinh, vì ta không thấy ông có tội gì!" Nghe vậy các Thượng Tế la lên: "Chúng tôi có lề luật, và theo đó nó phải chết, vì nó tự cho mình là Con Thiên Chúa!" Philatô trả lời: "Nếu các ngươi có điều luật như vậy, là một người như thế phải chết, thì ta sẽ không bao giờ là một người Do Thái!" Tuy nhiên, những chữ, "Nó tự cho mình là Con Thiên Chúa," làm Philatô lại lo lắng, và sợ hãi dị đoan lại nổi lên. Bởi đó ông sai đem Đức Giêsu vào trong tòa để nói riêng với Người. Ông bắt đầu bằng câu hỏi: "Ông từ đâu đến?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời. Philatô nói: "Ông không trả lời ta sao? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông và có quyền tha ông sao?" Đức Giêsu trả lời: "Ông không có bất cứ quyền lực gì nếu ở trên không ban cho ông; bởi đó người trao nộp tôi cho ông bị tội nặng hơn."
Lúc đó, bà Clođia Prôcla, vợ ông Philatô, lo sợ khi thấy sự do dự của chồng nên lại sai người đến nhắc nhở ông lời ông hứa. Nhưng ông mập mờ đáp lại bằng một câu mê tín dị đoan mà ông đã xin với các tà thần.
Do dự và bối rối như lúc trước, Philatô lại ra trước công chúng và nói với họ là ông không thấy Đức Giêsu có tội gì. Trong khi đó, các Thượng Tế và người Pharisiêu đã khuấy động dân chúng bằng cách nói với họ nhiều điều, tỉ như "các môn đệ của tên Giêsu đã mua chuộc vợ Philatô"; hoặc "nếu tên Giêsu được tự do, hắn sẽ kết hợp với Rôma và sau đó tất cả sẽ bị tiêu diệt." Điều này khiến dân chúng mãnh liệt la hét đòi phải xử tử Đức Giêsu. Philatô, mong muốn câu hỏi của mình được trả lời cách nào đó, nên lại đi vào tòa gặp Đức Giêsu. Khi một mình với Người, ông nhìn Người sợ hãi và hoang mang suy nghĩ: "Nếu Người này thực sự là thần thánh thì sao!" Và sau đó ông thề thốt van nài Đức Giêsu cho biết có phải Người là thần thánh và không phải người thường, có phải Người là vua được hứa ban cho dân Do Thái. Vương Quốc của Người lan rộng tới đâu? Thiên tính của Người thuộc cấp bậc nào? và ông chấm dứt với lời tuyên bố, nếu Đức Giêsu trả lời các câu hỏi của ông, Người sẽ được trả tự do. Những gì Đức Giêsu trả lời cho Philatô, tôi chỉ có thể lập lại nội dung, chứ không bằng chi tiết. Những lời của Đức Chúa có nội dung khủng khiếp. Người giúp Philatô hiểu Người là vua gì, vương quốc Người cai trị là gì, và chân lý là gì, vì Người nói sự thật với ông. Người cho ông thấy tình trạng ghê tởm của lương tâm ông, cho biết trước số phận của ông-phải đầy ải trong cảnh khổ cực và kết thúc trong kinh hoàng. Hơn nữa, Người nói với ông một ngày kia Người sẽ đến để phán xét ông trong sự chính trực.
Vừa sợ hãi vừa bực bội vì những lời của Đức Giêsu, Philatô lại đi ra sân thượng và công bố ý định thả Đức Giêsu. Tiếng la hét vang dội nổi lên: "Nếu ngài thả người này, ngài không phải là bạn của Xêda, vì bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xêda!" Một số khác lại la lên: "Chúng tôi sẽ tố cáo với Xêda là ngài khuấy động ngày lễ của chúng tôi. Ngài phải quyết định ngay đi, vì chúng tôi phải đến Đền Thờ lúc mười giờ tối nay, nếu không thì sẽ bị trừng phạt." Và những tiếng kêu: "Đóng đinh nó vào thập giá! Đem nó đi!" lại vang dội khắp nơi, ngay cả sân thượng các nhà kế cận Diễn Đàn cũng có mặt từng đám côn đồ lưu manh.
Bấy giờ Philatô thấy không thể làm gì để đối phó với sự phẫn nộ của đám đông. Ông thực sự sợ hãi trong cơn náo động và hỗn loạn của dân chúng. Đám đông trước Diễn Đàn đang bị kích động và phẫn nộ cùng cực nên ông e rằng họ sẽ nổi loạn. Philatô bèn gọi đem nước ra. Người đầy tớ đem bình nước và đổ trên tay ông trước mặt dân chúng, trong khi Philatô lớn tiếng: "Ta vô tội trong sự đổ máu Người công chính này! Các người thấy đó!" Nhưng đám đông dân chúng từ khắp mọi miền Paléttin đổ tới đã đồng thanh la to một lời khủng khiếp: "Máu của nó hãy đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!"
Bất cứ khi nào suy niệm về cuộc Khổ Nạn đau buồn này tôi lại nghe tiếng kêu ấy của người Do Thái: "Máu của nó hãy đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" và lại được nhìn thấy hình ảnh tuyệt vời và khủng khiếp hậu quả của lời tự nguyền rủa nghiêm trọng ấy. Tôi thấy bầu trời ảm đạm với những đám mây màu máu phủ trên đám đông ồn ào đó, những tai họa và gươm đao bừng cháy. Dường như tôi thấy các tia sáng từ lời nguyền ấy thâu qua xương tủy của họ, phải, chạm đến cả các thai nhi trong lòng mẹ. Tôi thấy cả nước chìm đắm trong tối tăm. Tôi nghe tiếng kêu ghê sợ phát ra từ môi miệng họ như những ngọn lửa căm hờn, ghê rợn, phát ra từ đỉnh đầu họ rồi đan vào nhau, sau đó lại tác hại đến bản thân họ, thẩm thấu vào một số người, nhưng chỉ chờn vờn chung quanh một số người khác. Hình ảnh sau cùng này tượng trưng cho những người hoán cải sau cái chết của Đức Giêsu. Con số ấy không phải là không đáng kể, vì tôi thấy Đức Giêsu và Đức Maria, trong đau khổ tột cùng vẫn liên tục cầu nguyện cho những tên lý hình được cứu độ. Đấng Cứu Thế và Mẹ Người không hề mảy may nổi giận vì sự hành hạ khủng khiếp ấy. Tôi được linh kiến toàn thể cuộc Khổ Nạn của Đức Chúa đầy rẫy những dạng thức hiểm độc nhất, những tra tấn man rợ nhất, những chế nhạo xấc xược và vô lại nhất; về phần kẻ thù của Đức Giêsu và các thuộc hạ của chúng thì tôi thấy dấu hiệu của căm hờn thịnh nộ, cũng như những ý đồ kinh khủng và đẫm máu nhất; về phần các môn đệ của Người thì có những dấu hiệu vô ơn và chối bỏ; những dấu hiệu đau khổ cay đắng của linh hồn và thân xác. Nhưng tôi thấy Đức Giêsu chấp nhận tất cả, cho đến hơi thở cuối cùng, trong sự cầu nguyện liên tục, trong tình yêu liên tục dành cho kẻ thù, và cầu khẩn liên tục để họ hoán cải. Nhưng qua sự kiên nhẫn và tình yêu vô cùng ấy, tôi thấy sự thịnh nộ điên rồ của kẻ thù Người càng bừng bừng sát khí hơn trước. Chúng điên cuồng giận dữ vì tất cả những hành hạ của chúng không thể làm cho đôi môi thinh lặng của Người phải thốt ra một lời phiền trách để chúng có lý do biện hộ cho tánh độc ác của mình. Hôm nay trong ngày Lễ Vượt Qua, khi chúng đang giết chiên Vượt Qua, nào chúng đâu có ngờ rằng cùng lúc ấy chúng đang giết Chiên Vượt Qua Đích Thực.
Trong khi chiêm niệm như thế, tôi nghĩ đến tính nết của dân chúng và các quan tòa, và sau đó nhìn về các linh hồn cực thánh của Đức Giêsu và Đức Maria, và tôi được thấy tất cả những gì xảy ra trong đó qua những hình ảnh khác nhau. Thật đúng là chính dân chúng không được nhìn thấy, nhưng họ cảm thấy các hình ảnh ấy một cách tượng trưng. Sau đó tôi thấy vô số các hình thù quỷ quái, mỗi hình thù thích hợp với những tật xấu mà chúng tượng trưng, và tất cả đều tác động trong dân chúng một cách ghê rợn. Tôi thấy chúng chạy chỗ này chỗ nọ, thúc giục và gây rối loạn đám đông, rỉ tai họ, lẻn vào miệng họ. Tôi thấy chúng lùa một số người trong bọn này, kết hợp thành một đoàn và thúc giục họ chống đối Đức Giêsu, nhưng trước tình yêu và sự kiên nhẫn của Người chúng run rẩy thối lui và chuồn mất. Nhưng trong tất cả hoạt động của chúng, tôi thấy có một cái gì tuyệt vọng, do dự, ngay cả tự hủy diệt, một động lực phi lý và lúng túng, khi thì thế này lúc thế khác. Tuy nhiên, bên trên và chung quanh Đức Giêsu cũng như gần Đức Maria có từng nhóm nhỏ những người đạo đức hiện diện trong cảnh khủng khiếp này, tôi thấy vô số các thánh di chuyển. Tôi nhìn thấy họ dưới nhiều dáng vẻ và y phục khác nhau tùy theo sứ vụ. Đôi khi hành động của họ có vẻ như tiêu biểu cho những nỗ lực nguôi ngoai, như cầu nguyện hay xức dầu, như cho người nghèo ăn mặc, hay một số công việc bác ái khác.
Cùng một phương cách đó, tôi thường thấy những lời an ủi hay cảnh cáo trong các tia sáng nhiều mầu phát xuất từ miệng của các đấng hiện ra, hoặc họ cầm trong tay các sứ điệp dưới dạng những cuộn giấy viết. Tôi cũng thường thấy tác động của linh hồn và những đam mê riêng tư, đau khổ, yêu thương, tất cả những gì mà linh hồn nhận được. Tôi thấy chúng xuyên nhanh qua ngực và, thật vậy, qua toàn thể thân xác con người, đôi khi trong các tia sáng nhiều mầu sắc, đậm lợt khác nhau. Chúng xuất hiện dưới rất nhiều hình dáng, nhiều mầu sắc và hình thù đa dạng, một số bất chợt, một số khoan thai hơn, và sau đó thì tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi không thể lập lại, vì nó không cùng và, ngoài ra, tôi quá đau đớn, khổ sở và lo lắng vì hậu quả tội lỗi của chính tôi và của những người trên thế giới, quá tan nát vì cuộc Khổ Nạn cay đắng của Đức Giêsu, nên tôi không biết làm sao tổng hợp những vụn vặt vừa kể. Nhiều điều, nhất là các việc hiện ra và các dữ kiện liên quan đến thiên thần và ma quỷ được các linh hồn chiêm niệm khi nhìn cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu Kitô, trở nên hài hòa khi được liên kết với nhau. Đó là những mảnh vụn của tác động nội tâm, vô hình, tinh thần giống nhau. Chúng được giữ lại trong ký ức tùy năng lực của linh hồn người thị kiến, khi bằng cách này, khi theo cách khác, và thường bị ghép lầm với nhau lúc truyền đạt. Do đó, sau những tuyên bố mâu thuẫn, vì những điều nhỏ nhặt thường bị quên đi hoàn toàn, những người khác vì không cẩn thận đã bỏ qua và chỉ ghi lại một số điều. Vì mọi thủ đoạn độc ác được sử dụng trong cuộc tra tấn Đức Giêsu, vì mọi tình yêu đã phải chịu đau khổ trong Người, vì Người là Chiên Thiên Chúa đã gánh lấy tội trần gian-nào ai có thể biết, ai có thể kể lại được mọi chi tiết không cùng của một bên là ác tâm, và một bên là thánh thiện? Do đó, nếu các thị kiến và chiêm niệm của những linh hồn đạo đức không hoàn toàn hòa hợp với nhau, đó là vì những linh hồn ấy không được ban cho cùng một ơn linh kiến, hay cùng khả năng hiểu biết và truyền đạt.
---------------------------------
CHƯƠNG XXVI
ĐỨC GIÊSU BỊ KẾT ÁN TỬ HÌNH
Philatô không muốn đi tìm sự thật nhưng chỉ muốn tìm lối thoát cho một tình thế khó xử cho riêng mình nên lại càng do dự hơn bao giờ hết. Lương tâm bảo ông: "Giêsu vô tội." Vợ ông nói: "Giêsu là thánh." Mê tín dị đoan nói với ông: "Giêsu là kẻ thù của thần thánh ông thờ." Tính hèn nhát nói với ông: " Giêsu đích thị là một vị thần và sẽ trả thù ông." Sau đó ông lại lo lắng và nghiêm trọng hỏi Đức Giêsu, và rồi Đức Giêsu cho ông biết những tội ác thầm kín của ông, tương lai và kết cuộc bi thảm của ông. Ngài cũng cảnh cáo ông rằng một ngày kia Ngàøi sẽ ngự trên đám mây để xét xử ông một cách công minh. Bấy giờ có một sức mạnh vô hình làm lệch cán cân xét đoán của ông đối với Đức Giêsu. Ông thấy mình bị tổn thương khi phải đối diện với Đức Giêsu, là người mà ông không thể hiểu, trong khi lương tâm hèn nhát của ông bị phô bầy dưới cái nhìn của Người; và rồi Người mà ông ra lệnh đánh đòn và ông có thẩm quyền đóng đinh trên thập giá lại báo trước một kết cuộc bi thảm cho đời ông. Đúng vậy, đôi môi ấy chưa hề nói lời gian dối, không hề thốt ra một lời tự biện hộ, mà ngay cả trong giây phút cực kỳ hiểm nghèo đã định ngày sẽ gọi hồn ông về để chịu xét xử. Tất cả những điều này làm ông tự ái. Nhưng vì không ai làm chủ được cảm nghĩ của ông, một tạo vật tồi bại, do dự, nên ông cảm thấy lo lắng khi nhớ đến lời cảnh cáo của Đức Chúa, vì thế ông quyết định tìm cách thả Người lần cuối. Tuy nhiên, đối với đám người Do Thái đe dọa sẽ tố cáo ông với Hoàng Đế, thì tâm hồn Philatô lại bị một sự sợ hãi hèn nhát khác xâm chiếm. Sự sợ hãi quyền lực dưới đất đã lướt thắng sự sợ hãi một vị Quân Vương mà Nước Người không thuộc thế gian này. Nhân vật hèn nhát này do dự nghĩ: "Nếu ông ta chết, thì những gì ông ấy biết và tiên đoán về mình cũng phải chết theo." Vì sợ bị tố cáo với Hoàng Đế, nên dù trái lời hứa với vợ, Philatô đành chịu nhượng bộ đám đông, trái với lẽ phải và công lý cũng như với lương tâm của chính ông. Vì sợ Hoàng Đế, ông giao nộp tánh mạng của Đức Giêsu cho người Do Thái. Lương tâm ông không gì khác hơn là nước lã mà ông đã ra lệnh đổ trên tay ông khi lớn tiếng tuyên bố: "Ta vô tội trong việc đổ máu Người công chính này. Các ngươi thấy đó!" Philatô, đừng nói vậy! Chính ông có nhìn đến hành động đó không! Ông đã biết Đức Giêsu là một người công chính, nhưng ông đã để máu Người phải đổ ra! Ông là con người bất chính, một quan tòa bất lương! Và cũng máu đó, mà Philatô tìm cách rửa sạch khỏi tay mình nhưng không thể rửa sạch khỏi linh hồn ông được thì người Do Thái khát máu lại viện dẫn như một lời nguyền rủa trên chính bản thân họ và con cháu họ nữa. Máu của Đức Giêsu, từng kêu gào tha thứ cho loài người chúng ta thì họ lại viện dẫn như một sự trả thù trên đầu của chính họ: Họ kêu gào: "Máu của nó cứ đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi đi!"
Trong khi tiếng kêu gào khủng khiếp này vang dội khắp nơi thì Philatô ra lệnh chuẩn bị tuyên án. Y phục đại lễ được đem ra cho ông. Một vương miện lấp lánh đá quý, được đặt trên đầu ông, một áo choàng khác quấn quanh ông, và một vương trượng được đặt trước mặt ông. Một số lính đứng quanh ông, các viên chức tòa án đến trước mặt ông mang theo cái gì đó, và các Luật Sĩ với cuộn giấy và bảng nhỏ đi theo ông. Cả đoàn người nối đuôi nhau đi theo một tên lính thổi kèn. Sau đó Philatô rời dinh đến Diễn Đàn, nơi đối diện với chỗ đánh đòn có một ngai toà cao và rất đẹp. Chỉ khi tuyên bố từ ngai ấy án lệnh mới đầy đủ hiệu lực. Nơi này gọi là Gáp-ba-tha. Đây là một ban công tròn có một cầu thang dẫn lên. Trên đó có ghế dành cho Philatô, và đằng sau là một băng ghế cho các vìên chức tòa án. Từ cầu thang lên đến ban công đều có lính đứng chung quanh. Nhiều người Pharisiêu đã rời dinh để đến Đền Thờ. Chỉ có Anna, Caipha và khoảng hai mươi tám người khác đến thẳng ngai tòa trong Diễn Đàn, trong khi Philatô đang mặc phẩm phục. Hai tên cướp được dẫn đến đó khi Philatô trình diện Đức Chúa trước dân chúng bằng câu "Đây là Người." Ghế của Philatô bọc vải đỏ, trên mặt ghế có để tấm nệm mầu xanh viền vàng.
Bây giờ Đức Giêsu mặc áo choàng đỏ thẫm, đầu đội mão gai, tay bị trói, do lính tráng và lý hình dẫn ngang qua đám đông đang nhạo cười và đặt Người đứng giữa hai tên sát nhân đằng trước ngai tòa. Từ ngai này, một lần nữa, Philatô lớn tiếng nói với kẻ thù của Đức Giêsu: "Đây là Vua của các ngươi." Nhưng họ la lên: "Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" Philatô hỏi: "Ta phải đóng đinh Vua các ngươi sao?" Các Thượng Tế trả lời: "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêda!" Từ lúc đó trở đi Philatô không nói lời nào để bênh vực hay đối thoại với Đức Giêsu nữa. Ông bắt đầu tuyên án. Hai tên trộm cướp đã bị kết án tử hình thập giá, nhưng các Thượng Tế yêu cầu dời ngày hành quyết chúng đến hôm nay vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ thêm nhục nhã khi bị treo trên thập giá giữa hai tên sát nhân. Các thập giá của hai tên này đã được đặt gần đó, do các phụ tá lý hình đưa đến. Thập giá của Đức Chúa chưa thấy ở đó, có lẽ vì án tử hình của Người chưa được công bố.
Đức Trinh Nữ, được đưa ra hơi xa một chút khi Philatô trình diện Đức Giêsu với người Do Thái và khi Người được đón chào bằng những tiếng gào thét khát máu, giờ đây, được các bà thánh thiện bao quanh, lại chen qua đám đông để có mặt khi nghe kết án Con / và cũng là Thiên Chúa của người. Đức Giêsu, ở giữa bọn lý hình với những lời chào đón nhạo cười nhục mạ của kẻ thù, đang đứng ở bậc thang trước mặt Philatô. Kèn thổi báo hiệu giữ im lặng, và bằng một giọng thịnh nộ hèn nhát Philatô đọc bản án tử hình.
Tôi thực sự bị áp đảo vì cảnh tượng tên độc ác lật lọng hèn hạ này; chiến thắng thô bạo của người Pharisiêu khát máu giờ đây đã thỏa mãn vì đã săn được Con Mồi; những đau khổ vô kể của Đấng Cứu Thế Cực Thánh; khổ não lo buồn khôn tả xiết của Mẹ Người và các bà đạo đức; cảnh người Do Thái điên cuồng háo hức lắng nghe; thái độ lạnh lùng, cao ngạo của đám lính; và những khải hiện của các hình thù ma quái, ghê rợn giữa đám Đông! Chao ôi! Tôi cảm thấy phải đứng đó thay cho Hôn Phu Yêu Quý của tôi thì bản án mới thực sự xứng đáng!
Trước hết Philatô nói vài lời dùng các danh hiệu khoa trương để gọi tên Hoàng Đế Clô-đi-út Ti-bê-ri-út. Sau đó ông đưa ra các buộc tội Đức Giêsu; đó là: một người xúi dân nổi loạn, một người phá rối trật tự và vi phạm luật Do Thái, người tự để mình được gọi là Con Thiên Chúa và Vua dân Do Thái, Người bị các Thượng Tế kết án tử hình, với sự đồng lòng của dân chúng muốn đóng đinh Người vào thập giá. Hơn thế nữa, Philatô, một quan tòa vô lý, đã từng công bố vài giờ trước đó là Đức Giêsu vô tội, giờ đây lại công bố rằng phán quyết của các Thượng Tế là chính đáng, và ông kết thúc bằng mấy lời sau đây: "Ta cũng kết án tên Giêsu người Nagiarét, Vua dân Do Thái, phải bị đóng đinh vào thập giá." Sau đó ông ra lệnh lý hình đem thập giá đến. Tôi cũng nhớ lờ mờ là ông ta cầm một cái cây gì đó trong ruột đầy chất xốp, bẻ ra và ném xuống chân Đức Giêsu.
Đức Mẹ là người đau khổ nhất khi nghe lời tuyên bố của Philatô. Mẹ như trong tình trạng hấp hối, vì giờ đây cái chết ghê sợ, tàn nhẫn, nhục nhã của Con Cực Thánh và yêu dấu của Mẹ đã chắc chắn rồi. Ông Gioan và các bà thánh thiện dìu Mẹ ra khỏi nơi đó để đám đông mù quáng khỏi phạm thêm tội khác nữa khi chế nhạo sự đau khổ của Thân Mẫu Đấng Cứu Chuộc họ. Nhưng Đức Maria không thể an nghỉ. Người ao ước đến kính viếng từng nơi đã in dấu vết đau khổ của Đức Giêsu. Các bà bạn trung kiên một lần nữa phải hộ tống người từ chỗ này đến chỗ nọ, vì Đức Maria muốn dâng lên Thiên Chúa những hy sinh huyền bí qua dòng nước mắt tuôn trào thương cảm ở bất cứ chỗ nào Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ vì tội lỗi của nhân loại, anh chị em của Người. Và vì vậy Thân Mẫu Đức Chúa, qua dòng nước mắt hiến dâng, đã làm chủ mọi nơi thánh thiện trên mặt đất để Giáo Hội có thể sùng kính trong tương lai, cũng như xưa ông Giacóp đặt hòn đá tưởng nhớ và xức dầu thánh hiến đá ấy để chứng kiến lời Thiên Chúa hứa với ông.
----------------------------
CHƯƠNG XXVII
ĐỨC GIÊSU VÁC THẬP GIÁ LÊN NÚI GÔN-GÔ-TA
Khi Philatô rời ngai tòa, một phần binh lính đi theo ông và xếp hàng trước dinh. Một toán khác vẫn ở gần những người bị kết án. Hai mươi tám người Pharisiêu có vũ trang, trong đó có sáu tên tử thù của Đức Giêsu từng tham dự việc bắt giữ Người ở núi Cây Dầu, cưỡi ngựa đến Diễn Đàn để hộ tống đám rước. Lý hình dẫn Đức Giêsu đi giữa. Một vài người nô lệ, kéo cây thập giá đi qua cổng phía Tây và ném ào xuống đất trước mặt Đức Giêsu. Hai cánh gỗ, nhẹ hơn và có mộng, được cột vào thân chính, to hơn và nặng hơn. Các miếng gỗ chèn, gỗ nhỏ để tựa chân và tấm bảng danh hiệu được mấy đứa bé vác theo. Bọn này đang học nghề cung thủ.
Ngay khi thập giá được vất xuống đất trước mặt Người, Đức Giêsu quỳ xuống, ôm lấy thập giá và hôn ba lần trong khi dịu dàng dâng lời cảm tạ Chúa Cha Trên Trời vì cuộc Cứu Độ nhân loại giờ đây bắt đầu. Các thày tư tế của dân ngoại có thói quen hôn bàn thờ mới dựng, và cũng tương tự như vậy, Đức Chúa ôm hôn thập giá, Bàn Thờ vĩnh cửu của Hy Lễ chuộc tội đẫm máu. Nhưng bọn cung thủ lôi Đức Giêsu đứng lên; và với khó khăn cũng như được giúp đỡ chút đỉnh (đó là loại giúp đỡ man rợ nhất) Người vác cái ách nặng nề lên vai phải và ôm chặt bằng tay phải. Tôi thấy các thiên thần vô hình đến giúp Người, nếu không thì Người không thể nào nhấc nổi thập giá từ dưới đất lên. Khi Người quỳ, thân mình Người còng xuống dưới sức nặng. Trong khi Đức Giêsu cầu nguyện, thì một số lý hình đặt lên lưng hai tên cướp thân ngang thập giá của chúng (chưa được đóng vào trụ chính), và dùng giây cột hai tay chúng vào đó. Các đòn ngang này không được thẳng, nhưng hơi cong. Lúc đóng đinh thì các đòn này được cột vào một đầu của trụ chính mà các trụ này được bọn nô lệ vác theo cùng với các dụng cụ khổ hình khác. Lính kỵ mã của Philatô giờ đây đã sẵn sàng khởi hành, và tiếng kèn vang lên. Ngay lúc đó, một tên Pharisiêu cưỡi ngựa đến gần Đức Giêsu lúc đó đang quỳ vì quá nặng, hắn la to lên: "Các bài diễn thuyết hay ho giờ đây đã chấm dứt! Mau lên đi, để chúng ta có thể trừ khử ngươi! Đứng lên! Đứng lên!" Chúng kéo Người đứng dậy, và sau đó trên vai Người là gánh nặng cây thập giá, trong đó có cả thập giá mà chúng ta phải vác theo chân Người, như Chân Lý Ngàn Đời của Người đã dạy. Và bấy giờ đám rước thần thánh vinh hiển Vua của các vua, vô cùng nhục nhã dưới đất, nhưng vô cùng vinh hiển trên Thiên Đàng, bắt đầu. Hai sợi giây được cột vào đuôi thập giá, và được hai tên lý hình nâng lên để thập giá khỏi bị lê trên mặt đất. Chung quanh Đức Giêsu, hơi xa một chút, có bốn lý hình cầm bốn sợi giây cột vào thắt lưng Đức Giêsu. Chiếc áo choàng của Người được cột vào cánh tay, và với gỗ thập giá trên vai, Đức Giêsu nhắc tôi nhớ đến cảnh Isaác cũng vác củi như thế lên núi để hiến tế chính mình. Toán lính kèn của Philatô ra hiệu khởi sự, vì chính Philatô muốn đi vào thành phố với biệt đội binh lính để ngăn chặn một cuộc nổi loạn có thể xảy ra. Ông ta đeo gươm cưỡi ngựa, có sĩ quan và kỵ binh bao quanh. Một toán khoảng ba trăm lính bộ binh đi theo, tất cả bọn này đều gốc gác vùng biên giới giữa Tây Ban Nha và Ý.
Dẫn đầu đám rước là tên lính kèn, cứ đến góc đường hắn lại thổi lên và công bố án hành quyết. Đi sau vài bước là một đám thanh niên và bọn người thô lỗ, đem theo nước uống, giây thừng, gỗ đệm, và một thùng dụng cụ đủ loại, trong khi một bọn khỏe hơn vác các cột, thang, và hai trụ thập giá của hai tên trộm cướp. Sau đó là một số Pharisiêu đi ngựa, theo sau là đứa bé đeo trước ngực tấm biển có hàng chữ Philatô viết để treo trên thập giá. Vương miện gai, không thể đội được khi vác thập giá nên được tháo khỏi đầu Đức Giêsu và đặt trên một cái sào, do đứa bé này mang trên vai. Đứa nhỏ này không quá xấu xa.
Tiếp đến là Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, lưng còng dưới sức nặng cây thập giá, thân xác thâm tím, tan nát vì đòn vọt, kiệt quệ và lảo đảo. Từ bữa Tiệc Ly tối hôm trước đến giờ, Người không ăn uống, không ngủ nghỉ, bị hành hạ liên tục tưởng đã chết, kiệt quệ vì mất máu, bị thương tích, nóng sốt, bị khát và đau khổ tâm can không thể diễn tả nổi. Lưng khòm, chân không giày dép và rướm máu. Tay phải Người ôm chặt khúc gỗ nặng nề trên vai, tay trái mệt mỏi nhấc chiếc áo thường xuyên cản bước chập choạng của Người. Cách xa một chút, bốn lý hình cầm giây cột vào đai lưng Người. Hai tên trước lôi Người đi trong khi hai tên sau thúc đẩy Người. Theo cách này, Người không biết bước vào đâu, và các sợi giây luôn cản trở việc Người nâng tấm áo. Tay Người trầy trụa và sưng vù vì các sợi giây cột quá chặt, mặt Người đầy máu và sưng lên. Tóc và râu Người xơ xác bê bết máu, sức nặng đè trên vai và các gông cùm lại ấn chiếc áo thô cứng vào các vết thương trên thân thể, và các sợi len lại bám chặt vào những vết thương rách toạc ra khi bị lột quần áo. Những lời chế nhạo và căm thù vang dội khắp nơi. Người trông thật tả tơi và khốn khổ không thể tả, dù đã sẵn lòng cam chịu. Môi Người luôn cầu nguyện, mắt Người như cầu khẩn, tha thứ và chịu đựng. Hai tên lý hình ở phía sau đang giữ đuôi thập giá lại gia tăng sự khó nhọc cho Đức Giêsu, vì khi thì chúng kéo căng ra, khi thì lại thả lỏng làm cho thập giá di động bên này bên kia. Đám rước có lính mang giáo đi kè hai bên.
Sau đó là hai tên cướp, mỗi tên do hai lý hình dẫn đi bằng các sợi giây cột vào đai lưng. Trên vai chúng là hai đòn ngang, hai tay bị cột vào đó. Chúng chỉ mặc quần cụt; phần trên thân thể là chiếc áo rộng không có tay, hở hai bên hông, và trên đầu là một vòng rơm. Chúng hơi say vì được cho uống rượu. Tuy nhiên, người trộm lành thì im lặng; nhưng tên trộm dữ thì thật là giận dữ và xấc láo, hắn chửi thề liên tục. Bọn lý hình da ngăm đen, lùn, mập mạp, tóc đen ngắn, quăn và rậm. Khuôn mặt chúng không phải là người Do Thái. Đó là những người lao động đào kinh rạch, và thuộc một giống nô lệ ở Ai Cập. Chúng mặc có mỗi chiếc quần ngắn như cái tạp dề, và trên ngực mặc một áo da cụt tay. Dù nói thế nào đi nữa thì trông chúng cũng thật là hung bạo. Sau hai tên trộm là một nửa số người Pharisiêu cưỡi ngựa đi sau cùng. Có lúc chúng cùng đi với nhau, có lúc đi thành một hàng dọc theo đám rước, để thúc giục và giữ trật tự. Trong đám người dẫn đầu mang các dụng cụ hành hình có một vài chú bé thuộc giai cấp thấp hèn trong xã hội Do Thái cũng tự ý gia nhập đám đông.
Xa xa là Philatô, với một tên lính kèn cưỡi ngựa dẫn đầu đám rước của ông. Philatô mặc quân phục, cưỡi ngựa đi giữa các sĩ quan, với một toán kỵ binh và ba trăm bộ binh theo sau. Đoàn tùy tùng của ông đi ngang qua Diễn Đàn, và sau đó rẽ xuống con phố lớn.
Đám rước chung quanh Đức Giêsu rẽ vào một con đường nhỏ, để không cản trở dòng người đến Đền Thờ, cũng như không gây trở ngại cho Philatô và đám tùy tùng của y.
Hầu hết dân chúng giải tán sau khi tuyên án, hoặc trở về nhà hoặc lên Đền Thờ. Họ còn một phần việc quan trọng phải làm vào buổi sáng, nên họ vội vã ra về để chuẩn bị giết chiên Vượt Qua. Tuy nhiên, đám người thơ thẩn còn lại rất đông. Đó là một đám ô hợp những khách lạ, nô lệ, lao công, con trai, con gái và đủ hạng người tục tĩu. Họ vội vã lao vào đường phố và các con hẻm để có thể nhìn thấy đám rước thê lương ấy. Bọn lính Rôma ở phía sau giữ không cho đám đông tăng thêm, vì vậy dân chúng phải băng qua các con hẻm vắng rồi lại đổ ra phía đầu đám rước. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều đến thẳng Gôn-gô-tha. Đường hẻm chật hẹp mà Đức Giêsu phải đi qua đầu tiên chỉ rộng khoảng hai bước chân, hôi thối vì đầy rác rưởi do các nhà hai bên hẻm đổ xuống. Đức Giêsu chịu rất nhiều khổ sở ở đây. Bọn lý hình buộc phải đến gần Người, và từ các cửa lớn nhỏ, bọn đầy tớ và nô lệ được thuê mướn để ném bùn và thức ăn thừa thãi vào Người. Những tên nhãi ranh độc địa đổ cả nước dơ dáy, đen đúa, hôi thối xuống đầu Người; phải, ngay cả các trẻ nhỏ cũng chạy ra khỏi nhà và được bọn vô lại thúc giục, chúng nhặt đá vừa ném xuống chân Người vừa chế nhạo sỉ vả. Đó là những gì các trẻ nhỏ đền đáp Đức Giêsu, Đấng đã từng tuyên bố rằng phải yêu thương, chúc phúc và an ủi chúng.
------------------------------
CHƯƠNG XXVIII
ĐỨC GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN THỨ I
Cuối con hẻm chật hẹp ấy, đường cong sang trái, rộng hơn nhưng dốc hơn. Bên dưới đường này là hệ thống dẫn nước từ núi Sion xuống. Tôi nghĩ hệ thống nước chạy dọc theo Diễn Đàn, là nơi có nắp che và chảy xuống hồ tắm chiên gần cổng chuồng chiên. Tôi có thể nghe được tiếng nước chảy róc rách trong các ống. Ngay tại đây con đường bắt đầu lên cao, có một chỗ trũng thường đầy bùn sau cơn mưa. Tại đó, cũng như nhiều chỗ khác trên đường phố ở Giêrusalem, người ta thường lấp đá cho tiện việc qua lại. Tội nghiệp Đức Giêsu, khi đến chỗ trũng với gánh nặng trên vai Người không thể tiến bước nổi. Bọn lý hình nhẫn tâm lôi kéo và thúc đẩy Người. Sau đó Người ngã sấp mặt xuống đường bên cạnh lớp đá nhọn, thập giá rơi xuống bên cạnh. Bọn lý hình chửi rủa, đấm đá và lôi Người lên khiến đám rước phải tạm ngừng giây lát và tiếng ồn ào nổi lên chung quanh Đức Giêsu. Người giơ tay lên hy vọng có ai giúp đỡ, nhưng thật vô ích. Người kêu lên: "Ôi! Sắp hoàn tất rồi!" và tiếp tục cầu nguyện. Bọn Pharisiêu hò hét: "Lên! Kéo nó đứng lên, nếu không thì nó sẽ chết trong tay chúng ta." Đây đó bên vệ đường một vài phụ nữ khóc thương Chúa, và các trẻ nhỏ cũng thút thít sợ hãi. Nhờ Ơn Trên giúp đỡ, Đức Giêsu ngẩng đầu lên, và các tên hung ác tồi tệ qủy quái, thay vì giúp Người bớt đau đớn, lại đội mão gai lên đầu Người. Sau cùng, với đủ loại hành hạ, chúng lôi Người lên, và đặt thập giá lên vai Người. Và giờ đây, Người khó nhọc nghiêng đầu sang một bên để có thể vác thập giá trên vai, vô cùng đau đớn vì mão gai quá lớn và gai đâm vào đầu. Cứ như thế Đức Giêsu lảo đảo lên dốc và xuống đường rộng với sự hành hạ càng gia tăng.
ĐỨC GIÊSU GẶP MẸ NGƯỜI - ĐỨC GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN THỨ II
Thân Mẫu Đức Giêsu, là người chia sẻ từng đau khổ với Con Mẹ, đã cùng với ông Gioan và các bà thánh thiện rời Diễn Đàn khoảng một giờ trước khi bản án bất công được tuyên bố để kính viếng những nơi đã được cuộc Khổ Nạn tàn bạo của Đức Giêsu thánh hóa. Nhưng giờ đây, khi đám đông di chuyển, tiếng kèn thổi vang, và đoàn kỵ binh cũng như binh lính của Philatô công bố bắt đầu Đường Thánh Giá đắng cay, thì Đức Maria không còn có thể ở xa được nữa. Người phải chứng kiến Con mình trong đau khổ, và Mẹ năn nỉ ông Gioan đưa người đến chỗ mà Đức Giêsu sẽ đi ngang qua. Vì vậy, các vị rời vùng kế cận Si-on, băng qua ngai tòa, vượt qua các cổng cũng như các con đường có mái che giờ đây rộng mở để dân chúng qua lại, đến phía Tây của một dinh thự có cổng vòm mở ra một con đường mà đám rước đã rẽ vào, sau khi Đức Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất. Dinh này trước đây là nơi cư ngụ của Caipha; nhà ở Si-on là dinh chính thức của ông ta. Nhờ sự thông cảm của người gác cổng, ông Gioan được ưu tiên đi vào và mở cổng đối diện. Tôi thật khiếp sợ khi nhìn thấy Đức Maria, khuôn mặt nhợt nhạt, mắt sưng đỏ vì khóc, trùm áo choàng xanh đậm từ đầu đến chân, run lẩy bẩy, đi vào nhà này với ông Gioan và các bà thánh thiện cùng với một người cháu của ông Giuse Arimathê. Họ đã nhận ra tiếng ồn ào náo nhiệt của đám đông đang tiến đến chỉ còn cách đó vài căn nhà, tiếng kèn và tiếng công bố ở các góc đường cho biết tử tội đang bị đưa đi hành quyết. Khi người đầy tớ mở cổng, tiếng ồn ào nghe rõ hơn và khủng khiếp hơn. Đức Maria vẫn cầu nguyện. Người nói với ông Gioan: "Mẹ đứng ở đây nhìn, hay mẹ phải đi chỗ khác? Ồi, Mẹ không biết phải làm sao để chịu đựng nổi?" Ông Gioan trả lời: "Nếu mẹ không đứng đây, thì mẹ sẽ luôn luôn hối hận." Hai vị liền bước ra ngoài cổng và nhìn về cuối đường, ở đó thấp hơn chỗ này. Lúc đó, đám rước cách chỗ hai vị đang đứng chừng tám mươi bước. Đi đầu đám rước không có người dân nào, mặc dù họ vẫn theo sau hoặc đi bên cạnh. Nhiều người, như tôi đã nói, chạy qua các đường kế cận để đến những nơi có thể thấy rõ hơn.
Và giờ đây tiếp đến là những tên đầy tớ của bọn lý hình, vênh váo và xấc xược ôm các dụng cụ tra tấn trên tay mà mới nhìn thấy Đức Mẹ đã run rẩy, ứa lệ ngao ngán. Một trong những người đứng gần đó hỏi: "Bà này là ai mà trông đau khổ vậy?" Có người lên tiếng: "Bà ta là mẹ của người Galilê đó." Khi đám người đê tiện nghe vậy, thì chỉ trỏ, la ó và sỉ nhục Đức Mẹ; một trong những tên hung đồ hèn hạ, giật lấy cây đinh sẽ dùng để đóng đinh Đức Giêsu, chửi thề và giơ cao trước mặt người. Đôi tay run rẩy, Đức Maria nhìn Đức Giêsu trong đau đớn não nề, người phải dựa vào cây cột ở cổng mới đứng vững. Đức Maria xanh xao như một xác chết, đôi môi thâm tím. Những người Pharisiêu cưỡi ngựa tiến lên, theo sau là đứa bé cầm tấm biển nhỏ-và ôi chao! một vài bước sau đó là Con Thiên Chúa, Con của chính Đức Mẹ, Đấng Thánh, Đấng Cứu Độ! Lảo đảo, lưng còng, mão gai của Người ngả sang một bên vai vì thập giá nặng nề, Đức Giêsu loạng quạng bước đi. Các lý hình dùng giây lôi Người tới trước. Khuôn mặt Người nhợt nhạt, đầy thương tích, và máu me. Râu của Người lởm chởm bê bết máu. Từ đôi mắt trũng sâu đầy máu, qua chiếc mão gai xoắn xít rối bời, Người đưa mắt nhìn người Mẹ đau khổ của Người một cách ghê sợ, và lảo đảo dưới sức nặng của thập giá, một lần nữa đầu gối và đôi tay Người lại qụy xuống đất. Người Mẹ vô cùng sầu muộn, trong tình yêu và đau khổ mãnh liệt, không còn nhìn thấy lính tráng hay lý hình đâu nữa-mà chỉ thấy người Con yêu qúi, đang đau khổ vì bị hành hạ. Đôi tay run rẩy người bước vội qua khoảng đường giữa cổng và các lý hình đi trước, rồi chạy đến Đức Giêsu quỳ xuống ôm lấy Người. Tôi nghe, nhưng không rõ từ môi miệng hay trong thần khí, những tiếng: "Con ơi!" - "Mẹ ơi!"
Bọn lý hình sỉ nhục và chế nhạo. Một người trong bọn lên tiếng: "Bà kia, muốn gì đây? Nếu bà dậy dỗ nó tốt lành thì bây giờ nó đâu có ở trong tay chúng tôi." Tuy nhiên, tôi nhận thấy có vài người lính mủi lòng. Họ buộc Đức Maria phải rút lui nhưng không ai dám chạm đến người. Ông Gioan và các bà đưa Đức Maria ra chỗ khác, và như bị tê liệt đầu gối vì đau đớn, người gục xuống trên một tảng đá chống đỡ bức tường gần cổng. Lưng người quay về phía đám rước, tay người chạm vào cạnh của một viên đá góc. Viên đá này có gân xanh. Nơi đầu gối Đức Maria chạm vào tạo nên các vết lõm, và nơi tay người bám vào cũng còn in dấu. Những dấu ấy trông không rõ, nhưng giống như ta chạm vào một mặt phẳng tựa như cục bột, vì đá thì rất cứng. Tôi thấy đá ấy được lấy đi làm nhà thờ Công Giáo đầu tiên, nhà thờ gần Hồ Bétsaiđa dưới thời thánh Giacôbê Nhỏ làm giám mục. Như đã nói trước đây, nhiều lần tôi thấy những dấu vết tương tự trên đá vì sự đụng chạm của các vị thánh vào những dịp thật đặc biệt. Điều này cho thấy câu: "Đá sẽ mủi lòng" thật đúng. Đức Khôn Ngoan Đời Đời, trong sự thương xót của Người, không cần đến nghệ thuật in ấn để lưu lại cho hậu thế chứng tích của những việc lành thánh.
Khi lính tráng ở hai bên đám rước lấy giáo thúc giục, ông Gioan đưa Đức Mẹ qua cổng, và cổng được đóng lại.
Trong khi đó lý hình lại lôi Đức Chúa đứng dậy, đặt thập giá trên vai Người theo một thế khác. Hai cánh của thập giá lúc đầu được cột chặt vào trụ chính khi đó trở nên lỏng lẻo, và tuột ra rối bời trong đám giây. Giờ đây Đức Giêsu ôm lấy những cánh này, và kéo lê trụ chính lệch bệch trên mặt đất.
Thỉnh thoảng trong đám dân đen đi theo đám rước có tiếng cười chế nhạo, tôi thấy có một số phụ nữ trùm khăn khóc lóc đi đứng không vững.
ÔNG SIMON XI-RÊ-NÊ - ĐỨC GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN THỨ III
Sau khi đi được một quãng trên con đường lớn, đám rước đi qua một cái cổng bên trong khu cổ thành Giêrusalem. Trước cổng này là một khoảng đất rộng nơi gặp gỡ của ba con đường. Ở đó có một bậc đá lớn, Đức Giêsu trượt chân và ngã trên đó, thập giá rơi bên cạnh Người. Đức Giêsu nằm bẹp trên đất như dán người vào đá, không dậy nổi. Ngay lúc ấy, một đám người ăn mặc chỉnh tề đang trên đường đến Đền Thờ. Họ kêu lên thương cảm: "Chao ôi! Kẻ đáng thương này chết mất!" Đám người đê tiện trở nên bối rối vì họ không dám thúc Người đứng dậy. Người Pharisiêu dẫn đầu đám rước kêu lớn với đám lính: "Phải để cho nó sống đến đồi Canvê. Các anh phải tìm ai đó giúp hắn vác thập giá." Ngay lúc đó, từ giữa đường phố, ông Simon Xi-rê-nê xuất hiện. Ông là một người dân ngoại có ba đứa con trai theo sau. Ông kẹp dưới cánh tay một số cành cây nhỏ vì ông là thợ làm vườn, và đang làm việc trong khu vườn phía Đông thành phố. Hàng năm cứ vào dịp lễ, ông có thói quen cùng vợ con lên Giêrusalem để tỉa cây. Nhiều đám thợ khác cũng đến vì mục đích này. Vì đám người quá đông nên ông không thể thoát ra khỏi đó, và khi đám lính thấy ông là dân lao động vì bộ quần áo nghèo nàn, chúng liền túm lấy ông và đẩy ông đến giúp vác thập giá cho Đức Giêsu. Ông phản đối tỏ vẻ bất mãn, nhưng chúng áp lực buộc ông phải vác. Con ông khóc lóc inh ỏi, và một số phụ nữ quen biết ông bèn ra vỗ về chúng. Ông Simon phẫn nộ chán ghét công việc ông bị buộc phải làm. Đức Giêsu đáng thương trông thật kinh sợ, méo mó xấu xa, quần áo Người đầy bùn; nhưng Người khóc và ánh mắt của Người khiến ông Simon động lòng thương cảm. Ông đành giúp Người đứng dậy. Sau đó bọn lý hình cột một cánh thập giá vào trụ chính, quấn sợi giây qua và luồn dưới vai ông Simon. Ông bước thật sát sau Đức Giêsu, do đó nhẹ gánh cho Người. Chúng đội lại mão gai lên đầu Đức Giêsu, và sau cùng đám rước đau buồn lại tiếp tục hành trình.
Ông Simon là một người khỏe mạnh, trạc bốn mươi tuổi. Đầu trần, quần áo ngắn, vừa vặn; thắt lưng hông, chân quấn giây da và mang đôi dép mũi nhọn. Các con ông mặc áo dài có sọc mầu. Hai em có vẻ khá lớn. Chúng tên là Ru-phút và A-léc-săng-đơ; sau này gia nhập hàng ngũ các môn đệ. Em thứ ba ít tuổi hơn, và ít năm sau tôi thấy em đến sống với thánh Têphanô. Ông Simon chưa vác thập giá theo Chúa Giêsu được bao lâu, thì tâm hồn ông rung động nhờ hồng ân Chúa.
--------------------------
CHƯƠNG XXIX
BÀ VÊRÔNICA VÀ KHĂN CHE MẶT
Con đường Đức Giêsu đang đi bây giờ thì dài và hơi ngoằn ngoèo, có một vài đường nhỏ bên cạnh đổ vào đường đó. Từ mọi khu phố, những người ăn mặc có vẻ lịch sự đang tiến về Đền Thờ. Một số lùi lại khi thấy ĐứcGiêsu, vì cũng như phái Pharisiêu họ sợ bị nhiễm uế, một số khác trái lại mủi lòng thương cảm vì những đau khổ Người phải chịu. Khi ông Simon vác đỡ Đức Giêsu được khoảng hai trăm bước thì từ trong sân trước một căn nhà xinh đẹp có hàng rào thấp bao quanh nằm ở bên trái con đường, một cánh cửa mở ra và một phụ nữ dáng vẻ tao nhã oai phong xuất hiện tay dắt một bé gái tiến lên đầu đám rước. Bà là vợ ông Sirắc, một trong các nghị viên thuộc Đại Công Nghị của Đền Thơ.ø Tên bà là Xê-ra-phi-a, dám đương đầu với đám đông hỗn loạn như điên như dại. Vì hành động can đảm của bà mà người ta gọi bà là Vêrônica bởi hai chữ vero và icon (có nghĩa là chân dung đích thực).
Bà Xê-ra-phi-a đã chuẩn bị một ít rượu thơm đắt tiền với ý lành thánh dâng Đức Giêsu để giúp Người đỡ khát đôi chút trong cuộc hành trình đau thương này. Bà đã đứng chờ ngoài đường khá lâu, và sau cùng bà trở vào nhà chờ đợi. Khi tôi thoạt thấy bà thì bà trùm một tấm khăn dài, tay dắt một bé gái chừng 9 tuổi là con nuôi của bà, tay bên kia bà khoác một tấm khăn rộng khác trong đó bé gái cố dấu một bình rượu khi đám rước đến gần. Bọn người đi đầu cố đẩy bà ra, nhưng bà cứ len qua đám đông, qua mặt cả toán lính và bọn cung thủ, bà tiến lại gần Đức Giêsu, qùy xuống dưới chân Người, dâng tấm khăn lên đồng thời bà nói: "Xin Thày cho phép con được lau khuôn mặt Đức Chúa của con". Đức Giêsu đưa tay trái của Người ra đỡ lấy tấm khăn, tự lau mặt ướt đẫm máu, cảm ơn rồi trả lại cho bà. Bà hôn kính khăn và dấu dưới tà áo. Lúc ấy bé gái cũng rụt rè dâng rượu cho Người nhưng bọn lính hung bạo không cho phép Đức Giêsu uống. Hành động can đảm đột xuất này của bà Xê-ra-phi-a làm cả đám lính sửng sốt và cũng buộc đám rước phải ngưng lại ít lâu ngoài dự tính nên bà đã lợi dụng cơ hội để dâng khăn cho Đức Chúa của bà. Bọn Pharisiêu cưỡi ngựa, cũng như lý hình, nổi nóng vì sự trì trệ này nên càng tức giận hơn nữa khi thấy Đức Giêsu được công khai tôn kính như vậy. Do đó chúng báo thù Đức Giêsu bằng cách đánh đập và hành hạ Người thậm tệ hơn nữa. Trong khi đó thì bà Vêrônica cùng với đứa con vội vã trở về nhà.
Vừa trải tấm khăn len lên mặt bàn, bà liền qùy xuống gần như bất động. Đứa bé gái, tay còn ôm bình rượu, quỳ bên cạnh mẹ khóc thút thít. Ít lâu sau đó một người bạn của gia đình ghé thăm bà, thấy bà Xêraphia đang qùy như vậy và bé gái thổn thức bên cạnh mẹ. Rất đỗi ngạc nhiên, ông ta nhìn tấm khăn có in khuôn mặt đẫm máu của Đức Giêsu trên đó, giống hệt như khuôn mặt thật, mặc dù tâm hồn ông đang bị xé nát đau đớn khủng khiếp. Ông lay động cho bà Xê-ra-phi-a tỉnh lại và chỉ cho bà xem tấm khăn kỳ diệu. Một lần nữa bà lại qùy gối và kêu lên trong nước mắt: "Bây giờ tôi sẽ vui lòng từ bỏ hết mọi sự, vì Chúa tôi đã cho tôi một kỷ vật qúi báu để tưởng nhớ đến Ngài!"
Tấm khăn này dệt bằng len rất mịn, chiều dài gấp ba chiều rộng và thường được dùng để khoác trên vai. Thời bấy giờ người ta có thói quen đưa những khăn này cho những kẻ đau khổ, hoặc kiệt sức, hoặc bệnh tật, để họ có thể lau mặt. Đó là dấu hiệu tỏ lòng thông cảm và thương xót. Bà Xê-ra-phi-a giữ tấm khăn này cho đến chết và treo trên đầu giường mình. Sau đó thì khăn được trao tặng Đức Mẹ, và Mẹ trao lại cho các thánh Tông Đồ, sau đó các ngài trao khăn này lại cho Giáo Hội.
Xê-ra-phi-a và Gioan Tẩy giả là hai anh em họ con chú bác, vì cha của bà và ông Da-ca-ri-a là hai anh em ruột. Khi ông Gioakim và bà Anna dâng Đức Maria (lúc ấy Đức Maria mới lên 4 tuổi) vào Đền Thờ Giêrusalem cùng các trinh nữ khác, thì hai vị trọ tại nhà ông Dacaria tọa lạc gần chợ cá. Xê-ra-phi-a hơn Đức Maria ít nhất 5 tuổi. Bà có mặt trong đám cưới của Đức Trinh Nữ với thánh Giuse. Bà cũng có họ với cụ già tiên tri Xi-mê-on khi cụ ôm Chúa Giêsu trong lòng và tiên đoán về Người. Bà Xê-ra-phi-a được nuôi dưỡng cùng với con cái ông Ximêon nên cũng có lòng khát khao trông chờ Đấng Cứu Thế. Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi và còn ở lại Đền Thờ để giảng dạy, thì lúc đó Xê-ra-phi-a chưa lập gia đình, đã gửi thức ăn đến một quán trọ nhỏ nơi Đức Giêsu tạm trú khi Người không ở trong Đền Thờ. Nhà trọ này cách Giêrusalem chừng 400 mét. Khi Đức Mẹ đem Hài Nhi Giêsu từ Bét-lê-hem lên Giêrusalem để dâng vào đền thánh thì cũng có trọ ở đây hai ngày. Hai ông già trông nom quán trọ thuộc phái Et-sê-nê và quen thân với Thánh Gia; quán này có một tổ chức chuyên giúp người nghèo. Đức Giêsu và các môn đệ đã từng đến đó nghỉ qua đêm.
Bà Xê-ra-phi-a lập gia đình trễ hơn lệ thường. Chồng bà là ông Xi-rắc, hậu duệ bà Xu-da-na trinh khiết và là một thành viên của Đại Công Nghị. Ông Xi-rắc lúc đầu rất chống đối Đức Chúa, và vợ ông vì kính trọng và rất qúi mến Đức Giêsu và các thánh nữ nên đã phải chịu nhiều đắng cay vì ông. Nhưng sau này hai ông Giuse A-ri-ma-thê-a và Ni-cô-đê-mô đã thuyết phục được ông thay đổi thái độ nên ông để cho vợ ông được tự do làm môn đệ Chúa. Khi Đức Giêsu bị tố cáo bất công trước tòa án Cai-pha thì chồng bà Xê-ra-phi-a cùng hai ông Giuse và Ni-cô-đê-mô đã cố gắng tìm cách giải thoát cho Người, và cả ba đã từ bỏ địa vị của họ trong Đại Công Nghị.
Khi Chúa Giêsu vinh quang vào thành Giêrusalem ngày Chúa Nhật Lễ Lá thì bà Xê-ra-phi-a chừng 50 tuổi. Lúc đó tôi thấy bà lấy cái khăn khóac trên vai và trải xuống đường cho Chúa bước qua. Bà cũng đã dâng chính cái khăn ấy cho Đức Chúa trong một đám rước thứ hai mà bề ngoài không có gì là vinh quang nhưng thật ra thì vinh hiển hơn bội phần. Vì tấm khăn này mà bà có tên là Vêrônica và nay khăn vẫn còn được trưng bày để tín hữu đến tôn kính.
PHỤ NỮ THÀNH GIÊRUSALEM KHÓC THƯƠNG CHÚA
ĐỨC GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN THỨ TƯ VÀ THỨ NĂM
Đám rước phải đi một quãng xa trước khi đến cổng thành, và đoạn đường ấy hơi dốc. Cổng này xây kiên cố và cao. Muốn đến cổng, trước hết phải đi qua một cái vòm, rồi vượt một cái cầu, và sau đó là một cái vòm nữa. Cổng mở về hướng Tây Nam. Bên phải cổng, tường thành kéo dài lên phía Bắc, sau đó quay sang hướng Đông dọc theo mạn Bắc của Giêrusalem.
Khi đám rước đến gần cổng, bọn cung thủ thúc giục một cách thô bạo hơn nữa. Gần cổng có một vũng sình trên con đường gồ ghề, bị xe cộ cắt nát. Bọn cung thủ man rợ kéo giật Đức Giêsu tới trước; đám Đông chen lấn. Ông Simon Xirênê bước sang một bên để cố tránh bùn, do đó thập giá xoắn một vòng rời khỏi vai, và dưới sức nặng của thập giá Đức Giêsu đáng thương chúi ngã xuống đất lần thứ tư đúng vào vũng bùn khiến ông Simon không tài nào đỡ nổi. Sau đó, giọng nói hổn hển ngắt quãng nhưng rõ ràng, Đức Giêsu nói lớn: " Giêrusalem hỡi, khốn cho ngươi! Đã bao lần ta muốn quy tụ con cái ngươi như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, nhưng ngươi không chịu." Đức Chúa khổ sở than vãn. Bọn Pharisiêu quay sang Người và chế nhạo: "Tên phá rối an ninh vẫn chưa cho là đủ nên vẫn còn thốt ra những lời vô nghĩa chẳng ai hiểu nổi," v.v. Rồi chúng đánh đập xô đẩy Người, nâng Người đứng dậy và kéo ra khỏi vũng sình lầy. Trong khi đó, ông Simon Xirênê bực bội vì sự man rợ của bọn cung thủ, nói lớn: "Nếu các người không chấm dứt những hành vi độc ác này, thì ta sẽ quăng thập giá này xuống không vác tiếp nữa dù các người có giết ta!"
Ngay ngoài cổng, con đường tách ra hai ngả, một bên là đường lộ và bên kia là một con đường đá, gồ ghề hướng lên phía Bắc về núi Canvê. Xa hơn chút nữa con đường chia thành ba nhánh: một ngả rẽ tay trái hướng về Tây Nam qua thung lũng Gihon về Bêlem; một ngả đi về hướng Tây đến Emmau và Gióppa; và rẽ tay phải, là lối đi về phía Tây Bắc vòng qua núi Canvê đến góc cổng dẫn đến Bétsua. Đức Giêsu bị dẫn qua cổng này, nơi người ta có thể thấy cổng Bêlem về phía Tây Nam và bên trái. Hai cổng này của Giêrusalem nằm gần nhau.
Giữa con lộ đối diện với cổng thành là đường lên núi Canvê, có một cây cột trên đó có treo bản án của Đấng Cứu Thế và của hai tên trộm. Không xa chỗ này, ở góc đường, một số Đông phụ nữ đứng than khóc. Một số trông còn trẻ, một số khác là dân nghèo, họ chạy ra ngoài thành Giêrusalem để gặp đám rước. Một số khác từ Bêlem, Hêbron, và các vùng kế cận đến dự lễ cũng đứng đây với phụ nữ thành Giêrusalem.
Đức Giêsu lại sắp té xỉu. Nhưng Người không ngã xuống đất, vì ông Simon cảm thấy thế, đã dựa một đầu thập giá xuống đất và lại gần đỡ lấy tấm thân èo uột của Đức Giêsu. Đức Chúa dựa vào thân ông. Đây là lần thứ năm Đức Giêsu ngã xuống khi vác thập giá. Khi thấy Người quá khốn khổ, các phụ nữ lớn tiếng than khóc và, để tỏ lòng thương cảm theo truyền thống Do Thái, họ đưa khăn tay để Người lau mồ hôi. Vào lúc ấy Đức Giêsu hướng về họ và nói: "Hỡi con cái thành Giêrusalem" (cũng có nghĩa là dân chúng từ các thành phố khác nữa), "đừng than khóc cho ta làm chi, hãy than khóc cho chính các bà và con cái các bà. Vì này đây, sẽ đến ngày mà người ta nói: "Phúc cho người hiếm muộn và lòng dạ không sinh nở, và đôi vú không cho con bú!' Và người ta sẽ nói với núi non: 'Hãy đổ xuống đầu chúng tôi!' và với đồi cao: 'Hãy phủ lấp chúng tôi!' Vì nếu cây xanh tươi mà chúng còn đối xử như vậy thì cây khô héo sẽ bị đối xử ra sao?" Sau đó Đức Giêsu nói một vài lời an ủi với các phụ nữ này nhưng tôi không nhớ đích xác những lời nào. Tuy nhiên, trong các lời ấy, tôi còn nhớ những câu này: "Nước mắt các bà sẽ được đền đáp. Từ giờ trở đi, các bà sẽ đi lối khác" v.v.
Đến đây, đám rước dừng chân đôi chút. Bọn lý hình mang dụng cụ hành hình đi trước đến núi Canvê, theo sau là một trăm tên lính Rôma tách khỏi đội ngũ của Philatô. Chính ông ta ở cách xa, đi theo đám rước cho tới cổng, nhưng đến đó thì ông quay trở về thành phố.
-----------------------------
CHƯƠNG XXX
ĐỨC GIÊSU TRÊN ĐỒI GÔNGOTHA
ĐỨC GIÊSU NGÃ LẦN THỨ SÁU VÀ THỨ BẢY
Đám rước lại di chuyển. Với những đấm đá và kéo giây cột vào Người một cách hung bạo, Đức Giêsu phải đi lên một con đường gồ ghề rất dốc giữa tường thành và núi Canvê về phía Bắc. Tại chỗ đường ngoằn ngoèo lên dốc rẽ về hướng Nam, Đức Giêsu đáng thương lại ngã lần thứ sáu. Nhưng kẻ thù của Chúa đánh đập và man rợ lôi Người đi cho đến khi tới đỉnh tảng đá, nơi hành hình, và với thập giá nặng nề Người lại gieo mình xuống đất lần thứ bảy.
Ông Simon Xirênê cảm thấy phẫn uất và thương cảm. Bất chấp mệt nhọc ông còn muốn ở lại để giúp Đức Giêsu tội nghiệp, nhưng bọn lý hình sỉ nhục và đuổi ông đi xuống. Sau đó không lâu, ông gia nhập vào nhóm các môn đệ của Chúa. Mấy tên lý hình sau đó ra lệnh cho bọn lao công và mấy đứa bé đã đem dụng cụ hành hình theo chúng lên tới đó ra về. Còn đám Pharisiêu cưỡi ngựa cũng kéo đến bằng con đường bằng phẳng và dễ đi hơn ở phía Đông núi Canvê. Từ trên đỉnh này có thể nhìn rõ cả thành phố.
Nơi hành hình trên đỉnh núi bằng phẳng hình tròn rộng chừng bằng một trường tập cưỡi ngựa, có một bức tường đất thấp bao quanh với năm lối vào riêng biệt. Con số năm lối vào này có vẻ là lối kiến trúc thông thường của miền này, bởi vì có năm lối vào các hồ tắm, nơi họ thanh tẩy, ở hồ Bétsaiđa, và nhiều thành phố khác cũng có năm cổng vào. Kiểu xây cất này và nhiều cái đặc biệt khác tại Đất Thánh có một ý nghĩa sâu xa đầy tính ngôn sứ. Con số 5 mà ta thường gặp nhiều nơi điển hình cho 5 Thương Tích (Dấu) Thánh của Đấng Cứu Độ mở rộng cửa Thiên Đàng cho chúng ta vào.
Bọn cưỡi ngựa ngưng ở phía Tây ngọn đồi không đến nỗi quá dốc; còn con đường mà các can phạm phải đi lên thì dốc và gồ ghề hơn nhiều. Khoảng một trăm lính Rôma đến trấn đóng tại nhiều chỗ khác nhau trên núi, và vì đỉnh đồi không đủ chỗ nên hai tên trộm được lệnh dừng lại trước khi tới đó và buộc phải nằm xuống đất tay cột chặt vào thậo giá của chúng và có một số đứng gác hai tên này. Vì chật chội nên hai tên trộm không được đưa lên đỉnh cùng một lúc, nhưng được đặt nằm trên mặt đất, hai tay bị cột vào đòn ngang, cách xa chỗ hành hình một chút. Nhiều đám đông, hầu hết là thường dân không sợ bị nhiễm uế, đa số thuộc gia cấp bần cùng, cùng với nhiều khách lạ, đầy tớ, nô lệ, dân ngoại, và một số phụ nữ đứng chung quanh khu vực hành hình. Một số khác đứng trên các gò cao kế cận và luôn có những người đang trên đường vào thành phố nhập bọn. Đến chiều tối các khách dự lễ Vượt Qua đóng trại trên núi Gihôn, nhiều người nhìn về quang cảnh trên núi Canvê, và có lúc họ đến gần để thấy rõ hơn.
Vào khoảng mười hai giờ kém mười lăm thì Đức Giêsu, với thập giá nặng nề, bị kéo đến chỗ hành hình, bị xô ngã xuống đất, và ông Simon bị đuổi đi. Sau đó chúng cầm giây lôi Đức Giêsu dậy, tháo các đòn ngang của thập giá ra và ráp thành hình thích hợp. Ôi chao! Thật buồn thảm và đáng thương là chừng nào, thật khủng khiếp biết bao khi thấy khuôn mặt bết máu, xanh xao, rách nát tơi bời đáng sợ của Đức Giêsu khi đứng tại nơi tử đạo! Các lý hình lại chế nhạo xô Người ngã xuống đất và nói: "Tâu đức vua quyền năng tối thượng, các hạ thần đang chuẩn bị ngai vàng cho ngài đây này!" Đức Giêsu tự ý nằm trên thập giá. Sau đó chúng căng Người ra đo đạc và đánh dấu trên thập giá những chỗ đóng đinh ở chân tay. Người Pharisiêu đứng chung quanh không những không thương tiếc mà còn chế nhạo và sỉ nhục Người thậm tệ. Bấy giờ bọn lý hình lôi Đức Giêsu đứng dậy và dẫn Người, vẫn bị trói, đến một hang cách đó chừng bảy mươi bước về phía Bắc. Dường như chỗ này trước kia là hầm chứa rượu. Mở cổng ra, chúng ấn Người chui qua và xô Người một cách tàn nhẫn đến độ, nếu không có các thiên thần nâng đỡ thì chân Người đã gãy nát trên nền đá cứng. Tôi nghe rất rõ tiếng Chúa rên xiết đau đớn nhưng chúng đóng xập cửa lại và đặt lính canh trước cửa hang trong khi bọn cung thủ tiếp tục chuẩn bị đóng đanh.
Chính giữa nơi hành hình, điểm cao nhất của núi Canvê là một mô đất tròn, cao khoảng bốn gang tay, lên đó cần phải leo chừng hai hay ba bậc. Sau khi đo đạc đoạn dưới của từng cây thập giá, bọn lý hình đào lỗ trên khoảng đất đó. Các lỗ thập giá của hai tên trộm thì ở bên trái và phải của mô đất. Trục các thập giá này thì sần sùi và ngắn hơn thập giá của Đức Giêsu, và được cưa xéo ở đầu cuối. Các đòn ngang mà tay chúng vẫn còn bị cột chặt vào đó, giờ đây được gắn vào đầu trên của thập giá. Kế đó, các lý hình đặt thập giá của Đức Giêsu vào chỗ họ định đóng đinh Người, để tiện nâng lên và dựng vào lỗ đã đào sẵn. Chúng lắp hai đòn ngang vào các mộng đã đục sẵn ở hai bên trục chính, đóng miếng gỗ tựa chân, khoan lỗ đinh và lỗ treo tấm bảng của Philatô viết, đóng gỗ đệm vào các mộng, rồi đục các chỗ lõm đây đó dọc theo thập giá. Các chỗ lõm này với dụng ý để tiếp nhận mão gai và lưng của Đức Giêsu, như thế thân thể của Người có thể đứng thay vì bị treo, nhờ đó tay Người không bị xé rách vì sức nặng của thân thể và sẽ chết chậm hơn dụng ý để kéo dài nỗi đau đớn cho Người. Trong khoảng đất phía sau thập giá, chúng chôn một cái cột với đà ngang cùng giây nhợ để làm điểm tựa nâng thập giá lên. Chúng còn thực hiện một số chuẩn bị tương tự.
ĐỨC MARIA VÀ CÁC THÁNH NỮ ĐẾN GÔNGÔTHA
Sau cuộc gặp gỡ đau khổ với Con Thiên Chúa đang vác thập giá trước dinh Caipha, Đức Maria đau buồn được ông Gioan và các thánh nữ dẫn đến nhà ông La-da-rô trong vùng tiếp giáp với cổng ở góc thành. Ở đây, các bà đạo đức, trong nước mắt và than van, quy tụ chung quanh bà Mađalêna và bà Máttha. Có một số trẻ em ở với họ. Giờ đây tất cả mười bảy người cùng đi với Đức Trinh Nữ, bất kể những nhạo báng của đám đông đê tiện, họ nghiêm trọng và cương quyết đi ngang qua Diễn Đàn, nơi họ hôn kính chỗ Đức Giêsu vác thập giá. Từ đó họ đi theo cả đoạn đường khổ nạn của Người và hôn kính những nơi đặc biệt có in các dấu vết đau khổ. Đức Trinh Nữ nhìn thấy và nhận ra các dấu chân Con của Mẹ, người đếm các bước chân ấy, và chỉ cho các bà thánh thiện thấy những nơi được sự đau khổ của Người thánh hóa, và cứ thế, các bà dừng chân rồi lại tiếp tục trên con Đường Thập Giá mà mọi chi tiết đều in sâu vào linh hồn Đức Maria.
Theo phương cách này, việc sùng kính (đàng thánh giá) cảm động của Giáo Hội tiên khởi đã được viết trước hết vào lòng Mẹ Maria bằng lưỡi gươm tiên tri của ông Simêon, phát xuất từ miệng người đến các bạn hữu, và từ đó truyền lại cho chúng ta. Đó là món quà thiêng liêng của Thiên Chúa từ tâm hồn Đức Maria truyền lại cho tâm hồn các con cháu. Bởi đó truyền thống của Giáo Hội được quảng bá. Nếu người ta có thể thấy như tôi thấy, thì họ sẽ nhận biết các món qùa đó đầy tràn sức sống và thánh thiện hơn bất cứ gì khác. Đối với người Do Thái được ân sủng Chúa hoán cải thì tất cả những nơi xảy ra các biến cố thánh, các biến cố thân thương với tâm hồn, từ đó trở đi đã trở nên linh thiêng. Họ không quên những chỗ đáng nhớ. Họ dựng những tấm bia kỷ niệm và đến đó cầu nguyện. Việc phát sinh lòng sùng kính Đàng Thánh Giá, không phải sau này mới có, nhưng từ bản chất của chính loài người và các hoạch định của Thiên Chúa cho dân của Người, và từ tình mẫu tử đích thực, có thể nói Đức Mẹ là người đầu tiên đi theo con đường chính đôi chân Đức Giêsu đã đi.
Các bà thánh thiện giờ đây phải ghé vào nhà bà Vêrônica, vì Philatô với đám kỵ binh và hai trăm lính La-mã đang trở về ngay trên con phố ấy. Ở đây, trong nước mắt và than van, các bà thánh thiện ngắm nhìn khuôn mặt Đức Giêsu trên tấm khăn của bà Vêrônica, và họ tôn vinh lòng nhân hậu Chúa đã tỏ lộ cho bạn hữu của Người. Họ lấy bình rượu thơm mà bà Vêrônica không được phép đưa cho Đức Giêsu uống, rồi ra cổng gần đó để đến Gôngôtha. Trên đường đi lại có thêm nhiều người thiện cảm cả nam lẫn nữ nhập bọn với các bà nên con số tăng lên và họ theo ngả phía Tây để lên Gôngôtha vì ngả này không dốc lắm. Đám đông này còn nhiều hơn đám rước theo Đức Giêsu, kể cả đám đê tiện chạy theo sau.
Những đau khổ của người Mẹ Sầu Bi trên hành trình này, khi nhìn thấy nơi hành hình và đoạn đường đi lên đó thì không thể diễn tả nổi. Người đau khổ gấp đôi: những đau khổ của Đức Giêsu mà người gánh chịu bên trong tâm hồn cùng với cảm giác bị bỏ rơi. Bà Mađalêna tuyệt đối quẫn trí, như say và quay cuồng vì đau khổ, bà liên tục cảm nghiệm hết thống khổ này đến thống khổ khác. Từ im lặng hồi lâu đến than van, từ bơ phờ đến vò đầu bứt tóc, từ rên rỉ đến than trách, bà được thường xuyên nâng đỡ, bảo vệ, và được bạn bè nhắc nhở nên giữ im lặng, và còn được các phụ nữ đạo đức khác quây quần che lấp bớt trước cái nhìn của đám đông.
Họ lên tới đồi và đứng thành ba nhóm, theo thứ tự trước sau, bên ngoài bức tường vòng cung. Mẹ Thánh Đức Giêsu cùng đứng với cô cháu gái là Maria con bà Clê-ô-pha, bà Salômê, và ông Gioan đứng gần với vòng cung. Bà Máttha, bà Maria Hêli, bà Vêrônica, bà Gioanna Chusa, bà Susanna, và bà Maria Máccô đứng lùi phía sau một chút chung quanh bà Mađalêna đang khổ sở rũ rượi. Lùi xa hơn nữa là bảy người khác, và giữa các nhóm này là những người thiện cảm tình nguyện đưa tin từ nhóm này đến nhóm khác. Người Pharisiêu cưỡi ngựa đi lại giữa đám đông, và lính Rôma đứng gác ở 5 lối ra vào chung quanh vòng tròn.
Ôi cảnh tượng u sầu biết bao cho Đức Maria! Mẹ không ngừng gắn đôi mắt nhìn vào chỗ định mệnh và đứng như người xuất thần. Quả thật đây là chỗ được chọn kỹ nhằm mục đích xé nát tâm can một người Mẹ! Này là nơi hành hình, đây là đồi đóng đinh, kia là thập giá rùng rợn nằm trước mặt người với những giây nhợ, mũi đinh quái ác! Và chung quanh là bọn lý hình say rượu, hung dữ, vừa chửi thề vừa chuẩn bị! Thập giá của hai tên trộm đã được dựng lên, và để giữ cho thẳng, người ta chèn đá vào lỗ chôn cột. Sự vắng mặt của Đức Giêsu lại tăng thêm nỗi đọa đầy của Đức Mẹ. Mẹ biết là Người vẫn còn sống, Mẹ muốn thấy Người, và Mẹ rùng mình khi nghĩ đến lúc phải ôm Người bất động trên tay trong đau khổ không thể tả.
THỜI TIẾT
Mười giờ sáng hôm ấy, khi bản án được công bố, đã có nhiều cơn mưa đá nhỏ. Khi Đức Giêsu đến đồi Canvê, trời quang đãng và mặt trời ló dạng, nhưng đến mười hai giờ thì mặt trời lại bị che khuất sau đám sương mù dầy đặc màu đỏ rùng rợn.
ĐỨC GIÊSU BỊ LỘT QUẦN ÁO ĐỂ ĐÓNG ĐINH VÀ UỐNG DẤM
Bấy giờ bốn tên cung thủ đi đến hang giam giữ, cách đó bảy mươi bước về hướng Bắc, và với tính tàn bạo cố hữu chúng lôi Đức Giêsu ra. Người cầu xin Thiên Chúa thêm sức mạnh và một lần nữa lại hiến mình để đền bù tội lỗi của kẻ thù. Chúng đấm đá và sỉ nhục lôi Người đi vào những phút cuối cùng của cuộc Khổ Nạn. Dân chúng trố mắt nhìn nhạo báng; bọn lính, lạnh lùng và nghiêm nghị, lo giữ trật tự; bọn lý hình giận dữ chụp lấy Người từ tay các lính canh và hung bạo lôi Người vào bên trong vòng cung.
Các bà thánh thiện đưa tiền cho một người đàn ông đem bình rượu thơm đến cho bọn lý hình và nài nỉ chúng cho phép Đức Giêsu uống. Bọn ác độc thay vì đưa bình rượu cho Đức Giêsu thì chúng lại cầm lên tu ừng ực. Gần đó có hai cái hũ mầu nâu. Một hũ đựng giấm và mật đắng, và hũ kia đựng một loại men giấm. Có thể đó là một loại rượu được trộn với cây ngải đắng và trầm. Loại sau này được chúng đựng trong chén mầu nâu và đưa lên môi Đức Chúa trong khi Người vẫn bị cùm. Người nếm thử nhưng không uống. Trong vòng cung có mười tám tên lý hình: sáu tên tra tấn, bốn tên dẫn Đức Giêsu, hai tên cầm giây, và sáu tên đóng đinh. Một số bận rộn với Đức Giêsu, số khác bận bịu với hai tên trộm, chúng vừa làm việc vừa uống rượu. Bọn chúng vạm vỡ, lùn, trông rất dơ dáy, hung dữ và thô bạo. Diện mạo cho thấy chúng là người xa lạ; tóc tai rậm rạp, râu ria thưa thớt. Chúng phục vụ người Rôma và Do Thái để kiếm tiền.
Tất cả những cảnh tượng này lại hiện ra trước mắt tôi khủng khiếp hơn nữa, vì tôi được thấy những gì người khác không thấy, có thể nói là tôi nhìn thấy tên quỷ sứ đúng như hình dạng của nó. Tôi cũng thấy những tên quỷ gớm guốc làm việc giữa bọn người hung ác, chứng đưa cho họ những gì cần, rỉ tai đề nghị, và giúp đỡ họ đủ mọi cách. Ngoài những tên quỷ này, tôi còn thấy vô số cóc, rắn, rồng có móng vuốt, và côn trùng độc hại, chúng bò vào miệng một số người, lao vào ngực một số khác, và ngồi trên vai một số khác nữa. Chúng đến với những ai chiều theo sự xúi giục của ma quỷ để có những tư tưởng xấu xa độc ác, hay thốt ra lời lẽ chế nhạo và nguyền rủa. Nhưng bên trên Đức Chúa, khi chịu đóng đinh, tôi thường thấy các thiên thần khóc lóc và trong hào quang vinh hiển này có cả các khuôn mặt thiên thần nhỏ bé. Tôi cũng thấy các thiên thần thương cảm và an ủi tương tự như vậy bay lượn bên trên Đức Trinh Nữ và những người có lòng với Đức Giêsu, để kiên cường giúp đỡ họ.
Bấy giờ bọn lý hình xé tấm áo choàng của Đức Chúa đang quấn trên vai. Sau đó chúng tháo gông đóng quanh bụng cũng như đai lưng của Người, và lôi tấm áo trắng mịn qua khỏi đầu Người. Khi chúng muốn lấy tấm áo nâu một mảnh mà Đức Trinh Nữ đã đan cho Người, chúng không thể kéo qua khỏi đầu vì mão gai quá lớn. Do đó một lần nữa chúng lại lột mão gai khỏi đầu Người, khiến các vết thương lại toé máu, rồi vén tấm áo lên, vừa nguyền rủa vừa sỉ nhục chúng lột áo qua đầu đầy thương tích và máu của Người.
Con Người đứng như thế đó, run rẩy từng đốt xương, đầy máu và vết roi; đầy thương tích, một số đã khô một số còn rỉ máu; đầy sẹo và thâm tím! Người vẫn còn tấm áo choàng bằng len hai mảnh trước sau, và chiếc quần ngắn. Các sợi len làm thương tích mau khô và dính với máu thành một vết thương mới và sâu tạo bởi sức nặng của thập giá trên vai. Vết thương này khiến Đức Giêsu đau đớn không thể tả. Chiếc áo nâu giờ đây bị xé một cách tàn nhẫn khỏi phần ngực rách nát và sưng vù. Vai và lưng của Người lòi cả xương, sợi len dính vào các vẩy vết thương và máu khô ở trên ngực. Sau cùng, chúng xé toạc chiếc quần ngắn và Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ dịu dàng của chúng ta, Đấng Cứu Độ bị hành hạ không thể tả của chúng ta, cong người xuống như để che giấu chính mình. Khi Người gần như bất tỉnh, chúng để Người ngồi xuống một hòn đá bên cạnh, lại lấy mão gai ấn lên đầu Người, và đưa Người uống dấm hòa với mật đắng. Nhưng Đức Giêsu quay đầu sang chỗ khác, im lặng. Và giờ đây, khi bọn lý hình nắm cánh tay Người và nhấc bổng lên để ném Người xuống thập giá, thì một tiếng kêu căm phẫn, những xì xào và than khóc vang lên từ các bạn hữu của Người. Đức Mẹ tha thiết cầu nguyện, và khi đến lúc Mẹ muốn xé tấm khăn che mặt để đưa cho Người che đậy phần thân phía dưới, thì Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin. Đúng lúc ấy, từ cổng thành một người chạy băng qua đám Đông đứng chắn lối, vội vã đến hụt hơi, đi vào vòng cung giữa bọn lý hình và đưa cho Đức Giêsu một mảnh vải và Người cầm lấy, cám ơn rồi quấn quanh mình.
Hành động mạnh bạo của vị ân nhân này có một uy quyền, do Thiên Chúa ban cho qua lời cầu xin của Đức Trinh Nữ. Vẫy tay như ra lệnh cho bọn lý hình, ông chỉ nói vài lời sau: "Phải để Người đáng thương này có chút gì che thân chứ!" và, không nói gì thêm với bất cứ ai, ông đột ngột ra đi cũng như lúc đến. Đó là ông Giônađáp, cháu của Thánh Giuse, từ vùng Bêlem lên. Ông là con của em thánh Giuse mà sau khi Đức Giêsu giáng sinh, Thánh Giuse đã đưa cho người em này một con bò để cầm thế vì không cần đến nữa. Ông Giônađáp không phải là người can trường theo Đức Giêsu, và hôm nay ông cứ ở xa xa và dò xét đây đó. Khi nghe Đức Giêsu bị lột quần áo đánh đòn, ông đã cảm thấy xót xa; và khi sắp đến lúc đóng đinh, ông ở trong Đền Thờ vì lo lắng khác thường. Trong khi Đức Mẹ van nài với Thiên Chúa trên đồi Gôngôtha, thì một động lực đột ngột và không thể cưỡng lại chiếm ngự ông Giônađáp, lôi ông ra khỏi Đền Thờ, lên núi Canvê. Linh hồn ông cảm thấy phẫn nộ trước sự bần tiện của ông Cham, người đã chế nhạo ông Nôe là cha mình khi ông say rượu và ở truồng, và cũng như ông Sem, ông Giônađáp đã vội vã đến che đậy cho Đấng Cứu Thế. Bọn lý hình đóng đinh Đức Giêsu là hậu duệ của ông Cham. Đức Giêsu đang chế tạo một loại rượu mới là rượu Cứu Độ khi ông Giônađáp đến che thân cho Người. Hành động được ban cho ông Giônađáp để hoàn tất một hình ảnh đã được báo trước.
---------------------------------------------
CHƯƠNG XXXI
ĐỨC GIÊSU BỊ ĐÓNG ĐINH
Giờ đây Đức Giêsu bị các lý hình căng ra trên thập giá. Người tự mình nằm trên thập giá; nhưng chúng ấn Người vào các chỗ lõm, và man rợ kéo bàn tay phải của Người cho đúng vào lỗ đinh đục sẵn rồi cột chặt cổ tay lại. Một tên tì đầu gối trên ngực thánh của Chúa và đè thẳng tay Người ra; tên khác đặt một cái đinh dài và to, được mài nhọn, vào lòng bàn tay rất thánh của Người rồi dùng búa sắt đóng xuống thật mạnh. Một tiếng kêu đau đớn, rõ ràng, thảng thốt phát ra từ miệng Người và máu Người bắn lên cánh tay tên lý hình. Các thớ thịt và gân bàn tay bị xé đứt và nhét vào lỗ nhỏ qua cây đinh ba cạnh. Tôi có đếm từng nhát búa, nhưng sự khổ não đã làm tôi quên hết. Đức Trinh Nữ nức nở âm thầm, còn bà Mađalêna thì như điên như dại vì đau đớn.
Sau khi đóng đinh tay phải của Đức Chúa, lý hình thấy tay trái của Người, cũng được cột vào đà ngang, không chạm tới lỗ đinh đục sẵn, còn cách đầu ngón tay khoảng hai, ba phân. Do đó chúng gỡ cánh tay ra khỏi cây gỗ, quấn dây chung quanh đó rồi ghì chân vào thập giá kéo giãn cánh tay Người ra cho tới khi bàn tay chạm tới lỗ đinh. Bấy giờ, tì gối trên cánh tay và ngực của Đức Chúa, chúng lại cột cánh tay vào đà ngang, và đóng cây đinh thứ hai xuyên qua bàn tay trái. Máu bắn ra và tiếng rên đau khổ, rõ ràng, dịu dàng của Đức Giêsu vang lên theo từng nhát búa. Cả hai cánh tay Người đều bị sái khớp, hai vai sưng lên và hõm vào, và ở khủy tay, người ta có thể thấy xương trật ra. Ngực Đức Giêsu nhô lên, và chân của Người gập đôi lên thân thể vì đau đớn. Cánh tay của Người bị kéo giãn thẳng đến độ không còn che phủ được chỗ lồi lõm của đà ngang.
Đức Trinh Nữ chịu đựng mọi cực hình này với Đức Giêsu. Mẹ xanh xao như một xác chết, và tiếng rên rỉ đau khổ luôn phát ra từ miệng người. Người Pharisiêu chế nhạo và đùa giỡn bên bức tường thấp nơi Mẹ đang đứng, bởi thế ông Gioan đưa người đến với các bà thánh thiện khác đứng xa ngoài vòng tròn. Bà Mađalêna thì như một người điên, cào cấu móng tay vào mặt mình cho đến khi chảy máu.
Khoảng một phần ba chiều cao từ dưới tính lên, có một khúc gỗ được đóng vào thập giá mà chân Đức Giêsu sẽ bị đóng đinh vào đó, như thế Người phải đứng hơn là bị treo; nếu không thì tay Người sẽ rách ra, và chân Người không thể đóng đinh mà không gây vỡ xương. Một lỗ đinh đã được đục sẵn trên khúc gỗ tựa chân, và một chỗ lõm được khoét vào thập giá dành chỗ cho gót chân của Người. Các chỗ lõm tương tự được đục dọc theo thập giá mục đích để kéo dài sự đau đớn của Người, vì nếu không, tay Người sẽ bị xé rách, thân thể Người sẽ rơi xuống một cách tàn bạo vì sức nặng và Người sẽ chết sớm hơn dự tính hành hạ Người cho thỏa lòng độc ác của bọn chúng.
Toàn thân Đấng Cứu Thế co giật vì các cánh tay bị kéo giãn tàn bạo đến các lỗ đinh, và đầu gối của Người buộc phải co lên. Bọn lý hình bấy giờ thấy bực mình với đôi chân Người nên chúng lấy dây quấn chung quanh rồi cột vào thập giá; nhưng vì các lỗ đinh trên đòn ngang bị đục sai chỗ nên đôi chân của Đức Giêsu không tới được khúc tựa chân cùng một lúc. Khi thấy vậy, bọn lý hình lại chửi thề và sỉ nhục Người. Một vài tên nghĩ nếu đục lại các lỗ trên đà ngang thì ít khó khăn hơn là phải di chuyển khúc gỗ tựa chân. Các tên khác lớn tiếng châm biếm: "Nó không giãn người ra được thì chúng ta giúp nó!" Sau đó chúng lấy dây cột vào chân phải của Người và ra sức kéo một cách tàn bạo cho đến khi bàn chân ấy chạm vào khúc gỗ, rồi chúng lấy dây cột xuống thập giá. Vì vậy thân thể Đức Giêsu bị căng ra khủng khiếp. Ngực của Người giãn ra kêu thành tiếng, và Người lớn tiếng rên rỉ: "Chúa ơi! Chúa ơi!" Chúng phải cột cánh tay và ngực của Người xuống để bàn tay không bị tuột ra khỏi đinh. Bụng Người hoàn toàn biến dạng, và dường như các xương sườn tách khỏi lồng ngực. Sự đau khổ thật khủng khiếp.
Chân trái của Người cũng bị kéo và cột chặt trên chân phải một cách tàn bạo tương tự; và vì nó không nằm sát trên bàn chân phải để đóng đinh, mu bàn chân bị đục với một cái dùi bén hơn, bề ngang to hơn là dùi đục bàn tay. Sau đó chúng lấy một cái đinh trông ghê sợ nhất, dài hơn các đinh khác nhiều, dùng sức đóng xuống mu bàn chân trái và bàn chân phải bên dưới. Với tiếng nứt nẻ, đinh xuyên qua bàn chân Đức Giêsu đâm vào lỗ đã đục sẵn trong khúc gỗ tựa chân, và xuyên qua đó đóng vào thập giá. Khi đứng bên cạnh thập giá, tôi được thấy đinh xuyên qua cả hai chân.
Việc đóng đinh bàn chân là điều khủng khiếp nhất trong tất cả, vì thân thể bị kéo căng ra. Tôi đếm được ba mươi sáu nhát búa giữa tiếng rên rỉ của Đấng Cứu Thế, mà âm thanh ấy đối với tôi thật dịu dàng, thật thanh khiết, thật trọn vẹn.
Đức Trinh Nữ đã trở lại chỗ hành hình. Khi nghe tiếng xé thịt và rạn nứt cũng như rên rỉ theo sau từng nhát búa, trong sự thương cảm thánh thiêng người như chết được, và các phụ nữ đạo đức, đỡ người dưới cánh tay, lại đưa người ra khỏi vòng đai ngay khi mấy tên Pharisiêu đang lại gần để chế nhạo. Trong khi đóng đinh và sau đó dựng thập giá lên, chỗ này chỗ nọ, nhất là trong đám phụ nữ, có những tiếng kêu thương cảm như: "Ôi, sao đất không mở ra mà nuốt trửng bọn khốn kiếp này đi! Ôi, phải chi lửa trời xuống thiếu đốt chúng!" Nhưng những lời phát biểu vì thương yêu ấy chỉ được đáp trả bằng sỉ nhục và nhạo cười của các kẻ thù Đức Giêsu.
Tiếng rên rỉ của Đức Giêsu thật sự là những tiếng kêu đau đớn. Hòa lẫn với tiếng rên là lời cầu nguyện không ngừng, đó là các đoạn trong Thánh Vịnh và sách Ngôn Sứ, mà Đức Giêsu đang hoàn tất các lời tiên tri. Trong suốt cuộc Khổ Nạn cay đắng của Người cho đến lúc từ trần, Người luôn luôn cầu nguyện như vậy, và không ngừng chu toàn các lời Ngôn Sứ. Tôi nghe được tất cả những đoạn Người sử dụng và tôi lập lại với Người, và khi nào đọc Thánh Vịnh là tôi luôn nhớ các câu Người dùng. Nhưng giờ đây, tim tôi quá tan nát vì những tra tấn của Vị Hôn Phu Thiên Đàng nên tôi không thể nhớ nổi. Tôi thấy các thiên thần khóc lóc bay lượn trên Đức Giêsu trong cơn hành hạ khủng khiếp này.
Lúc khởi sự việc đóng đinh, viên sĩ quan Rôma ra lệnh đóng tấm bảng mà Philatô đã viết vào đầu thập giá. Điều này làm người Pharisiêu điên tiết, vì người Rôma cười lớn khi thấy hàng chữ: "Vua dân Do Thái." Sau khi bàn bạc về cách xử trí để kiếm được một danh hiệu mới, một số người Pharisiêu cưỡi ngựa trở về thành để một lần nữa năn nỉ Philatô cho tấm bảng khác.
Trong khi khổ hình đóng đinh tiếp diễn, một số lý hình tiếp tục đào lỗ trên mô đất cao để dựng thập giá trên đó, vì nền đá thì cứng mà lỗ còn nhỏ. Một số khác, say rượu thơm mà chúng lấy của các bà đạo đức, nhưng không đưa cho Đức Giêsu, chúng thấy quặn thắt trong ruột và xử sự như những tên điên. Chúng gọi Đức Giêsu là phù thủy, mạnh miệng chửi bới đức kiên nhẫn của Người, và nhiều lần chúng đi xuống đồi để uống sữa lừa. Gần chỗ đóng trại của các khách dự lễ Vượt Qua có một số phụ nữ bán sữa lừa.
Vị trí mặt trời lúc Đức Giêsu bị đóng đinh cho thấy vào khoảng mười hai giờ mười lăm, và vào lúc nâng thập giá lên thì tiếng kèn trong Đền Thờ thổi vang. Chiên Vượt Qua đã bị giết.
-------------------------------------
CHƯƠNG XXXII
DỰNG CÂY THẬP GIÁ
Sau khi đóng đinh Đức Chúa, bọn lý hình luồn dây qua một vòng sắt đóng ở phía sau lưng thập giá, và kéo đến mô đất cao ở giữa vòng tròn. Sau đó chúng quăng sợi giây qua đà ngang được dựng ở phía đối diện không xa bao nhiêu. Một vài lý hình kéo dây nâng thập giá đứng thẳng lên, trong khi một số khác đỡ thập giá và đẩy chân thập giá vào lỗ đã đào sẵn. Chúng đẩy phần trên của thập giá nghiêng tới trước cho tới khi thẳng đứng, và rồi cả sức nặng của thập giá tuột vào lỗ gây nên một tiếng động mạnh. Chấn động ấy làm thập giá rung chuyển. Đức Giêsu lớn tiếng rên rỉ. Thân thể căng giãn lại trì xuống vì sức nặng, các vết thương chân tay mở rộng, máu trào ra nhiều hơn, và các xương đã bị trật khớp lại đập vào nhau. Bọn lý hình bây giờ lay động thập giá để nó cắm chặt vào đất sâu, rồi chúng đóng năm miếng gỗ chèn chung quanh: một bên phải, một bên trái, một đằng trước, và hai đằng sau, tất cả những miếng gỗ chèn này đều hơi tròn.
Khi thập giá đong dưa trên không rồi đâm mạnh xuống lỗ đã được đào sẵn giữa tiếng cười nhạo báng của lý hình, của đám Pharisiêu kiêu căng và của đám Đông chứng kiến từ đàng xa mà Đức Giêsu có thể nhìn bao quát hết, thì một cảm giác đau đớn khủng khiếp, một xúc động cực mạnh kinh hoàng cũng tràn ngập tâm hồn các bạn hữu của Đức Chúa hiện diện tại đó. Nhưng trong giây phút kinh khiếp ấy, cùng với những tiếng nhạo cười là một tiếng nói của tình yêu thương cảm phát ra từ các môn đệ yêu dấu của Người. Trong các diễn tả đầy thương xót thống thiết nhất, các tiếng nói thánh thiện nhất trên mặt đất, là đau khổ của Đức Mẹ, của các thánh nữ, của người môn đệ yêu dấu và tất cả những tâm hồn thanh khiết đang thờ lạy "Ngôi Lời Nhập Thể" được nâng cao trên thập giá. Những bàn tay yêu dấu rụt rè giơ lên cao như muốn giúp đỡ Đấng Thánh trên hết các Thánh, Vị Hôn Phu của các linh hồn, bị đóng đinh trên thập giá, quằn quại trong bàn tay kẻ tội lỗi điên cuồng. Nhưng khi tiếng động uy nghiêm của thập giá rơi mạnh vào lỗ vang lên, thì bầu không khí im lặng đáng sợ bao trùm lên tất cả trong giây lát. Vì đây là một cảm giác mới mẻ, chưa từng cảm nghiệm, gây xao xuyến cho mọi tâm hồn. Tất cả qủy dữ hỏa ngục đều kinh hoàng run sợ trước chấn động của thập giá rơi xuống, khiến chúng càng lồng lộn căm tức càng khích động kẻ thù Đức Giêsu thêm phẫn nộ phạm vào những hành vi man rợ hơn nữa. Các linh hồn trong lâm bô thì tràn ngập niềm vui và hy vọng vì đo là tiếng báo hiệu hạnh phúc đang đến, tiếng nhạc Chiến Thắng trước cánh cửa Cứu Độ vì Đấng Giải Thoát sắp xuất hiện! Thế là lần đầu tiên cây Thánh Giá cứu độ của Chúa chúng ta được trồng trên mặt đất; chúng ta có thể ví như cây sự sống được trồng trên Thiên Đàng, và từ các Thương Tích của Đức Giêsu tuôn trào những nguồn suối thánh xuất phát từ bốn dòng sông vừa để thanh tẩy thế gian khỏi lời nguyền rủa của tội lỗi vừa tưới cho nó màu mỡ để có thể sanh hoa trái cứu độ. Khi Đức Chúa đứng thẳng trên thập giá như vậy, và các tiếng nhạo cười trong đôi phút đã nhỏ dần lại cho đến khi đột ngột im lặng, thì từ Đền Thờ vang lên tiếng kèn công bố tin chiên Vượt Qua đã được sát tế; đồng thời, nó lấn át tiếng nhạo cười cũng như than khóc chung quanh Chiên Đích Thực của Thiên Chúa đã bị sát hại. Nhiều tâm hồn chai đá đã rùng mình khi nghĩ đến lời của ông Gioan Tẩy Giả: "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian!"
Mô đất để dựng thập giá cao hơn khu chung quanh chừng ba gang tay. Khi thập giá chưa được cắm xuống, thì chân của Đức Giêsu cách mặt đất chừng bằng chiều cao một người đứng; nhưng khi thập giá được chôn xuống lòng đất, thì bạn hữu của Người có thể ôm hôn chân Người. Có một đường mòn dốc dẫn lên mô đất này. Mặt Đức Giêsu quay về hướng Tây Bắc.
ĐÓNG ĐINH HAI TÊN TRỘM
Trong khi Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, các tên trộm còn đặt nằm trên mặt đất phía Đông ngọn đồi, tay chúng bị cột vào đà ngang ở trên vai, và có lính đứng canh. Cả hai tên phạm tội giết một phụ nữ Do Thái đang cùng với các con đi từ Giêrusalem về Gióppa. Chúng bị bắt khi ngụy trang thành những thương buôn giàu có và đang ẩn núp trong một lâu đài nơi Philatô thỉnh thoảng dừng chân khi ông đem binh lính đến đây để thao dượt quân sự. Hai tên cướp này đã bị giam khá lâu trước khi bị đem ra xử án. Tên trộm đặt bên trái lớn tuổi hơn tên kia nhiều. Nó là một tên sa đọa đã hủ hóa tên kia, trẻ tuổi hơn nó. Người ta thường gọi chúng là Đima và Gétma. Vì tôi quên tên thật của chúng nên tôi sẽ gọi Đima là tên trộm lành còn Gétma là tên gian ác để phân biệt. Cả hai đều thuộc một đảng cướp dọc biên giới Ai Cập. Thánh Gia đã trú ngụ một đêm trong một hang động của bọn này trên đường trốn sang Ai Cập trong thời điểm các thánh anh hài bị sát hại. Đứa bé phong cùi tội nghiệp mà đã được lành bệnh tức khắc sau khi nhúng nó vào thau nước đã tắm cho Hài Nhi Giêsu không ai khác hơn là tên Dima này. Sự lành bệnh của Đima là phần thưởng dành cho mẹ nó vì đã bác ái đón tiếp Thánh Gia. Dấu chỉ bề ngoài này là hình ảnh gợi ý cho sư thanh tẩy nội tâm được hoàn tất trong linh hồn Đima trên Núi Canvê khi Máu Thánh đổ trên thập giá để cứu độ chúng ta. Đima hoàn toàn không biết chút gì về Đức Giêsu, nhưng vì tâm hồn hắn không chai đá nên trước cảnh kiên nhẫn cực độ của Đức Chúa hắn đã bị xúc động mạnh. Khi còn nằm trên mặt đất, hắn luôn nói về Đức Giêsu cho tên Gétma nghe. Nó nói: "Chúng đối xử với người Galilê này thật tàn nhẫn. Với các lề luật mới của ông, thì ông có làm điều gì xấu như tụi mình đâu. Cứ nhìn vẻ nhẫn nhục, cũng như uy quyền của ông trên mọi người cũng rõ." Nghe vậy Gétma trả lời: "Thôi đi mày, ông ấy mà có quyền gì? Nếu ông ấy có quyền như người ta nói thì ông ấy đã có thể giúp mày và tao và luôn cả ông ta nữa." Và cứ thế chúng nói chuyện qua lại. Khi thập giá Đức Giêsu được dựng lên, lý hình kéo các tên trộm về phía mô đất và nói: "Bây giờ đến lượt chúng bay." Họ cởi tay chúng khỏi đà ngang và vội vã làm việc, vì mặt trời bị mây che phủ báo hiệu trời sắp bão.
Các lý hình dựa thang vào trụ chính thẳng đứng để đưa đà ngang lên trên đỉnh rồi cột chặt vào đó (thập giá hai trên trộm có hình chữ T). Bấy giờ, hai chiếc thang được dựa vào hai thập giá và các lý hình đứng trên đó. Trong lúc ấy thì người ta đưa dấm trộn mật đắng cho chúng uống, lột áo chúng ra, luồn giây qua cánh tay và ném đầu kia qua đà ngang, rồi kéo chúng lên thập giá. Khi bị kéo lên cao, chúng đau đớn hơn vì các chấn động do lý hình đóng gỗ đệm vào các lỗ chôn cột. Trên đà ngang và trụ chính, giây thừng được thắt lại. Tay các tên trộm bị bẻ quặt ra đằng sau ôm lấy đà ngang; chung quanh khuỷu tay, cườm tay, đầu gối, mắt cá chân đều có giây cột và xoắn chặt bằng các chốt gỗ đến độ máu phun ra từ các tĩnh mạch và các khớp xương bị gẫy. Những tạo vật đáng thương ấy thét lên những tiếng đau đớn hãi hùng. Tên trộm lành Đima nói với các lý hình khi chúng kéo hắn lên: "Nếu chúng mày đối xử với chúng tao như đã đối xử với ông Galilê đáng thương kia thì chúng tao đã chết từ lâu rồi và chúng mày đâu đến nỗi phải khó nhọc như bây giờ."
BỌN LÝ HÌNH BẮT THĂM ÁO CỦA ĐỨC GIÊSU
Trong khi ấy, ở bên ngoài vòng tròn nơi các tên trộm nằm chờ, bọn lý hình gom góp y phục của Đức Giêsu lại và chia thành nhiều phần để bốc thăm. Chiếc áo choàng phần trên thì hẹp nhưng phần dưới thì rất rộng, có vải lót ở ngực làm thành như cái túi ở giữa lớp vải lót bên trong và vải may áo ngoài. Chúng tháo miếng vải lót ra và xé thành những giải rồi chia nhau. Chúng cũng làm như vậy với áo dài trắng, thắt lưng, áo choàng hai thân trước và sau, quần áo lót, tất cả đều đẫm Máu Thánh Đức Chúa. Còn chiếc áo làm bằng một tấm mền duy nhất không có đường khâu mà Mẹ Người đã đích thân dệât cho Người thì chúng không muốn cắt ra thành nhiều mảnh, nên chúng đem ra một cái bàn cờ có đánh số để gieo đê tính điểm may rủi xem tên nào sẽ được làm chủ cái áo. Ngay lúc ấy thì một người đưa tin xuất hiện, do ông Nicôđêmô và ông Giuse ở Arimathê sai đến nói với chúng rằng có người sẵn sàng muốn mua quần áo của Đức Giêsu cho nên chúng thu góp lại hết rồi chạy xuống đồi và bán trọn gói. Chính nhờ vậy mà các Kitô Hữu đã làm chủ những thánh tích này.
ĐỨC GIÊSU BỊ ĐÓNG ĐINH. HAI TÊN TRỘM
Chấn động khủng khiếp gây nên bởi sự va chạm dữ dội khi thập giá lọt vào lỗ đào sẵn đã khiến Máu Châu Báu tuôn ra từ đầu đội mão gai, và từ các vết thương chân tay rất thánh của Người. Lý hình giờ đây trèo lên thang và nới lỏng sợi giây đang cột thân thể Đức Giêsu vào thập giá nhằm giữ cho chân tay không bị xé ra khỏi các lỗ đinh khi dựng thập giá. Máu từng bị cản trở bởi sợi giây cột chặt và vị trí thẳng đứng của thân thể, giờ đây được luân chuyển. Hậu quả là Đức Giêsu bị đau đớn gấp đôi. Trong bảy phút, Người bị treo trong im lặng như đã chết, chìm ngập trong đau đớn mênh mông, và trong vài khoảng khắc im lặng nặng nề liên tục đã bao trùm thập giá. Dưới sức nặng của mão gai, đầu Đức Giêsu gục xuống ngực, và từ biết bao vết thương máu rỉ xuống đầy mắt, tóc, râu và miệng-đang mở to, khát cháy họng và héo hon đợi chờ. Khuôn mặt thánh thiện, vì mão gai quá nặng, chỉ có thể ngẩng lên trong đau đớn khôn tả. Ngực của Người sưng vù và bị kéo ngược lên; hai vai trũng xuống và căng thẳng một cách kinh khủng; khuỷu tay và cườm tay đều sai khớp; và dọc theo cánh tay là máu chảy từ các vết thương bàn tay giờ đây được mở lớn. Phần dưới lồng ngực bị rút lại một hõm sâu, và toàn thể phần bụng trũng xuống và xẹp lép như thể bị ép ra khỏi vị trí. Cũng như cánh tay, lưng và chân bị trật khớp khủng khiếp. Chân tay Đức Giêsu sưng phồng cực độ. Các bắp thịt và da nứt nẻ bị căng ra một cách đáng thương, đến nỗi có thể đếm được từng cái xương. Máu từ chiếc đinh xuyên qua hai bàn chân rất thánh của Người chảy xuống thập giá. Toàn thể thân hình rất thánh của Người đầy những vết thương, sứt sẹo đỏ tấy, với những chỗ bầm tím và vết phỏng, mầu lục, mầu nâu, mầu vàng, những mảng thịt đỏ lòi ra vì da lột. Tất cả những thương tích này lại được mở ra dưới sức chằng của giây trói, và máu tươi lại tuôn trào. Sau đó các dòng máu có pha thêm mầu trắng và nước, thân thể Người trở nên nhợt nhạt. Khi vẩy nơi các vết thương bong ra, thì thương tích trông như miếng thịt cạn máu. Bất kể sự méo mó khiếp đảm, thân hình rất thánh của Đức Chúa đứng trên thập giá vẫn cao quý và thống thiết. Phải, Con Thiên Chúa, chính Người là của lễ Ngàn Đời, bất chấp mọi đau đớn vẫn đẹp vô cùng, rất thánh thiện, và tinh tuyền trong thân thể tan nát nặng trĩu tội lỗi con người của Chiên Vượt Qua đang hấp hối.
Nước da Đức Giêsu trắng cũng như da Đức Maria và hơi ửng đỏ; nhưng vì dãi dầu sương gió trong mấy năm sau chót nên đã bị rám nắng nhiều. Ngực Người rộng và cao nhưng không lông lá như ngực Gioan Tẩy Giả. Vai Đức Giêsu rộng, tay chân và bắp đùi rắn chắc khoẻ mạnh. Đầu gối to và khỏe như của những người quen đi bộ hoặc quỳ nhiều. Chân Người dài, bắp thịt nở nang, đôi bàn chân đẹp, dù đi chân không qua các đường gồ ghề khiến lòng bàn chân chai cứng. Tay của Người cũng đẹp, ngón tay thon dài. Tuy không mảnh mai như tay của một phụ nữ nhưng cũng không giống như của một người lao động vất vả. Cổ dài, với cái đầu rất cân xứng, trán cao và rộng, khuôn mặt hình trái xoan thanh tú. Tóc của Người, không dầy, mầu nâu vàng, chẻ ở giữa và xõa xuống vai. Râu Người không dài lắm, được tỉa nhọn, và tách đôi ở cằm.
Khi ngắm nhìn Đức Chúa bị treo trên thập giá tôi thấy tóc Người bị giựt đứt hầu hết, phần còn lại thì bết máu. Toàn thân Người là một vết thương to lớn, và tứ chi dường như bị kéo trật khớp hết.
Thập giá hầu như tròn ở phía sau và phẳng ở phía trước, và có những chỗ lõm ở những nơi cần thiết. Ở trục chính, bề dày và bề rộng bằng nhau. Các mẩu gỗ ráp thành thập giá có nhiều mầu khác nhau: một số mầu nâu, một số mầu vàng, trục chính thì đậm hơn tất cả, như loại gỗ bị ngâm nước lâu ngày.
Thập giá của hai tên trộm thì xù xì và ở ngoài rìa mô đất, bên trái và bên phải của thập giá Đức Giêsu, và cách nhau đủ xa để một người có thể cưỡi ngựa đi qua. Không cảnh tượng nào não lòng hơn khi nhìn hai tên trộm bị treo trên thập giá; chúng đau đớn khủng khiếp, tên bên tay trái không ngớt nguyền rủa và chửi thề. Giây thừng trói chúng rất chặt làm chúng đau đớn vô cùng. Nước da tái nhợt xanh xao, đôi mắt đỏ ngầu như muốn lòi ra ngoài tròng. Thập giá của chúng thấp hơn thập gía Chúa nhiều.
CHƯƠNG XXXIII
LỜI NÓI THỨ NHẤT CỦA NGƯỜI TRÊN THẬP GIÁ.
Sau khi đóng đinh hai tên trộm thì bọn lý hình chia nhau y phục của Đức Chúa, rồi chúng thu xếp dụng cụ, sỉ nhục Đức Giêsu thêm vài lời và ra về. Mấy người Pharisiêu cũng vậy, thúc ngựa đi tới trước mặt Đức Giêsu, khinh bỉ nhìn Người, nói vài lời nhục mạ rồi sau đó cũng rút lui. Một trăm lính Rôma cùng với viên chỉ huy cũng đội ngũ xuống núi ra về, vì có năm mươi người khác lên thế chỗ. Quan bách quân đơn vị mới này tên là Abênađa, gốc Ả Rập, sau này được rửa tội lấy tên là Têsiphon. Viên chỉ huy phó tên là Cátxiút sau này trở lại đạo và được rửa tội với tên là Longinút. Philatô trước kia vẫn dùng Cat-xi-út làm thông tín viên cho ông ta. Sau đó mười hai người Pharisiêu, mười hai người Xađucê, mười hai Luật Sĩ, và một số Kỳ Lão cùng với một đoàn tùy tùng người Do Thái trước đây từng cố thuyết phục Philatô để ông ta thay đổi hàng chữ đã ghi trên tấm biển treo trên thập giá cũng lên tới núi. Bọn này hết sức phẫn nộ khi viên Tổng Trấn Rôma thẳng thừng gạt phắt lời yêu cầu của họ thay đổi mấy dòng chữ trên tấm bảng đóng trên đầu thập giá Chúa Giêsu. Chúng cưỡi ngựa đi vòng quanh khu vực, xua đuổi Đức Mẹ đi chỗ khác khiến thánh Gioan phải đưa Mẹ lại với nhóm các thánh nữ đang ở gần đó. Khi đến gần thập giá Chúa, chúng khinh miệt lắc đầu và đồng thanh la lớn: "Này tên kia! Mày từng nói là cứ phá Đền Thờ đi rồi mày sẽ dựng lại trong ba ngày, thì giờ đây hãy tự cứu lấy mày đi! Xuống khỏi thập giá đi! Hãy để cho Đấng Được Xức Dầu (Đức Kitô), hãy để cho Vua dân Do thái xuống khỏi thập giá đi để chúng tao thấy mà tin!" Bọn lính cũng nói những lời chế nhạo như vậy.
Dáng điệu và toàn thân Đức Giêsu ngày càng nhợt nhạt như muốn ngất xỉu. Tên trộm ở bên trái (Gietma, tên cướp sa đọa) kêu lên: "Ma quỷ từng ám nó giờ đây đã bỏ nó rồi". Một người lính lấy miếng bọt biển thấm đầy giấm cắm vào một cái que và đưa lên trước mặt Đức Giêsu. Dường như Người có nếm một chút. Bọn lính tiếp tục chế nhạo và nói: "Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi! Xuống khỏi thập giá đi" Tất cả những điều này xảy ra trong khi toán lính trước được toán lính khác do Abênađa chỉ huy đến thay thế.
Bấy giờ Đức Giêsu hơi ngẩng đầu lên và nói: "Cha ơi, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!" và sau đó Người âm thầm cầu nguyện. Tên Giétma kêu lên: "Nếu ông là Đức Kitô, thì hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi với!" Đima, tên trộm ở bên phải thì yên lặng. Y hết sức xúc động khi nghe Đức Giêsu cầu nguyện cho kẻ thù của mình. Khi Đức Maria nghe tiếng của Con Mẹ thì không cầm lòng được nữa, bèn lấn tới trước tiến sát lại thập giá, với ông Gioan, bà Salômê, và bà Maria Clêopha theo sau. Viên chỉ huy tốt bụng không ngăn cản người.
Đima, tên trộm bên phải, nhờ lời cầu nguyện của Đức Giêsu nên được soi sáng trong lòng. Khi Đức Trinh Nữ vội vã tiến đến, bỗng dưng hắn nhớ rằng chính Đức Giêsu và Đức Mẹ đã chữa hắn khỏi bệnh cùi khi hắn còn nhỏ. Hắn kêu lên thật mạnh bạo và rõ ràng: "Làm sao các ngươi có thể sỉ nhục Người khi Người đang cầu nguyện cho các ngươi! Người luôn im lặng và nhẫn nhục, Người cầu nguyện cho các ngươi, và các ngươi xúc phạm đến Người! Đích thực Người là một Ngôn Sứ! Người là Vua của chúng ta! Người là Con Thiên Chúa!" Lời khiển trách bất ngờ từ miệng của một tên sát nhân khốn kiếp đang dãy chết trên thập giá khiến bọn người phỉ báng phải xôn xao lớn. Họ nhặt đá và định ném tên trộm lành. Tuy nhiên, quan bách quân Abênađa không cho phép họ.
Đức Trinh Nữ cảm thấy được tăng sức mạnh khi nghe Đức Giêsu cầu nguyện như vậy. Đima sau đó nói với Giétma vẫn còn lải nhải xúc phạm Đức Giêsu: " Mày không biết sợ Thiên Chúa sao, khi mày chịu cùng một bản án với Ngài. Chúng ta bị phạt là đáng đời, rất xứng với tội ác chúng ta đã làm, nhưng ông này có phạm tội ác nào đâu. Mày hãy nhớ rằng mày sắp chết và ăn năn hối cải đi!" Được ơn soi sáng và xúc động: Đima thú tội với Đức Giêsu, và nói: "Lạy Chúa, nếu Ngài kết tội con, thì thật xứng đáng!" Đức Giêsu đáp: "Con sẽ được cảm nghiệm lòng thương xót của Ta." Đima lòng tràn ngập thống hối chân thành lập tức cảm tạ Chúa vì những ân sủng lớn lao nó vừa nhận được và suy nghĩ về bao nhiêu tội ác nó đã phạm trong quá khứ. Tất cả những điều này xảy ra trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 12 giờ rưỡi trưa sau khi dựng thập giá. Nhưng một sự hoán cải lạ lùng như vậy cũng phản ánh lên bầu trời khiến sự thay đổi vẻ mặt thiên nhiên cũng gây cho những người đứng chung quanh phải kinh ngạc lo âu khiếp sợ.
MẶT TRỜI BỊ CHE KHUẤT.
LỜI THỨ HAI VÀ THỨ BA CỦA ĐỨC GIÊSU TRÊN THẬP GIÁ.
Cho đến mười giờ sáng hôm đó, vào lúc Philatô tuyên án, thì mưa đá rơi xuống từng chặp, nhưng từ khi ấy cho đến mười hai giờ trưa thì trời quang đãng và mặt trời sáng trở lại. Tuy nhiên, vào mười hai giờ thì mặt trời bị đám sương mù âm u mầu đỏ che khuất. Khoảng giờ thứ sáu, theo cách tính giờ của người Do thái, thì mặt trời bỗng dưng tối sầm lại một cách lạ lùng. Tôi thấy các hành tinh, các ngôi sao, xoay vần ra khỏi qũy đạo của chúng và vượt qua mặt nhau. Tôi thấy mặt trăng ở phía đối diện trái đất và sau đó, trong một chuyển động bất ngờ, nó biến thành một trái cầu lửa lơ lửng, tròn vo và mờ nhạt trên núi Cây Dầu. Mặt trời nằm trong đám sương mù, và từ hướng Đông mặt trăng lướt nhanh qua. Lúc đầu, tôi thấy ở phía Đông mặt trời hình như có cái gì giống ngọn núi sậm, nhưng không lâu sau đó thì nó che khuất hẳn mặt trời đi. Vật này chính giữa thì vàng đậm, và chung quanh có một vòng tròn đỏ như lửa. Bầu trời tối sầm lại, các ngôi sao chiếu ra những tia sáng đỏ ghê rợn. Kinh hoàng bao trùm con người và vạn vật. Gia súc rống lên và chạy tán loạn; chim chóc tìm chỗ ẩn nấp, tụ thành đàn trên các ngọn đồi chung quanh núi Canvê và chỉ cần đưa tay ra là có thể bắt được chúng. Bọn thù nghịch với Chúa Giêsu không dám phỉ báng Người nữa, trong khi đám Pharisiêu cố giải thích những dấu hiệu này như một hiện tượng tự nhiên, nhưng chúng không thành công, và không lâu chính chúng cũng kinh sợ. Mọi con mắt đều nhìn lên trời. Nhiều người đấm ngực, vò đầu bứt tóc, và kêu lớn: "Xin máu của Người hãy đổ trên đầu những kẻ giết Người!" Xa gần nhiều người quỳ sụp và xin Đức Giêsu tha thứ, và bất kể đang trong cơn thống khổ khủng khiếp, Người đưa mắt nhìn họ. Bóng tối càng dầy đặc, thì chung quanh thập giá càng vắng người, chỉ còn Mẹ và các bạn chí thiết của Người. Đima, trong sự thống hối chân thành và hy vọng tràn trề, xoay đầu về Đức Giêsu và nói: "Lạy Ngài, xin nhớ đến tôi khi vào Vương Quốc của Ngài!" Đức Giêsu trả lời: "Quả thật, Ta nói với ngươi, hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên nước Thiên Đàng!"
Mẹ Đức Giêsu, bà Maria Clêopha, bà Maria Mađalêna, và ông Gioan đứng chung quanh thập giá Đức Giêsu, giữa hai thập giá tên trộm, và nhìn lên Đức Chúa. Đức Trinh Nữ, tràn ngập tình mẫu tử, tha thiết xin Đức Giêsu cho Mẹ cùng chết với Người. Lúc đó, Đức Chúa thương cảm nhìn Mẹ Người rồi đưa mắt nhìn ông Gioan nói: "Này bà, đây là con bà!" Sau đó Người nói với Gioan: "Đây là Mẹ của con!" Ông Gioan nhìn lên Đấng Chuộc Tội của mình, liền tỏ hết lòng cung kính Mẹ trong tư cách của một người con hiếu thảo (và từ đó coi Mẹ như chính mẹ của mình). Rất Thánh Đức Mẹ đau khổ tột cùng và gần như té xỉu khi nghe những lời này nên các thánh nữ phải đưa tay đỡ lấy người, và dìu người ra xa Thập Gía một chút.
Tôi không biết tôi có thật sự nghe Đức Giêsu nói những lời này thành tiếng không, nhưng thâm tâm tôi cảm nhận rằng Đức Giêsu có trao Mẹ Người cho ông Gioan để bà làm Mẹ ông, và có trao ông Gioan cho Đức Maria để ông làm con của Mẹ. Trong khi suy niệm, một người thường ý thức những điều không được ghi chép và lời nói chỉ diễn tả được phần nào thôi, mặc dù người linh kiến nhìn thấy rõ ràng đến độ không cần phải cắt nghĩa. Do đó tôi không thấy ngạc nhiên chút nào khi Đức Giêsu gọi Đức Trinh Nữ là Bà thay vì là Mẹ. Tôi cảm thấy Người muốn chứng minh rằng Mẹ là Người Nữ nói trong kinh thánh, người mà sẽ đạp nát đầu con rắn, vá lời hứa này đã được thực hiện trong cái chết của ngưòi Con của Mẹ. Tôi biết rằng khi Đức Giêsu trao Mẹ Người cho ông Gioan để làm mẹ ông thì Người cũng trao Đức Mẹ để làm mẹ tất cả những ai tin vào Người, những người đã trở thành con cái Chúa, không sanh bởi huyết nhục hoặc bởi ý muốn của người nam mà là bởi thánh ý Thiên Chúa. Tôi cũng không cảm thấy ngạc nhiên rằng đức thánh trinh trong nhất, khiêm nhu nhất, và vâng lời nhất trong các người nữ, khi nghe thiên sứ chào mình là đầy ơn phúc thì lập tức đã đáp rằng tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền. Lúc đó Ngôn Từ Thiên Chúa đã lập tức trở nên nhục thể trong cung lòng rất thánh Đức Mẹ, và Đức Mẹ khi được người Con thần linh của mình trong cơn hấp hối trối lại rằng Mẹ sẽ làm mẹ thiêng liêng của một người con khác, thì cũng sẽ nhắc lại những lời nói trên với sự vâng lời khiêm hạ tuyệt đối và Mẹ lập tức nhận tất cả con cái Chúa làm con mình, anh chị em của Đức Giêsu. Nhờ ân sủng Chúa những điều này có thể dễ cảm nghiệm hơn là diễn tả bằng lời nói. Tôi nhớ đức phu quân thần linh của tôi đã có lần nói với tôi rằng "Tất cả mọi sự đều được in trong tâm hồn tất cả những con nào của Giáo Hội đã tin, trông cậy và yêu mến Người"
Lo sợ và kinh hoàng hoàn toàn bao phủ nhân dân Giêrusalem. Sương mù và bóng tối chập chờn trên các đường phố. Một số người quờ quạng tìm đường đi, một số khác, đầu phủ kín, ngồi trong các góc đường đấm ngực ăn năn, leo lên nóc nhà, nhìn trời chua chát khóc than. Súc vật cũng rống lên như chịu tang và chạy trốn, chim chóc bay thật thấp rồi sa xuống đất. Tôi thấy Philatô đang thảo luận với Hêrôđê về những sự kiện đáng ngại này, và cả hai đều bối rối sợ hãi cùng cực nhìn lên trời từ sân thượng mà nơi đó vào sáng hôm nay, Hêrôđê đã trao Đức Giêsu cho đám dân ô hợp sỉ nhục và hành hạ. Chúng nói, "Đây không phải là một hiện tượng tự nhiên. Chắc chắn thần linh không hài lòng và đang nổi giận vì cách đối xử dã man tàn bạo với ông Giêsu Na-da-rét." Sau đó cả hai có lính hộ tống bảo vệ run rẩy bước qua khu Diễn Đàn của dinh Hêrôđê. Khi đi ngang qua Gapbatha, ngai tòa nơi Philatô đã kết án Đức Giêsu bị đóng đanh lúc sáng thì ông ta không dám nhìn mà quay mặt đi chỗ khác. Công trường hầu như hoang vắng. Một vài người đang vội vã trở về nhà thật mau, một số khác vừa chạy đôn đáo vừa khóc, trong khi đó thì có vài nhóm nhỏ tụm năm tụm ba đang tụ họp ở đàng xa xa. Philatô cho gọi một số Kỳ Lão Do Thái đến dinh của y để hỏi về ý nghĩa của điềm bóng tối này. Ông ta nói ông nghĩ đó là dấu hiệu thịnh nộ của Thiên Chúa của họ vì việc đóng đanh người Galilê ấy . Chắc chắn Người là Ngôn Sứ và là Vua của họ, ông ta cũng nói rằng ông không có gì phải tự trách mình vì ông đã rửa tay không dính dáng gì đến toàn thể sự việc này, do đó ông ta vô tội... Nhưng các Kỳ Lão thì vẫn chai đá và ngoan cố hơn bao giờ hết, bằng một giọng u uất họ cố giải thích rằng điều đó chẳng có gì bất thường cả, rằng các nhà hiền triết có thể giải thích lý do của những biến cố này một cách dễ dàng và họ chẳng làm gì mà phải hối hận cả. Nhưng nhiều người đã hoán cải, trong số này có những người lính đã được sai vào vườn Cây Dầu để bắt Đức Giêsu và đã té ngã khi Chúa hỏi chúng đi tìm ai.
Một đám khá đông đứng tụ tập trước dinh Philatô. Thay vì những lời: "Đóng đinh nó! Đem nó đi!" họ đã hò hét sáng nay thì bây giờ họ lại kêu: "Đả đảo quan toà bất chiùnh! Để cho Máu Người Công Chính này đổ lên đầu những tên sát nhân!" Philatô rất hoảng sợ. Ông ta gọi thêm lính bảo vệ đến và hết sức đổ tội lên đầu người Do Thái. Một lần nữa ông ta lại tuyên bố rằng đây không phải là tội của ông, rằng ông không phải là bộ hạ của ông Giêsu này vì chính họ đã kết án tử hình ông ấy một cách bất công, vì ông ấy là ngôn sứ của họ, là Vua của họ, là Đấng Thánh của họ; rằng chỉ họ mới có tội và mọi người đều biết rằng ông ta bị ép buộc phải kết tôi ông Giêsu mà thôi.
Đền Thờ đông nghẹt người Do thái đang chú ý chờ sát tế Chiên Vượt Qua. Nhưng khi bóng tối ngày càng dầy đặc đến độ không còn nhận được ai với ai nữa thì họ ngột ngạt khiếp đảm, và bật lên than khóc thương thân trách phận. Các Thượng Tế cố gắng tái lập trật tự và yên lặng. Họ thắp sáng hết mọi ngọn đèn nhưng dân chúng càng lúc càng hỗn loạn, và Anna hoàn toàn khiếp đảm và tê liệt. Tôi thấy ông ta chạy trốn từ xó này đến góc kia. Khi tôi ra khỏi đến thờ và rảo qua các đường phố, thì tôi nhận thấy rằng mặc dầu không có lấy một ngọn gió nào vậy mà tất cả cửa lớn và cửa sổ mọi nhà đếu rung động như trong cơn bão lớn trong khi bóng tối ngày càng gia tăng.
Cơn hoảng loạn tạo ra do bóng đen dầy đặc đổ xuống bất ngờ trên núi Canvê không bút nào tả xiết.
---------------------------
CHƯƠNG XXXIV
ĐỨC GIÊSU BỊ BỎ RƠI. LỜI THỨ TƯ CỦA NGƯỜI TRÊN THẬP GIÁ
Sau lời thứ ba của Đức Giêsu nói với Mẹ Người và ông Gioan, một khoảng thời gian im lặng nặng nề bao trùm đồi Gôngôtha, và nhiều người mục kích đã bỏ về thành phố. Những lời sỉ vả độc ác của người Pharisiêu cũng chấm dứt. Lừa, ngựa đứng sát với nhau gục đầu ủ rũ giữa đôi chân của chúng. Màn sương dầy đặc thấm qua vạn vật.
Im lìm hoàn toàn bao quanh thập giá Chúa Giêsu. Người bị treo trơ trọi cô đơn một mình, bị mọi người bỏ rơi: từ môn đệ, đến bạn bè thân hữu, ngay cả Mẹ Người cũng không được đứng với Người bên cạnh thập giá, không một ai trong hàng ngàn người đã từng nhận biết bao ơn lành từ bàn tay quảng đại của Người có mặt ở đó để an ủi hầu làm nhẹ bớt đắng cay trong cơn hấp hối - linh hồn Người phải trải qua một cảm giác chua chát đau khổ khôn tả xiết. Toàn thể nội tâm Người cũng cảm nhận đen tối, u sầu và nhục nhã. Bầu không khí đen tối bao trùm bên ngoài chỉ là tượng trưng cho cái đen tối trong linh hồn Người. Tuy vậy, Người hướng lên cùng Cha Trên Trời, cầu nguyện cho kẻ thù của mình và dâng chén đắng Người phải chịu để họ được cứu độ. Người tiếp tục cầu nguyện như đã cầu nguyện trong suốt cuộc khổ nạn và dùng những đoạn Thánh Vịnh mà lời tiên tri giờ đây đang được thể hiện nơi chính Người. Tôi thấy các thiên thần đứng chung quanh Người. Tôi lại nhìn Đức Giêsu - Đấng Phu Quân yêu qúy của tôi trên thập giá - đang hấp hối chờ chết mà vẫn cô đơn. Lúc đó Người chịu tất cả những lo âu không bút nào tả xiết. Người cảm nhận được nỗi đau đớn mà một phàm nhân yếu đuối khốn khổ cảm thấy khi không được ban cho một chút an ủi, cả từ trời lẫn của người phàm, và rồi buộc phải vượt qua sa mạc thống khổ hãi hùng một thân một mình không một giọt nước uống, một chút giúp đỡ hoặc một tia hy vọng mà chỉ còn nhờ vào đức tin, đức cậy, và đức mến mà thôi. Không lời nào có thể diễn tả sự đau đớn này. Nhưng qua sự thống khổ ấy, Đức Giêsu đã cho ta đủ ân sủng để chống lại những cám dỗ tuyệt vọng sẽ tấn công chúng ta lúc lâm chung - vào giờ khủng khiếp mà chúng ta cảm thấy rằng mình sẽ mất tất cả những gì thân qúi dưới thế này. Khi tâm trí chúng ta suy yếu vì bệnh tật, mất khả năng lý luận, và cả những hy vọng vào lòng thương xót và tha thứ của Chúa bị lu mờ đi trong sương mù của ngờ vực - thì đó là lúc chúng ta phải chạy đến với Đức Giêsu, kết hiệp cảm nghĩ trơ trụi của ta với tình trạng bị bỏ rơi Người phải chịu đựng trên Thập Giá, mà tin chắc rằng chúng ta sẽ chiến thắng vẻ vang loài qủy dữ thù nghịch. Khi ấy Đức Giêsu dâng sự nghèo nàn, sự bị bỏ rơi, những khổ cực nhọc nhằn và trên hết những đớn đau cay đắng do lòng vô ơn mà chúng ta đã tạo ra cho Người lên Đức Chúa Cha Hằng Hữu để đền tạ cho những yếu hèn và tội lỗi của chúng ta. Vì vậy không một người nào kết hiệp với Chúa Giêsu trong lòng Giáo Hội của Người phải tuyệt vọng khi sắp bước qua ngưỡng cửa khủng khiếp rời bỏ sự sống thế gian này dù không còn một tia sáng hoặc chút an ủi nào. Họ phải nhớ rằng không một Kitô hữu nào bị buộc phải bước vào sa mạc đen tối này một mình mà không được bảo vệ vì Đức Giêsu đã trút hết cảm giác bị ruồng bỏ cả thể xác lẫn tâm hồn của chính Người vào vực thẳm của hoang tàn trên Thập Giá, do đó tín hữu không phải một mình đối phó với tử thần hoặc phải từ bỏ cuộc đời này trong đau thương tinh thần, không một chút an ủi từ trên ban cho. Vì vậy cần loại bỏ tất cả những sợ hãi cô đơn thất vọng trong giờ chết, vì Đức Giêsu là ánh sáng thật, là Đường, là sự Thật và là Sự Sống đã đi trước chúng ta trên con đường khủng khiếp này, đã trải phúc lành của Người đều khắp và đã đưa cao Thập Giá của Người trên chúng ta; vậy chỉ cần ngước nhìn Thập giá một lần là sẽ đủ sức dẹp tan mọi sợ hãi. Đức Giêsu đã trối lại di chúc sau cùng của Người trước mặt Cha Người (nếu chúng ta có thể nói như vậy), và trao tất cả công trạng của cuộc khổ nạn và cái chết của Người cho Giáo Hội và cho kẻ có tội. Người không quên bất cứ linh hồn lầm lạc nào. Người nghĩ đến từng người một. Người cũng cầu nguyện cho những người lạc giáo, là những người đã hết sức chứng minh rằng một khi là Chúa thì Người không thể cảm thấy đau khổ như một con người phải chịu trong vị thế của Người. Tiếng la Người cho phép xuất ra từ đôi môi Người trong cơn hấp hối tột độ không những chỉ để cho thấy Người bị đau đớn quá sức như thế nào nhưng còn để khuyến khích tất cả những linh hồn nào đang đau khổ mà vẫn tuyên xưng Thiên Chúa là Cha của họ thì hãy lấy tình con thảo tin tưởng mà đặt đau khổ của họ dưới chân Người.
Đúng vào khoảng ba giờ, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Eloi, Eloi, lamma sabacthani!" nghĩa là: "Lạy Chúa con! Lạy Chúa con! Sao Ngài bỏ con!"
Những lời này của Đức Chúa đánh tan bầu không khí yên tĩnh đã trùm lên mọi sự bấy lâu. Mấy người Pharisiêu quay lại nhìn Người và một tên nói: "Coi kià, Nó gọi ông Êlia!" và một tên khác nói: "Để xem ông Êlia có đến cứu nó không." Khi Đức Mẹ nghe tiếng kêu của Con thần linh của Mẹ, thì người không thể cầm lòng được nữa. Người lại lao mình đến chân thập giá, theo sau là ông Gioan, bà Maria con gái của ông Clêopha, bà Mađalêna, và bà Salômê.
Một toán khoảng ba mươi người cỡi ngựa từ Giuđê và vùng phụ cận Gióppa trên đường tới Giêrusalem dự lễ vừa đến đó khi đám người vừa là thừa hành vừa là khán giả cuộc đóng đanh Đức Giêsu đang lo âu khiếp đảm lặng lẽ chung quanh thập giá. Khi họ thấy sự đối xử tàn bạo mà Đức Giêsu phải chịu và những hiện tượng khác thường trong thiên nhiên, họ lớn tiếng tỏ sự ghê tởm và la lớn: "Nếu không có Đền Thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem thì thành phố độc ác này phải bị đốt ra tro vì đã phạm tội ác kinh khủng như vậy."
Những phát biểu đó của khách lạ hiển nhiên thuộc giai cấp quý tộc đánh mạnh vào tâm lý đám dân chung quanh khiến tiếng kêu ca và than khóc nổi lên khắp nơi; một số họp thành từng nhóm công khai phát biểu buồn phiền của họ nhưng vẫn còn một số tiếp tục lộng ngôn và lăng mạ mọi người chung quanh. Tuy nhiên, người Pharisiêu buộc phải có một giọng điệu khiêm nhường hơn vì họ sợ dân chúng nổi loạn đang khi sẵn có tình trạng rối ren trong dân Giêrusalem. Họ liền thảo luận với quan bách quân Abênađa, và đồng ý là phải đóng cổng thành ở gần đó lại để tránh mọi thông tin liên lạc. Và để tránh trường hợp nổi loạn họ phải gửi 500 lính cho Philatô và Hêrôđê. Trong khi đó, Abênađa cố hết sức duy trì trật tự và ngăn không cho bọn Pharisiêu nhục mạ Đức Giêsu để khỏi làm cho dân chúng tức giận thêm nữa.
Sau ba giờ, bầu trời sáng lên một chút, và mặt trăng bắt đầu lùi xa mặt trời rồi mặt trời lại sáng ra mặc dù đó là một thứ ánh sáng nhợt nhạt trông như sương mù đỏ chung quanh. Từ từ ánh mặt trời chiếu rọi trở lại, và các ngôi sao biến dạng, nhưng bầu trời vẫn còn u buồn. Khi thấy ánh sáng trở lại bọn thù nghịch với Đức Giêsu lại lấy lại thái độ hỗn xược cố hữu và la lên: "Đó, nó gọi ông Êlia đó."
-------------------
CHƯƠNG XXXV
ĐỨC GIÊSU TỪ TRẦN. LỜI THỨ NĂM, SÁU VÀ BẢY TRÊN THẬP GIÁ
Khi trời sáng rõ có thể thấy thân thể Đức Giêsu trên thập giá, nhợt nhạt, yếu ớt, hoàn toàn kiệt quệ, trắng bệch vì mất quá nhiều máu. Tôi nghe Người nói, không biết đó là lời cầu nguyện mà chỉ mình tôi được nghe, hay phát ra thành tiếng mà mọi người có thể nghe được: "Thầy bị đè bẹp như chùm nho bị giẫm nát trong thùng ép rượu. Thầy phải đổ hết máu mình ra cho đến khi chỉ còn nước, nhưng sẽ không còn làm rượu ở đây nữa."
(Để giải thích cho những lời này, Chân Phước Anna Catêrina được thấy một thị kiến, và người kể lại như sau:) Sau trận lụt đại hồng thủy, tôi thấy Tổ Phụ Giaphát, một người già cao lớn, da sậm, đóng trại với con cháu và các đàn vật trên đồi Canvê. Lều trại của họ đều chìm trong mặt đất, mái lợp bằng đất trên đó thực vật và hoa cỏ đang mọc. Cây nho mọc khắp nơi và rượu được làm từ núi Canvê theo một cách mới, do chính Giaphát trông coi. Tôi cũng thấy nhiều cách chuẩn bị và sử dụng rượu trước đây, và nhiều trường hợp có liên hệ đến chính chất rượu, trong đó tôi chỉ nhớ cách sau đây: lúc đầu, nho chỉ dùng để ăn; dần dà nho được ép trong các rãnh bằng đá với bục gỗ, và sau cùng người ta sử dụng trục lăn và chầy lớn bằng gỗ cũng vào mục đích ấy. Nhưng trong thời kỳ của Giaphát, tôi thấy một loại máy ép mới được sáng chế, hình dạng rất giống Thánh Giá. Thân của một cái cây rỗng có đường kính lớn, được dựng thẳng đứng, và trong đó nho được treo trong các túi mà nước cốt có thể chảy xuyên qua. Ép vào các túi là một cái chầy và khối gỗ. Ở hai bên của thân cây rỗng và trực tiếp chạm đến các túi là những quai bằng gỗ có thể di chuyển lên xuống để nghiền nho. Do đó nước cốt ép chảy qua năm lỗ đục trên thân rỗng dẫn xuống một cái chum khoét trong đá. Từ đây nước cốt ép chảy xuống một máng làm bằng hai miếng vỏ cây, mỗi miếng được lấy ra từ một cái cây cưa đôi từ trên xuống dưới. Hai nửa này, được ráp với nhau, sau đó được bọc bằng các que gỗ nhỏ, và trét nhựa giữa các chỗ hở. Từ máng sau cùng này, nước nho chảy xuống một hầm chứa bằng đá trong đó Đức Chúa đã bị tống giam trước khi bị đóng đinh. Vào thời của Giaphát chỗ này thuần tuý để chứa nước. Tôi thấy các vết nứt của chum gỗ được che phủ với đất và đá để được bảo vệ tốt hơn. Ở dưới chân máy ép và chum đá có đặt một tấm lưới trên các vết nứt để chặn vỏ nho thường thoát ra từ chỗ đó. Khi máy ép sẵn sàng làm việc, họ đổ đầy nho vào các túi, rồi treo trong thân cây rỗng, đóng đinh giữ chặt, đặt những cái chầy ở miệng túi, và bắt đầu giã lên xuống, để nước nho chảy ra. Tôi thấy một người khác bận rộn ở trên đỉnh máy ép, giữ cho nho không bị trào ra ngoài. Những điều này đặc biệt nhắc nhở tôi đến sự kiện Đức Giêsu bị đóng đinh, vì có sự tương đồng nổi bật giữa máy ép và thập giá. Họ cũng có một ống dài ở đầu có gai nhọn, giống như trái gai và họ dùng cây này đâm qua các kẽ hở và máy ép bất cứ khi nào bị nghẹt. Ống này làm tôi nhớ đến cây giáo và bọt biển. Tôi thấy xếp đứng ở chung quanh là cái bình bằng da và các máng bằng vỏ cây có trét nhựa. Tôi thấy nhiều thanh thiếu niên, thắt đai lưng như Đức Giêsu thường mang, đang làm việc ở đây. Ông Giaphát rất già. Ông mặc áo da thú và có râu dài.
Ông rất hài lòng khi nhìn máy ép nho kiểu mới. Một buổi lễ được tổ chức, và trên một bàn thờ bằng đá có đặt của lễ là các thú vật được phép chạy trong vườn nho gồm có lừa, dê, và cừu non.
Giờ đây Đức Giêsu hoàn toàn kiệt quệ. Với lưỡi khô khốc Người thốt lên: "Tôi khát!" Và khi bạn hữu buồn bã nhìn lên Người thì Người nói với họ: "Các người không thể cho tôi được một chút nước sao?" Người muốn nói là trong khi trời tăm tối không ai ngăn cản họ thi hành điều đó cả. Ông Gioan bối rối khi nghe lời Người, và ông trả lời: "Chúa ơi, chúng con quên mất!" Đức Giêsu nói tiếp: "Các bạn thân cũng như hàng xóm của tôi đều phải quên tôi và không cho tôi uống nước, để Kinh Thánh được ứng nghiệm." Sự quên sót này thật cay đắng đối với Người. Khi nghe lời Người than phiền, các bạn hữu Chúa cho lính canh tiền và nài nỉ chúng cho phép họ đưa cho Người chút nước uống. Nhưng chúng không chịu, thay vào đó chúng nhúng miếng bọt biển vào dấm, đựng trong cái thùng gần đó, và đổ một ít mật đắng lên. Nhưng viên quan bách quân Abênađa, người có lòng thương cảm Đức Giêsu, đã lấy miếng bọt biển từ tay người lính, vắt hết mật đắng ra, và lấy ít giấm mới đổ vào. Sau đó ông cột vào đầu cành hương thảo, để dễ uống, và tất cả được gắn vào đầu ngọn giáo. Ông cẩn thận nâng ngọn giáo lên để cành hương thảo dốc vào miệng Đức Giêsu và nhờ thế Người có thể hút giấm từ miếng bọt biển.
Trong những lời mà tôi nghe Đức Chúa cảnh cáo dân chúng, tôi chỉ nhớ Người nói: "Khi miệng tôi không còn lên tiếng được nữa, thì miệng của người chết sẽ lên tiếng"; và rồi vài người mục kích kêu lên: "Hắn vẫn còn phạm thượng!" Nhưng Abênađa bắt chúng phải nín thinh.
Đã đến giờ của Đức Chúa. Người đang chiến đấu với tử thần, và mồ hôi lạnh toát ra từ tứ chi. Ông Gioan đứng gần thập giá lau chân Đức Giêsu với áo choàng hai thân của ông (như áo Đức Bà lớn che ngực và lưng). Bà Mađalêna, tan nát vì buồn phiền, đứng tựa người vào sau lưng thập giá. Đức Trinh Nữ, có bà Maria Clêopha và bà Salômê đỡ hai cánh tay, đứng giữa Đức Giêsu và tên trộm lành, người đăm đăm nhìn Con mình đang hấp hối. Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" và ngẩng đầu lên Người kêu lớn: "Cha ơi, con xin phó linh hồn con trong tay Cha!" Tiếng kêu rõ ràng vang dội cả Thiên Đàng và trái đất. Sau đó Người gục đầu xuống và trao thần khí. Tôi thấy linh hồn Người như một sao băng sáng chói xuyên qua mặt đất nơi chân thập giá xuống Lâm bô. Ông Gioan và các bà thánh thiện phủ phục cúi mặt sát đất.
Viên sĩ quan Abênađa, người gốc Ả Rập sau này được rửa tội với tên là Têsiphon, kể từ lúc đưa giấm cho Đức Giêsu uống, vẫn ngồi trên ngựa gần mô đất chỗ dựng các thập giá, chăm chú nhìn diện mạo Đức Giêsu, ông bị xúc động tột độ. Con ngựa cúi đầu như sợ hãi, Abênađa đã hoàn toàn trở nên con người mới, khiêm tốn. Khi Đức Chúa thốt lên những lời cuối thật rõ ràng, mạnh mẽ, khi Người từ trần với tiếng kêu vang vọng khắp Thiên Đàng và mặt đất, và cả Hoả Ngục, mặt đất rung chuyển và phần đất đá ở giữa Người và tên trộm bên trái bị nứt ra trong tiếng động mạnh. Tiếng kêu ấy vang dội như lời cảnh cáo, khuấy động sợ hãi và làm rúng động thiên nhiên đau buồn. Thế là hết! Linh hồn Đức Chúa đã lìa khỏi xác! Tiếng kêu kết liễu của Đấng Cứu Thế đang hấp hối đã thức tỉnh những người nghe thấy; ngay cả trái đất, qua gợn sóng nhấp nhô, dường như cũng nhận ra Đấng Cứu Thế, và một lưỡi gươm đau buồn sắc bén đâm thâu qua tim của những người yêu mến Đức Giêsu. Sau đó chính ơn sủng đã thấm vào linh hồn Abênađa. Con ngựa run rẩy dưới sức nặng của ông, như choáng váng vì cảm xúc; sau đó chính ơn sủng đã chiến thắng tâm trí cao ngạo, cứng rắn như đá núi Canvê. Ông ném ngọn giáo xuống đất và, nắm chặt bàn tay, ông đập mạnh vào ngực rồi lớn tiếng kêu bằng giọng nói của một người hoán cải: "Chúc tụng Thiên Chúa Toàn Năng, Thiên Chúa của Abraham và Giacóp! Đây là Người công chính! Quả thật, Người là Con Thiên Chúa!" Và nhiều người lính, xúc động sâu xa bởi lời của ông, cũng theo gương ông.
Abênađa, giờ đây là một con người mới, đã được cứu độ, công khai thờ lạy Con Thiên Chúa và không còn phục vụ kẻ thù của Người nữa. Ông xoay ngựa về phía Cátsiô, viên sĩ quan phụ tá thường được gọi là Longinô, rồi xuống ngựa, nhặt lưỡi giáo lên, đưa cho Cátsiô và nói vài lời với ông này cùng toán lính. Ông Cátsiô lên ngựa đảm nhận trách nhiệm. Sau đó Abênađa vội vã xuống núi Canvê đi qua thung lũng Gihôn đến các hang ở thung lũng Hinnom, là nơi các môn đệ đang ẩn trốn, và ông cho họ biết về cái chết của Đức Chúa, sau đó ông vội vã vào thành phố và đi thẳng đến dinh Philatô.
Sự sợ hãi bao trùm tất cả vào lúc Đức Giêsu kêu lên tiếng sau cùng, khi mặt đất rung chuyển và đá gần thập giá nứt ra. Một cảm giác sợ hãi lan tràn khắp vũ trụ. Tấm màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi, người chết sống lại từ các mồ mả, tường vách trong Đền Thờ sụp xuống, trong khi núi non và dinh thự sụp đổ ở nhiều nơi trên thế giới.
Sau khi ông Abênađa công khai tuyên xưng đức tin vào thần tính của Đức Giêsu, thì một số lớn binh lính đã noi theo gương ông cũng như nhiều người hiện diện lúc đó, và cả một số người Pharisiêu cũng đã hoán cải. Nhiều người đấm ngực, than khóc rồi trở về nhà, trong khi nhiều người khác xé áo và rắc bụi đất lên đầu. Tất cả hoàn toàn sợ hãi và khiếp đảm.
Sau cùng ông Gioan đứng dậy. Một số các thánh nữ, đến lúc bấy giờ vẫn còn đứng ở xa xa, giờ đây tiến đến vòng đai, họ đỡ Đức Mẹ và các bà bạn dậy rồi dìu ra xa.
Khi Đức Giêsu, Đức Chúa của Sự Sống, phó linh hồn trong tay Cha của Người, và cho phép sự chết chiếm đoạt thân xác Người, thì thân thể rất thánh rung lên và trở nên xanh xao, máu đông đặc bao vô số những vết thương nay trông như những vết bầm tím, đôi má hóp xuống sâu hơn, sống mũi nhọn hơn, đôi mắt phủ đầy máu như hé mở. Người ngẩng đầu mỏi mệt lên đôi chút khi đó vẫn còn đội mão gai, và rồi lại gục đầu xuống trong cơn hấp hối đau đớn, trong khi đôi môi xe cứng méo mó hé mở cho thấy lưỡi Người đầy máu. Lúc chịu chết, đôi tay Người từng co rút chung quanh đầu đinh, giờ đây mở ra và trở lại hình dạng tự nhiên cũng như những cánh tay của Người vậy. Thân xác Người cứng đơ, toàn thể trọng lực nay đựa vào hai bàn chân, đầu gối co lại và hai bàn chân hơi vẹo về một phía.
Khi đôi tay của Đức Giêsu cứng lại, đôi mắt của Mẹ Người càng mờ dần, cái xanh xao của sự chết lan tràn trên diện mạo người, chân người lảo đảo, và toàn thân lún xuống đất. Bà Mađalêna, ông Gioan và những người khác, kiệt quệ vì buồn phiền, cũng quỵ xuống.
Than ôi, làm sao có thể tả được nỗi đau đớn sâu xa của Đức Thánh Trinh Nữ? Mắt người nhắm nghiền lại, khuôn mặt nhợt nhạt như đã chết rồi không còn đứng nổi. Mẹ té xuống đất nhưng thánh Gioan, bà Mađalêna và những người khác vội đến nâng Mẹ dạy. Một lần nữa Mẹ nhìn lên người Con yêu qúi của Mẹ--người Con mà Mẹ mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, là xương thịt của người, là con tim của người -- là máng chuyển linh thiêng được hình thành khi Thánh Thần Thiên Chúa rợp bóng trên người, giờ đây bị tước đoạt mọi vẻ mỹ miều và lịch thiệp treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp, nhục nhã, bị chính những kẻ mà Người xuống thế để cứu chuộc lên án; và lúc này đây có thể nói Mẹ là 'Nữ Vương của Các Thánh Tử Đạo!'
Mặt trời vẫn mờ nhạt như bị sương mù che phủ, và trong thời gian xảy ra động đất không khí ngột ngạt oi ả, nhưng từ từ trời sáng tỏ và mát hơn.
Khoảng ba giờ chiều thì Đức Giêsu tắt thở. Lúc đầu người Pharisiêu rất sợ hãi khi động đất xảy ra nhưng khi cơn chấn động qua đi thì họ bắt đầu lấy lại bình tĩnh và ném đá xuống vực thẳm và dùng giây để đo chiều sâu của vết nứt. Nhưng khi thấy rằng họ không thể chạm được tới đáy vực thì họ rất phân vân, lo âu lắng nghe những người sám hối đấm ngực than khóc và họ rời bỏ khu đồi Canvê. Rất nhiều người đi xem cuộc hành hình đã thực sự hoán cải và đại đa số họ trở về Giêrusalem lòng đầy sợ hãi. Lính Lamã được đặt tại các cổng thành và nhiều điểm trọng yếu của thành phố để ngăn ngừa một cuộc nổi loạn có thể xảy ra. Cátsiô còn ở lại đồi Canvê với khoảng 50 tên lính. Bạn hữu Đức Giêsu tập trung quanh Thập Giá, ngắm nhìn Đức Chúa chúng ta và khóc; nhiều bà trong số các thánh nữ đã trở về nhà và tất cả đều yên lặng lòng nặng trĩu buồn phiền.
---------------------------
CHƯƠNG XXXVI
TRẬN ĐỘNG ĐẤT. NGƯỜI CHẾT XUẤT HIỆN Ở GIÊRUSALEM
Khi Đức Giêsu kêu lớn tiếng và trao Thần Khí vào tay Cha Trên Trời, tôi thấy linh hồn Người, như một vòng tròn sáng láng, xuyên qua mặt đất dưới chân thập giá, có một đạo binh thiên thần hộ tống, trong đó có thiên thần Gabrien. Tôi cũng thấy một đám rất đông ma quỷ bị các thiên thần xua đuổi xuống vực thẳm và tôi nghe thấy Đức Giêsu truyền lệnh cho một số linh hồn trong Lâm Bô nhập trở lại thân xác của họ, hầu cho những người tội lỗi nhìn thấy họ mà sám hối vì sợ hãi đồng thời cũng để cho những linh hồn này làm chứng về thấn tính của Người.
Trận động đất tiếp sau cái chết của Đức Giêsu tạo ra một vết nứt sâu thẳm tại đồi Canvê cũng đã gây rất nhiều tổn thất tại nhiều nơi trên đất Pa-lé-x(ư)-tin nhưng hậu quả tại Giêrusalem còn khủng khiếp hơn nhiều. Tại đây dân chúng vừa mới hoàn hồn khi thấy ánh sáng mặt trời trở lại thì họ lại khiếp sợ gấp đôi vì những rung chuyển của vụ động đất và tiếng ầm ầm của nhà cửa thành quách sụp đổ khắp nơi tạo ra một cảnh hỗn loạn khó tả. Nỗi sợ hãi còn tăng gấp đôi khi những người chết xuất hiện bất thần chặn đầu bọn đốn mạt run như tàu lá đang đôn đáo chạy khắp nơi tìm chỗ ẩn trốn đồng thời nghiêm khắc trách móc và quở mắng chúng.
Các Thượng Tế vừa tiếp tục lễ sát tế Chiên Vượt Qua (bị gián đoạn khi bóng tối bất chợt đổ xuống) và đang vênh vang chiến thắng khi ánh sáng trở lại bỗng thấy mặt đất rung chuyển dưới chân họ, các tòa nhà kế bên đổ sụp, bức màn trong Đền Thờ bị xé đôi từ trên xuống dưới. Vì quá sợ hãi lúc đầu nên dân chúng bên ngoài hoàn toàn câm nín, nhưng sau một lúc họ bật lên tiếng la hét và than van. Nhưng trong Đền Thờ cảnh tượng không đến nỗi quá hỗn loạn như ta tưởng vì trật tự và luật lệ luôn luôn được áp đặt chặt chẽ, đặc biệt là những người vào dâng lễ vật và ra về sau lễ phải chấp hành nội quy nghiêm mật. Tuy đông đảo dân chúng nhưng lễ nghi do các vị tư tế cử hành rất trang nghiêm nên đã chiếm trọn sự chú ý của những người tham dự. Đầu tiên là việc sát tế Chiên, sau đó là lễ rảy huyết Chiên kèm với tiếng ca vịnh và tiếng kèn đồng. Các tư tế cố gắng tiếp tục tế lễ nhưng bất thình lình bị gián đoạn một cách vô cùng kinh hãi. Ai nấy mặt mày đều kinh ngạc và khiếp đảm tột độ. Tất cả đều hỗn loạn. Không một tiếng động. Việc tế lễ chấm dứt. Mọi người đều chạy thục mạng ra cửa Đền Thờ. Ai cũng cố chạy thật nhanh như bay vì run sợ khiếp đảm vì giữa đám đông này xuất hiện những người đã chết cách đó nhiều năm trước! Họ lạnh lùng nhìn dân chúng và nghiêm khắc quở mắng chúng vì tội ác tầy trời chúng đã phạm ngày hôm đó khi xử tử 'Người Công Chính' và còn kêu gào xin cho máu của Người này đổ xuống đầu chúng. Tuy trong cảnh hỗn loạn này, các tư tế cố giữ chút ít trật tự, ngăn không cho những người đang có mặt trong Đền Thờ tháo chạy ra ngoài, lấn vào đám đông đang chạy trước họ và đang leo xuống các bậc thang dẫn ra khỏi Đền Thờ. Họ còn cố tiếp tục lễ sát tế ở một vài chỗ, và cố trấn an lo sợ của dân chúng.
Bộ mặt của Đền Thờ lúc này có thể so sánh với một tổ kiến vĩ đại bị ném đá hoặc bị ai chọc gậy vào giữa tổ để quấy phá. Kiến ở những chỗ bị ném đá hoặc bị chọc gậy thảy đều hỗn loạn sợ hãi, chúng chạy đôn chạy đáo từ chỗ này sang chỗ kia không biết phải làm gì, trong khi những con kiến ở nơi không bị quấy phá thì tiếp tục yên lặng làm việc và ngay cả sửa lại những nơi bị hư hỏng.
Thượng Tế Caipha và đoàn tùy tùng không bị rối trí, vì lòng chai đá qủy quyệt nên chúng có thể giữ được vẻ bình tĩnh bên ngoài, do đó đã trấn an được đám đông tới một mức đáng kể, và làm hết sức mình để ngăn không cho họ nhìn thẳng vào những biến cố huy hoàng vĩ đại chứng tỏ sự vô tội của Đức Giêsu. Lực lượng lính Rôma đồn trú ở thành Antônia cũng hết sức cố gắng duy trì trật tự, vì vậy tình trạng rối loạn họ dự phòng trong các buổi lễ đã không biến thành một cuộc nổi dậy mặc dù mọi người đều lo âu sợ sệt, một nỗi lo âu mà phái Pharisêu cố hết sức trấn an và đã thành công phần nào.
Tôi còn nhớ vài việc nổi bật sau đây: Trước hết, hai cây cột lớn đặt ở lối vào cung Cực Thánh của họ trong Đền Thờ, nơi có treo một tấm màn che huy hoàng rực rỡ, đã lung lay tận đế, cột bên trái đổ xuống hướng Nam, cột bên phải ngả về phía Bắc khiến tấm màn vĩ đại bị xé làm đôi từ trên xuống dưới trong tiếng rít hãi hùng, để lộ cung Cực Thánh trần trụi dưới mắt mọi người. Một tảng đá lớn trong bức tường ở cửa vào Cung Thánh văng ra gần chỗ mà cụ già Simêon thường qùy cầu nguyện trước kia rơi xuống Hòm Bia đâp vỡ tan tành. Mặt đất trồi lên khiến nhiều cột khác cũng đổ ở nhiều nơi trong Đền Thờ.
Trong Cung Thánh, giữa cổng vòm và bàn thờ, Thượng Tế Dacaria từng đã bị giết trước đây bỗng dưng xuất hiện. Ông thốt ra những lời đe dọa, nói về cái chết của vị thượng tế Dacaria thứ hai , cũng như của Gioan Tẩy Giả, và về cái chết tàn bạo của những vị ngôn sứ khác. Hai người con của ông Simon mệnh danh là người Công Chính (tổ tiên của ông già Simêon, người đã nói tiên tri khi Đức Giêsu được dâng vào Đền Thờ) xuất hiện tại nơi mà các nhà luật sĩ thường ngồi; họ cũng nói những lời hãi hùng về cái chết của các ngôn sứ, về sự chấm dứt lễ tế theo lề luật cũ, và khuyến khích mọi người hiện diện hãy hoán cải và chấp nhận những giáo lý mà Người Bị Họ Đóng Đanh đã rao giảng.
Ngôn sứ Giêrêmia cũng xuất hiện; ông đứng gần bàn thờ và công bố bằng một giọng đầy đe dọa rằng lễ nghi hiến tế cũ đã chấm dứt và nghi lễ mới đã bắt đầu. Vì những lời nói và những cuộc xuất hiện này xảy ra trong những phần mà ngoài Caipha và một số ít những người khác ra không ai được vào nên họ cố gắng chối bỏ hoặc bưng bít sự thật này bằng mọi cách. Những điều lạ lùng này kéo theo nhiều sự kiện phi thường hơn nữa. Cửa Cung Thánh tự động mở toang, và người ta nghe những lời này: “Chúng ta hãy chiếm lấy chỗ này!" và tôi thấy các thiên thần Thiên Chúa lập tức ra khỏi Đền Thờ. Bàn đốt hương tự động trồi lên một độ cao và bình đựng hương bị lật đổ. Kệ để những cuộn Thánh Kinh bị sụp, và sách thánh lăn vãi khắp nơi. Rối loạn gia tăng đến độ người ta quên cả thời gian. Ông Nicôđêmô, ông Giuse Ariamathê và nhiều người khác rời Đền Thờ và bỏ đi. Các xác chết rải rác đây đó, nhiều xác khác còn lang thang trong các sảnh đường và lên tiếng cảnh cáo dân chúng. Khi có tiếng của các thiên thần kêu gọi rời bỏ Đền Thờ, thì người chết trở về với mồ mả của họ. Tòa giảng trong tiền đình vỡ tan từng mảnh. Hầu hết ba mươi hai người Pharisiêu lên đồi Canvê ít lâu trước khi Đức Chúa tắt thở đều đã hoán cải dưới chân Thánh Giá. Khi trở về Đền Thờ trong cơn hỗn loạn họ đều vô cùng kinh ngạc vì những gi đang xảy ra và sau khi nghiêm khắc trách mắng Anna và Caipha, họ mau lẹ rút lui. Anna là người thù nghịch nhất và đã chủ động mọi mưu mô thủ đoạn chống lại Đức Giêsu thì bây giờ lại bạc nhược nhất. Y không biết tìm chỗ nào để ẩn nấp nữa. Tôi thấy y rên rỉ khóc lóc, người y co giật như bị kinh phong và được khiêng tới một căn phòng bí mật có đầy tớ đứng chung quanh. Caipha thật ra cũng vô cùng hoảng sợ và lo lắng nhưng vì kiêu ngạo nên cố hết sức dấu nhẹm cảm nghĩ của mình và cố gắng trấn tĩnh Anna. Y thành công đôi chút nhưng sự xuất hiện đột nhiên của một người đã chết nhiều năm trước đã vô hiệu hóa lời nói của y và Anna tỏ ra vô cùng khiếp sợ và có dấu hiệu hối hận.
Khi Caipha không còn tiếp tục các nghi lễ được nữa, hắn tìm cách che đậy và ra lệnh người khác cũng phải che đậy mọi biến cố và những vụ hiện ra của người đã chết mà dân chúng chưa biết. Hắn tung tin và sai người khác vu lên rằng những sự hiện ra này là dấu chỉ của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, vì các môn đệ của tên Galilê bị đóng đinh đã gây ô uế cho Đền Thờ. Hắn nói, chỉ có kẻ thù của Lề Luật thiêng liêng mà tên Giêsu tìm cách lật đổ mới phải sợ hãi, và có thể gán nhiều điều này do ma thuật của tên Galilê tạo ra để gây xáo trộn trong Đền Thờ. Và kết quả là hắn đã làm một số người phải câm nín và đe dọa một số người yếu bóng vía khác. Tuy nhiên mặc dù cố che giấu cảm xúc của mình nhiều người cũng bị xúc động mạnh. Cuộc lễ bị gián đoạn vì những sự lạ kể trên khiến rất ít người ăn thịt Chiên Vượt qua tối hôm đó.
Ngôi mộ của ông Dacaria nằm dưới bức tường Đền Thờ bị lún và tiêu hủy, và hậu quả là một số viên đá tách khỏi bức tường. Ông đã rời bỏ nơi đó, và sẽ không trở lại nữa. Tôi không biết xác ông nay đặt nằm ở đâu. Hai người con của ông Simon Công chính, từng chỗi dậy từ mồ mả, lại trở về nằm xuống trong hầm mộ dưới núi Đền Thờ, nơi chuẩn bị táng xác Đức Giêsu.
Trong khi những điều này xảy ra ở Đền Thờ, thì một cảnh hoang mang tương tự cũng thấy ở nhiều khu phố Giêrusalem. Ngay sau ba giờ chiều, nhiều mồ mả rung động dữ dội, nhất là trong vùng Tây Bắc thành phố, nơi có nhiều khu vườn. Tôi thấy rải rác đây đó người chết nằm trong khăn liệm. Trong những nơi khác, chỉ có các đống mục nát, chỗ khác là xương khô, và từ nhiều nơi mùi hôi thối không chịu nổi. Ở toà Caipha, các bậc đá nơi Đức Giêsu bắt buộc phải đứng trên đó khi bị đám đê tiện nhạo cười đã bị lật ngược, và một phần lò sưởi trong sảnh đường nơi ông Phêrô chối Chúa lần đầu cũng thế. Sự tàn phá ở đây thật lớn lao đến nỗi phải xây một cổng ra vào mới. Thân xác của Thượng Tế Simon Giúttô (Justo - công chính) xuất hiện tại đây và đã thốt ra những lời đe dọa với bản án bất công đã tuyên bố chính nơi này. Một vài thành viên của Đại Công Nghị cũng có mặt. Những người mà đêm hôm trước bảo lãnh cho ông Phêrô và Gioan vào nay đã hoán cải. Họ tìm đến các hang nơi các môn đệ đang ẩn náu. Ở dinh Philatô, đá vỡ ra và toàn bộ nơi Đức Giêsu đứng trước đám đông bị sụp xuống. Tất cả quay cuồng dưới chấn động mạnh mẽ, và trong sân kế cận tòa án, nơi chôn cất các hài nhi vô tội bị Hêrôđê ra lệnh giết cũng sụp đổ. Tại nhiều nơi trong thành phố, tường bị đổ và nứt ra, nhưng không có dinh thự nào bị tiêu hủy. Philatô, do dự và mê tín, kinh hãi và không thể ban ra mệnh lệnh nào cả. Trận động đất đã rung chuyển dinh của ông. Nó đong đưa và run rẩy dưới chân khi ông trốn từ phòng này sang phòng kia. Người chết xuất hiện ở sân dưới, vạch cho ông thấy phán quyết sai quấy và mâu thuẫn của ông. Ông nghĩ các tiếng nói đó phát xuất từ thần linh của Ngôn Sứ Giêsu, bởi thế ông trốn trong một góc kín đáo trong dinh, ở đó ông đốt nhang cúng bái tà thần, hy vọng chúng sẽ làm cho thần linh của người Galilê không hại đến ông. Hêrôđê cũng ở trong dinh của y và, điên khùng vì sợ hãi đã ra lệnh đóng kín và ngăn chặn mọi lối ra vào.
Khoảng một trăm người chết thuộc nhiều thế hệ đã chỗi dậy trong thân xác từ các mồ mả vụn vỡ của họ ở Giêrusalem cũng như phụ cận. Hầu như họ đi từng đôi một đến nhiều nơi trong thành phố, gặp gỡ dân cư đang kinh hoàng trốn chạy, và làm chứng cho Đức Giêsu bằng những lời tố cáo, tuy ít nhưng rất mạnh mẽ. Hầu hết những ngôi mộ cổ này đứng chơ vơ trong thung lũng, dù nhiều ngôi mộ nằm trong các khu vực mới của thành phố, nhất là giữa các khu vườn về phía Tây Bắc, giữa cổng ở góc thành và chỗ dẫn đến nơi để đóng đinh. Ngoài ra, bên dưới và chung quanh Đền Thờ cũng có những ngôi mộ bí mật bị bỏ quên từ lâu.
Không phải thân xác của mọi người chết bị phơi bầy vì mồ mả nứt nẻ đều chỗi dậy. Nhưng chỉ có những người, mà linh hồn họ được Đức Giêsu sai lên mặt đất từ Lâm Bô, mới chỗi dậy, họ vất bỏ lớp bao phủ trên mặt và di chuyển, dọc theo các đường phố ở Giêrusalem đến với bạn hữu và bà con. Họ vào nhà con cháu họ, và khiển trách nặng nề những người này vì đã tiếp tay giết Đức Giêsu. Tôi thấy một số người chết hội họp, như thể bà con hay bạn hữu, và đi từng đôi một qua các đường phố. Tôi không thấy chân họ di động dưới khăn liệm dài. Họ như lướt trên mặt đất. Tay của một số người còn quấn trong vải, của người khác lại lủng lẳng dưới vai áo rộng. Vải che mặt được vắt lên đầu, và diện mạo vàng vọt, nhợt nhạt cùng với bộ râu dài trông thật khô khan và héo úa. Giọng của họ nghe rất lạ và bí hiểm, và những tiếng này, cộng với sự di chuyển không ngừng từ nơi này sang nơi khác, bất kể mọi việc chung quanh, là biểu lộ duy nhất ở bên ngoài của họ; quả thật dường như họ không có thật ngoại trừ tiếng nói. Y phục của họ khác nhau, tùy theo phong tục khi chết, tùy theo địa vị trong xã hội và tuổi tác của họ. Ở các ngã tư đường nơi thổi kèn công bố hình phạt của Đức Giêsu khi đám rước đến đồi Gôngôtha, họ đứng bất động vinh danh Đức Giêsu và nguyền rủa bọn phạm tội giết Người. Dân chúng đứng xa lắng nghe, run rẩy và bỏ trốn khi người chết trôi dạt về phía họ. Tôi nghe tiếng họ ở Diễn Đàn ngay đằng trước dinh Philatô lớn tiếng đe dọa. Tôi nhớ có lời: "Tên quan toà độc ác!" Dân chúng trốn trong các ngõ ngách bí ẩn nhất trong nhà. Sợ hãi cao độ lan tràn khắp thành phố.
-----------------------------------
CHƯƠNG XXXVII
ÔNG GIUSE ARIMATHÊ XIN XÁC ĐỨC GIÊSU
Khi xáo trộn trong thành phố vừa bắt đầu lắng dịu phần nào, thì thành viên Đại Công Nghị của người Do Thái liền cho người đến xin Philatô cho đánh dập ống chân của những người bị đóng đinh, để chấm dứt đời họ, trước khi ngày Sabát bắt đầu. Philatô lập tức sai một số cung thủ đến Canvê để thực hiện yêu cầu của họ.
Khi đó tôi thấy ông Giuse Arimathê xin được gặp Philatô. Ông được tin Đức Giêsu đã chết, và cùng với ông Nicôđêmô, ông quyết định táng xác Đức Giêsu vào một ngôi mộ mới đục trong đá ở cuối khu vườn của ông, không xa Canvê lắm. Tôi nghĩ rằng tôi đã thấy ông ở bên ngoài cổng vườn như để xem xét, hay thăm dò khu vườn này. Một vài đầy tớ của ông đã có mặt trong vườn, họ quét dọn và sắp xếp mọi sự bên trong ngôi mộ. Ông Nicôđêmô đã đi mua khăn liệm và thuốc thơm để chuẩn bị mai táng Đức Giêsu, và giờ đây đang chờ ông Giuse đến.
Ông Giuse thấy Philatô rất lo lắng và do dự. Ông không sợ hãi mà còn công khai ngỏ lời xin phép tháo xác Đức Giêsu, Vua của người Do Thái, xuống khỏi thập giá, và đặt trong ngôi mộ của chính ông. Sự lo sợ của Philatô càng gia tăng khi thấy một người rất có thế giá như vậy đang tha thiết nài nỉ xin phép tôn kính xác Đức Giêsu, người mà chính hắn đã gây nên cái chết nhục nhã trên thập giá. Sự vô tội của Đức Giêsu lại tái diễn trong đầu khiến hắn càng bứt rứt, nhưng trấn tĩnh lại hắn hỏi: "Vậy Ông ấy đã chết rồi sao?" vì hắn vừa mới sai cung thủ đi đánh dập ống chân của những người bị đóng đinh để sớm kết thúc đời họ. Hắn cho gọi viên quan bách quân Abênađa, vừa trở về từ các hang động nơi ẩn náu của các môn đệ để hỏi xem Vua dân Do Thái đã chết thật chưa. Abênađa kể lại cái chết của Đức Chúa vào khoảng ba giờ, những lời cuối của Người, và tiếng kêu lớn của Người cùng trận động đất và núi non nứt nẻ. Philatô làm như hơi ngạc nhiên, vì thường thường người bị đóng đinh sống lâu hơn, nhưng trong thâm tâm hắn rất lo sợ và bối rối vì sự trùng hợp của những dấu hiệu xảy ra cùng lúc với cái chết của Đức Giêsu. Có lẽ vì muốn bào chữa phần nào cho hành động tàn ác của mình, lập tức hắn ký lệnh cho ông Giuse Arimathê qua đó hắn trao xác Vua dân Do Thái cho ông này sau khi tháo khỏi thập giá và đem đi chôn cất. Hắn tỏ vẻ vui sướng vì như vậy hắn có thể chọc tức các Thượng Tế, là bọn người muốn chôn Đức Giêsu một cách nhục nhã với hai tên trộm. Người được Philatô sai đi trông coi việc thi hành lệnh trên, có lẽ là viên quan bách quân Abênađa, vì tôi thấy ông hiện diện khi đem Đức Giêsu xuống khỏi thập giá.
Ông Giuse Arimathê từ giã Philatô đến gặp ông Nicôđêmô, đang đợi ông ở nhà một phụ nữ thế giá. Bà ở trên đường phố lớn gần con hẻm nhỏ nơi Đức Chúa chúng ta, ngay khi bắt đầu Đàng Thánh Giá Cay Đắng, đã phải gánh chịu sự nhục nhã lớn lao. Ở đây ông Nicôđêmô đã mua rất nhiều cỏ thơm để ước xác, vì bà buôn bán những loại này. Bà kiếm được từ các nơi khác nhiều loại thuốc thơm mà tiệm của bà không có, cũng như băng vải để dùng trong cùng một mục đích, tất cả được bà cuộn lại thành một gói cho dễ mang đi. Ông Giuse Arimathê cũng tự mình đi mua khăn vải, rất mịn và đẹp, dài chừng sáu thước, rộng vài thước. Các đầy tớ của ông đem thang, búa, đinh, bình nước, chậu, bọt biển, và tất cả những gì cần thiết lấy từ nhà kho của ông Nicôđêmô cho công việc sắp thực hiện. Các vật dụng nhỏ thì chứa trong một xe ba gác, rất giống như xe được các môn đệ dùng để đưa xác ông Gioan Tẩy Giả từ dinh Hêrốt về.
CẠNH SƯỜN ĐỨC GIÊSU BỊ MỞ RA. ĐẬP VỠ ỐNG CHÂN HAI TÊN TRỘM.
Trong khi đó thì không khí tại đồi Gôngotha thật im lặng thê lương. Đám đông hỗn loạn ồn ào đã giải tán, tất cả đều hoang mang sợ hãi, một số đấm ngực sám hối, số khác không được ơn này. Thân Mẫu Đức Giêsu, ông Gioan, bà Mađalêna, bà Maria Clêopha, và bà Salomê kẻ đứng người ngồi phía trước thập giá, đầu đội khăn và khóc thầm. Một số lính canh đứng dựa vào bức tường phía Đông, giáo cắm xuống đất. Ông Cátsiô cưỡi ngựa đi chung quanh, và lính tráng trò chuyện với nhau ở những trạm gác bên dưới. Bầu trời thấp; tất cả cảnh vật thiên nhiên như đang trong tình trạng tang tóc. Trong khung cảnh ấy, có sáu cung thủ đang đi lên đồi đem theo thang, giây nhợ, cuốc xẻng, và các thanh sắt to và nặng để đập bể ống chân người bị đóng đinh.
Khi họ đi vào vòng đai, bạn hữu của Đức Giêsu hơi lùi lại. Một sự sợ hãi khác lại xâm chiếm tâm hồn Đức Trinh Nữ vì Mẹ sợ rằng thân thể Đức Giêsu lại bị xúc phạm thêm nữa, vì các cung thủ leo lên thang, thô bạo sờ đến thân thể thần linh và tuyên bố rằng Người chỉ giả vờ chết. Mặc dù chúng cảm thấy Người lạnh cứng, nhưng chúng không tin rằng Người đã chết. Kế đó, bọn cung thủ dựa thang vào các thập giá của hai tên trộm. Với cây gậy sắc bén, hai người đập bể xương phía trên và dưới khuỷu tay của chúng, trong khi người thứ ba đập bể phần trên đầu gối và mắt cá chân. Tên Gétma rống lên một cách ghê sợ, hậu quả là các lý hình đã kết thúc đời hắn với ba nhát búa vào ngực. Đima rên rỉ đau đớn, và tắt thở. Anh ta là người đầu tiên được hạnh phúc theo chân Đấng Cứu Chuộc anh. Các cung thủ tháo giây trói và xác chết rơi xuống mặt đất. Chúng cột giây rồi kéo xác xuống thung lũng nằm giữa núi và bức tường thành phố để chôn ở đó.
Bọn cung thủ dường như vẫn hồ nghi về cái chết của Đức Chúa, và bạn hữu Người, sau khi chứng kiến cảnh tượng kinh khủng vừa kể, càng lo ngại chúng sẽ trở lại. Cátsiô, sĩ quan phụ tá, sau này được gọi là Longinô, một thanh niên trạc hai mươi lăm tuổi, mắt lé và cân thị nên cử chỉ vụng về lăng xăng thường bị các bạn diễu cợt, bỗng dưng được ơn soi sáng. Hành động hung bạo của đám cung thủ, sự đau khổ của các thánh nữ đã khiến anh ta quyết định giúp làm vơi bớt nỗi sợ hãi của họ bằng cách chứng minh rằng Đức Giêsu thật sự đã tắt thở. Nhờ lòng tốt đã thúc đẩy Cátsiô, nhưng vô tình anh ta đã hoàn tất một sấm ngôn. Cátsiô nắm lấy cây giáo và thúc nhanh ngựa lên đồi nơì dựng Thập Giá Chúa, ngừng giữa thập giá tên trộm lành và Thập Giá Đức Giêsu, rồi hai tay nắm chặt ngọn giáo, anh ta đâm sâu vào cạnh sườn bên phải của Đức Giêsu mạnh đến nỗi lưỡi đòng xuyên qua trái tim và lòi ra ngoài ở cạnh sườn bên trái. Khi Cátsiô rút ngọn giáo ra khỏi vết thương thì máu và nước vọt ra từ đó và chảy xuống mặt và thân thể của anh ta. Cách rửa này tạo ngay hậu quả có thể so sánh gần như mạch nước Tái Sanh của Phép Rửa Tội: ơn sủng và ơn cứu độ lập tức đổ vào tâm hồn anh ta. Cátsiô từ lưng ngựa nhẩy xuống, sấp mình qùy trên đầu gối, đấm ngực và mạnh mẽ tuyên xưng trước mặt mọi người thần tính của Đức Giêsu.
Đức Trinh Nữ, ông Gioan, và các bà đạo đức, mắt vẫn dán chặt vào Đức Giêsu, bỗng kinh hoàng trước hành động đột ngột của Cátsiô, đều nhất loạt chạy vội đến bên thập giá. Đức Maria trông như bị ngọn giáo đâm thủng chính trái tim Mẹ thay vì đã đâm thâu qua trái tim Người Con Thần Linh của Mẹ, và không còn đứng vững được nữa. Cátsiô trong lúc đó vẫn qùy gối và tạ ơn Chúa, không những vì ơn sủng đã nhận được nhưng đồng thời đôi mắt kém và lé trước kia cũng được chữa lành. Sự được lành bệnh này xảy ra cùng lúc với việc thoát khỏi bóng tối trước kia vẫn ngự trị trong linh hồn anh. Mọi người đều xúc động trước cảnh Máu Thánh Chúa tuôn đổ vào một hốc đá dưới chân Thập Giá. Đức Maria, thánh Gioan, các thánh nữ và Cátsiô, thu Bửu Huyết và nước này đựng trong bình và lấy khăn lau sạch phần còn đọng lại.
Cátsiô mà thị giác đã được phục hồi cùng lúc với mắt linh hồn được mở ra đã xúc động sâu xa, tiếp tục khiêm tốn dâng lời cầu nguyện tạ ơn. Binh sĩ hết sức kinh ngạc vì phép lạ này nên cũng qùy gối sấp mình xuống bên cạnh Cátsiô, đồng thời đấm ngực và tuyên xưng Đức Giêsu. Máu và nước từ vết thương lớn cạnh sườn Đức Giêsu tiếp tục chảy và đổ vào hốc đá. Các thánh nữ thâu tóm vào bình trong khi những giọt lệ thảm thiết của Đức Mẹ và bà Mađalêna rơi xuống hòa lẫn với Máu Thánh Chúa. Các cung thủ đã nhận lệnh của Philatô không được động đến thân thể Đức Giêsu thì không trở về nữa.
Tất cả những biến cố này xảy ra gần Thánh Giá Chúa trước bốn giờ chiều một chút, trong khi ông Giuse Arimathê và ông Nicôđêmô đang mua sắm những thứ cần thiết cho việc mai táng Đức Kitô. Các đầy tớ mà ông Giuse sai đi dọn sạch ngôi mộ đã thông báo cho các bạn của Đức Giêsu rằng chủ của họ muốn đem thi hài Người mai táng trong ngôi mộ của chính ông. Lập tức ông Gioan đưa các bà về thành phố ngay, trước hết là để Đức Maria có thể nghỉ ngơi hầu lấy lại đôi chút sức khoẻ, sau đó là để mua sắm vài thứ lặt vặt cần cho việc chôn cất. Khi bạn hữu của Đức Giêsu trên đồi Gôngôtha được các đầy tớ ông Giuse cho biết là chủ của họ đã được phép của Philatô đem Thân Thể Thần Linh Đức Giêsu và đặt trong chính ngôi mộ của ông Giuse, thì lập tức ông Gioan và các bà đạo đức trở về thành phố để Đức Trinh Nữ có thể nghỉ ngơi đôi chút. Đức thánh Trinh Nữ có một căn nhà nhỏ nằm giữa những dinh thự gần Nhà Tiệc Ly. Họ không trở về thành phố qua cổng gần đồi Canvê nhất vì cổng này đã bị đóng và có lính của phe Pharisiêu sai đi canh gác, nhưng mà các vị đi qua cổng về phía Bêlem.
----------------------
CHƯƠNG XXXVIII
THÁO XÁC ĐỨC GIÊSU XUỐNG KHỎI THẬP GIÁ
Trong khi chỉ còn vài người lính gác đứng chung quanh thập giá, tôi thấy khoảng năm người đến từ Bêtania. Họ đến gần đồi Canvê, nhìn lên thập giá một hồi, rồi sau đó len lén ra đi. Tôi nghĩ chắc họ là các môn đệ. Ba lần tôi thấy hai người ở gần đó như đang quan sát và lo âu bàn tính với nhau. Đó là ông Giuse Arimathê và ông Nicôđêmô. Lần đầu tiên là trong khi Đức Chúa bị đóng đinh. (Có lẽ lúc đó họ cho người nhắn với binh sĩ đem quần áo của Đức Giêsu đến cho họ mua) khi đó họ không cách xa đồi Canvê bao nhiêu. Lần thứ hai là sau khi họ đảo mặt nhìn quanh xem đám đông đã giải tán chưa, rồi họ đến mộ để chuẩn bị. Lần thứ ba là khi từ ngôi mộ trở về Thập Giá họ nhìn tứ phía có vẻ như chờ lúc thuận tiện và họ thảo luận về cách thức làm thế nào để tháo xác Đức Giêsu xuống khỏi Thập Giá, sau đó họ quay lại thành phố.
Giai đoạn kế tiếp là chuẩn bị đem theo những thứ cần thiết để tẩm liệm xác, và cho gia nhân của họ mang thang và một số dụng cụ khác để tháo gỡ thi thể Đức Giêsu xuống khỏi Thập Giá. Họ cũng cho mang theo hai cái thang khác mà họ tìm thấy trong một nhà kho cạnh nhà ông Nicôđêmô. Mỗi chiếc thang chỉ gồm có một cây cột duy nhất và ở những khoảng cách đều nhau có những thanh gỗ xuyên ngang qua thân cột để làm bậc. Có những móc sắt có thể móc vào bất cứ chỗ nào trên thân thang để giữ vững cho thang khỏi bị rung, hoặc để treo bất cứ vật dụng nào cần thiết mà công việc đòi hỏi.
Người phụ nữ tốt lành bán thuốc thơm dùng trong việc ướp xác đã gói mọi thứ cho họ. Ông Nicôđêmô mang theo một trăm cân rễ cây thuốc thơm, tính ra khoảng ba mươi bảy "pound" thời nay. Họ đựng thuốc thơm trong các thùng nhỏ làm bằng vỏ cây và đeo vào cổ thòng trước ngực. Một trong các thùng đựng một loại bột. Trong các túi làm bằng da có nhiều bó lá thơm. Ông Giuse còn mang theo một hộp dầu. Tôi không biết hộp đó làm bằng gì nhưng nó mầu đỏ và có vành mầu xanh. Các đầy tớ phải mang theo bình đất, lọ da, bọt biển và dụng cụ trên một loại cáng và họ đem theo lửa trong đèn lồng kín gió.
Họ rời thành phố trước các ông chủ của họ bằng một cổng khác (tôi nghĩ là cổng Bêtania) và hướng về núi Canvê. Trên đường băng qua thành phố, họ đi ngang căn nhà mà Đức Trinh Nữ, ông Gioan và các bà thánh thiện đang chuẩn bị những vật liệu cần thiết để tẩm liệm xác Đức Chúa. Tất cả nhập đoàn với các đầy tớ và đi theo xa xa. Có khoảng năm phụ nữ, một số mang theo những cuộn vải lớn dưới áo choàng. Tục lệ của phụ nữ, khi họ ra ngoài buổi chiều, hoặc muốn kín đáo thực hiện một công tác đạo đức nào thì thường quấn vào người một tấm vải dài, chiều rộng chừng 1 mét. Họ bắt đầu quấn chung quanh một cánh tay, rồi quấn chặt quanh thân mình do đó họ di chuyển không được dễ dàng lắm. Tôi đã trông thấy họ quấn như vậy và tấm vải không chỉ quấn qua cả hai cánh tay nhưng cũng trùm cả lên đầu nữa. Trong dịp này, y phục của họ đập vào mắt tôi vì rõ ràng đó là một tang phục. Ông Giuse và ông Nicôđêmô cũng mặc tang phục, tay áo màu đen và khăn quấn ngang thân thể. Áo choàng của các ông rộng dài và kéo qua đầu, màu xám và có thể che dấu được tất cả những gì họ mang theo. Họ đi về phía cổng thành lối lên núi Canvê. Phố xá văng hoe và yên lặng vì khiếp sợ nên mọi người đều ở trong nhà. Đa số bắt đầu sám hối nhưng một số ít vẫn tiếp tục giữ lễ như thường. Khi hai ông Giuse và Nicôđêmô tới cổng thì cổng đã đóng, và các ngả đường, phố xá và góc đường đều có lính canh. Binh lính này do phe Pharisiêu yêu cầu bố trí lúc hai giờ chiều có mang vũ khí và được lệnh canh chừng các nẻo đường vì họ sợ dân chúng làm loạn.
Ông Giuse đưa cho lính xem lệnh viết tay của Philatô để được đi qua. Lính tráng tỏ ý sẵn sàng tuân theo lệnh ấy, nhưng đồng thời giải thích rằng họ đã cố mở cổng nhưng vô ích, có lẽ cổng bị hư hại đâu đó sau trận động đất, và các cung thủ được sai đi đập dập ống chân cũng phải trở về qua cổng ở góc thành. Nhưng khi ông Giuse và ông Nicôđêmô nắm lấy chốt cửa, thì cổng tự động mở ra dễ dàng khiến những người đứng quanh đó đều vô cùng ngạc nhiên.
Trời vẫn nhiều mây và tối đen khi họ đến núi Canvê, ở đây họ thấy các đầy tớ mà họ sai đến, và các bà thánh thiện thì đang ngồi khóc trước thập giá. Ông Cátsiô và một vài người lính đã hoán cải đứng đàng xa, thái độ của họ rất thận trọng và kính cẩn. Hai ông Giuse và Nicôđêmô kể cho Đức Thánh Trinh Nữ và ông Gioan nghe về những điều họ đã làm để cứu Đức Giêsu thoát khỏi cái chết nhục nhã, và ngược lại họ được nghe các bà kể họ đã làm thế nào để ngăn không cho cung thủ đánh dập ống chân Đức Chúa, và Lời Tiên Tri đã được thể hiện như thế nào. Họ cũng nói về vết thương lớn cạnh sườn do ông Cátsiô đã dùng giáo đâm như thế nào. Ngay khi quan bách quân Abênađa đến nơi, họ bắt đầu kính cẩn tập trung thần khí sâu xa và khởi sự công tác tang tóc và thánh thiện là tháo gỡ xuống khỏi thập giá và tẩm liệm Thân Thể đáng tôn thờ của Đức Chúa chúng ta.
Đức Thánh Trinh Nữ và bà Mađalêna ngồi trên mô đất dưới chân Thập Giá, trong khi bên tay măt, giữa Thập Giá Chúa Giêsu và Đima các phụ nữ khác đang bận rộn sắp xếp thuốc thơm, khăn liệm, nước, bọt biển và bình đựng nước. Chỉ huy phó Cátsiô cũng tiến lên và cho Abênađa biết về sự kiện mắt mình được chữa lành một cách nhiệm mầu. Tất cả đều cực kỳ xúc động, con tim tràn đầy buồn thảm và yêu thương. Nhưng đồng thời họ cũng giữ yên lặng trang trọng, mọi cử động đều trang nghiêm kính cẩn. Đôi khi bầu không khí yên tĩnh bị phá vỡ vì một lời than nghẹn ngào hoặc một tiếng thở dài não nuột không kềm chế nổi bộc phát từ người này người nọ, nhưng ai nấy đều hết sức chú tâm vào công việc đạo đức họ đang làm. Bà Mađalêna thì hoàn toàn không kềm chế được nỗi đắng cay buồn tủi trong trái tim sầu héo của bà bất chấp sự việc và cảnh vật chung quanh.
Ông Nicôđêmô và ông Giuse đặt thang dựa vào lưng thập giá và trèo lên, tay cầm một tấm vải dài có gắn ba đai rộng. Họ cột thân thể Đức Giêsu dưới cánh tay và đầu gối vào thân Thập Giá, và giữ chắc hai cánh tay bằng những miếng vải gai đệm dưới hai bàn tay. Sau đó họ dùng đầu sắt cứng đóng vào mũi đinh lồi ra phía sau thập giá để đẩy đinh ra. Hai bàn tay rất thánh Đức Giêsu vì vậy không bị lay động mấy và đinh rời ra dễ dàng khỏi vết thương đã bị nới rộng thêm vì sức nặng của thân thể, bây giờ có vải nâng đỡ không còn bị treo trên đinh nữa. Phần dưới thân thể chùng xuống trên hai đầu gối, giờ đây vì có tấm vải buộc vào hai cánh thập giá nên có tư thế tự nhiên. Trong khi ông Giuse tháo đinh bên tay trái và để cánh tay từ từ buông xuống dọc thân thể, thì ông Nicôđêmô cột cánh tay phải của Đức Giêsu vào cánh tay phải của Thập Giá cũng như đầu rất thánh của Chúa đội mão gai gục xuống phía vai phải. Rồi ông nhổ đinh bên phải ra, và sau khi quấn cánh tay vào tấm vải ông để cho cánh tay từ từ hạ xuống dọc thân thể Chúa. Đồng thời trong lúc này quan bách quân Abênađa phải khó nhọc lắm mới nhổ được chiếc đinh lớn đóng ở chân. Ông Cátsiô kính cẩn nhặt các đinh này và đặt dưới chân Đức Trinh Nữ.
Kế đó, họ dựa thang đứng thẳng phía trước Thập Giá gần với Thân Thể Chúa, nới lỏng giây đai cột phía trên, móc vào một trong mấy cái móc dọc thân thang. Họ cũng làm như vậy với hai giây đai khác, và chuyển tất cả từ móc này sang móc kia để từ từ hạ Thân Thể Chúa xuống chỗ quan bách quân Abênađa lúc đó đang đứng trên một ghế đẩu. Ông đưa tay ra giữ lấy Thân Thể Cực Trọng bên dưới đầu gối, trong khi hai ông Nicôđêmô và Giuse, từ từ đi xuống ngưng lại ở từng nấc thang một cách vô cùng cẩn trọng như ta ôm thân thể của một người bạn chí thiết đang bị thương nặng. Đó là cách thức Thân Thể Cực Thánh tím bầm của Đấng Cứu Thế Thần Thiêng được đưa xuống mặt đất.
Cảnh tượng vô cùng cảm động. Tất cả đều thận trọng và hết sức lo âu như để tránh không gây thêm đau đớn cho Đức Chúa. Hầu hết mọi người đều tập trung lòng kính yêu của họ vào Thân Thể Rất Thánh của Người như họ vẫn tỏ ra với Chúa Cứu Thế khi Người còn sống. Mọi con mắt đều đăm chiêu ngắm nhìn / và theo dõi từng cử động cùa Thân Thể Đáng Tôn Thờ của Chúa. Họ giơ tay lên Trời, mắt đẫm lệ biểu lộ nỗi đau đớn cực kỳ âu lo của họ bằng mọi cách. Tuy nhiên mọi người đều tuyệt đối lặng lẽ, ngay cả những người lo săn sóc Thân Thể Chúa cũng rất ít nói và khi bắt buộc phải lưu ý nhau điều gì thì họ cũng chỉ nói thầm thôi. Trong khi phải tháo đinh bằng những nhát búa mạnh thì Đức Maria, bà Mađalêna, cũng như tất cả những người hiện diện lúc Chúa bị đóng đanh lại cảm thấy như chính trái tim của họ bị đâm thâu. Tiếng động làm họ nhớ lại những đau đớn của Đức Giêsu đến nỗi họ không kềm chế nổi cơn run sợ vì như họ sợ rằng lại phải nghe tiếng la đau đớn của Người, dù - Than ôi! - cũng lúc đó họ đau buồn vì đôi môi nay đã yên lặng để chứng tỏ rằng Người chắc chắn đã chết thật rồi. Xác Chúa được quấn trong vải gai từ đầu gối đến bụng khi được tháo xuống nay đem đặt trong tay Đức Thánh Trinh Nữ, và với cõi lòng tan nát bi thương và yêu mến Mẹ giang tay ra đón lấy gánh nặng qúi báu vô ngần được trao cho Mẹ.
--------------------------------------
CHƯƠNG XXXIX
CHUẨN BỊ MAI TÁNG ĐỨC GIÊSU
Đức Trinh Nữ ngồi trên một áo choàng trải rộng dưới đất, đầu gối bên phải hơi cao hơn, và dựa lưng vào một số những áo khoác khác quấn lại làm thành như một cái gối. Người ta đã không bỏ sót một chi tiết nào trong việc giúp Đức Trinh Nữ - Đức Mẹ Sầu Bi - giảm bớt phần nào nỗi thống khổ trong linh hồn và bổn phận rất thánh và tang tóc đau thương là tẩm liệm Xác Con Rất Yêu Dấu của Mẹ. Các ông đặt Thân Thể Linh Thiêng trên một tấm khăn trải trên lòng Mẹ. Đầu Rất Đáng Tôn Thờ của Đức Giêsu dựa trên đầu gối của Mẹ, và thân thể Người nằm dài trên tấm khăn. Thương yêu và muộn phiền đè nặng lên Trái Tim Đức Thánh Đồng Trinh. Một lần chót, Mẹ ôm lấy thân thể Con vô cùng yêu dấu của Mẹ trong tay, mà Mẹ đã không thể nào giảm bớt được đau đớn khủng khiếp trong những giờ phút chịu tử đạo dài đằng đẵng. Mẹ đăm chiêu nhìn các vết thương và ôm hôn đôi má đầy những máu me, trong khi bà Mađalêna thì úp mặt trên đôi chân của Người.
Trong khi đó thì đám đàn ông đi về phía một cái hang nằm ở phía Tây Nam của đồi Canvê để chuẩn bị những vật liệu cần thiết cho việc tẩm liệm, nhưng ông Cátsiô và một số người lính đã hoán cải thì kính cẩn đứng cách đó một quãng. Tất cả những người ác cảm đã trở về thành phố, và những binh lính còn lại thì canh gác để ngăn chặn một sự quấy rối nào đó có thể xảy ra gây gián đoạn cho các nghi lễ trang trọng sau cùng đối với thi thể Đức Giêsu. Một số trong nhóm này còn sẵn sàng giúp một tay khi cần thiết nữa. Các bà thánh thiện thì cầm bình, bọt biển, vải gai, dầu, và thuốc thơm tùy theo yêu cầu. Khi không bận gì thì họ đứng kính cẩn xa xa ngắm nhìn Đức Thánh Trinh Nữ trong khi Mẹ làm nhiệm vụ đau đớn này. Bà Mađalêna không hề rời bỏ xác Đức Giêsu, còn ông Gioan thì luôn luôn phụ giúp Đức Mẹ và di chuyển từ nhóm các bà đến nhóm các ông để giúp cả hai nhóm nếu cần. Các bà có đem theo những bình lớn bằng da và một bình đất đầy nước đặt trên một ngọn lửa than. Khi được yêu cầu thì họ đưa cho Đức Mẹ và bà Mađalêna những bình đựng nước trong, và bọt biển mà sau này họ vắt nước vào trong các chai bằng da.
Đức Maria can đảm phi thường và vẫn giữ vẻ bình thản trong suốt thời gian lo âu đau thương của Mẹ.
(Tới đây, người chép lại cuộc khổ nạn Chúa Giêsu theo lời kể của Chân Phước Emmerich đã ngưng lại để ghi chú thích sau đây: “Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, 30 tháng 3 năm 1820, trong khi suy gẫm về cảnh tháo xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Giá thì Chị Emmerich bỗng dưng ngất xỉu trước mặt người chép những dòng này - tức ông Clement Brentano - và trông Chị như người đã chết thật rồi. Nhưng sau khi hồi tỉnh Chị nói chứng tá sau đây mặc dù lúc đó Chị đang hết sức đau đớn. 'Trong khi ngắm nhìn xác Chúa Giêsu dựa vào đầu gối Đức Mẹ thì tôi nghĩ thầm trong lòng rằng quả thật Đức Mẹ có sức mạnh phi thường! Mẹ không hề ngất xỉu, dù chỉ một lần thôi!' Thiên Thần Hướng Dẫn tôi liền trách rằng sao tôi lại có thể có một ý nghĩ biểu lộ ngạc nhiên hơn là thương cảm như vậy, và ngài nói với tôi"Vậy thì Chị hãy nhận lấy cái đau như sự đau đớn của Mẹ đi!" Ngay lúc đó thì một cảm giác lo âu khôn tả đâm thủng tâm hồn tôi như một thanh gươm bén và tôi nghĩ chắc tôi chết quá.' Chị Emmerich phải chịu nỗi đau đớn này một thời gian rất lâu, do đó Chị ngã bịnh và gần như người sắp phải xuống mồ.)
Mẹ không tài nào rời khỏi xác Con Thần Linh của Mẹ đã bị hành hạ đau đớn tột cùng vì vậy Mẹ không màng mệt mỏi ra sức rửa sạch hết những vết tích lăng nhục xúc phạm trên thân xác Đức Chúa. Mẹ cẩn thận tháo mão gai khỏi đầu Đức Giêsu ra phía đằng sau và cắt từng mũi gai đã lún sâu vào đầu Người để khỏi xé thêm các vết thương ra. Mão gai được đặt bên cạnh mấy cái đinh, rồi Mẹ dùng một loại kềm tròn để nhổ những chiếc gai dài còn cắm vào da, và buồn bã đưa cho các bạn xem. Những gai này được đặt bên cạnh mão gai, tuy một số đã được tồn trữ ở một chỗ khác.
Khuôn mặt thần thiêng của Đấng Cứu Chuộc chúng ta thật khó có thể nhận ra được vì những thương tích đã làm cho ra méo mó khôn tả. Máu đông bện cứng râu tóc vào nhau. Đức Maria rửa đầu và dùng bọt biển thấm nước để gỡ máu đông ra. Trong khi Mẹ tiến hành công cuộc thành kính này thì mức độ lớn lao của những hành vi tàn bạo mà bọn lý hình trút lên thân mình Chúa Giêsu càng tỏ rõ khiến Đức Mẹ vô cùng xúc động. Khi lau từ vết thương này sang vết thương khác lòng Mẹ thương cảm và trìu mến Con Mẹ càng gia tăng. Mẹ lau chùi máu ở các vết thương trên đầu, đôi mắt đầy máu, lỗ mũi, lỗ tai với một miếng bọt biển và miếng vải nhỏ đặt trên bàn tay phải; rồi Mẹ rửa sạch miệng hé mở, lưỡi, răng, và đôi môi của Đức Giêsu cũng theo cách ấy. Sau khi rửa sạch đầu, Đức Trinh Nữ hôn vào má rất thánh của Con Mẹ và lấy khăn che lại. Sau đó người lo chăm sóc cổ, vai, ngực, và lưng của Thân Thể Linh Thiêng, cánh tay và bàn tay rách nát dính đầy máu. Ôi, tất cả những đau khổ khủng khiếp nay còn lại những thương tích phơi bầy ghê sợ! Tất cả các xương lồng ngực đều trật khớp, cũng như các thần kinh, đều sai khớp và cong queo bởi đó nên đã cứng nhắc và không uốn lại được. Đôi vai vác thập giá nặng nề thì nát bấy đến độ trở thành vết thương lớn, và toàn thể phần trên của Đức Chúa đầy những lằn roi và vết cắt vì đòn vọt. Có một vết thương nhỏ ở ngực bên trái do mũi giáo của Cátsiô đâm thâu qua, và ở sườn bên phải có một vết thương lớn rộng vì ngọn giáo đâm qua tim Người. Đức Maria rửa và tẩy uế tất cả các vết thương này, trong khi bà Mađalêna, thì quỳ gối phụ giúp, tuy phần lớn thời gian bà ở dưới chân Đức Giêsu, thấm đôi chân Chúa lần cuối bằng nước mắt rồi lấy tóc lau khô.
Đầu, phần thân trên, và đôi chân của Đức Chúa giờ đây đã sạch các vết máu. Thân Thể Linh Thiêng vẫn còn nằm trong lòng Đức Maria, đầy những vết nâu và đỏ ở những chỗ da bị lột, nhợt nhạt hoặc tái mét như miếng thịt hết máu. Những phần nào đã rửa sạch thì Đức Trinh Nữ lấy khăn che phủ, và bắt đầu tẩm liệm các vết thương. Các bà thánh nữ thì quỳ bên cạnh Đức Maria, đưa cho người một hộp dầu đắt tiền để Mẹ đắp đầy các vết thương. Người xức dầu vào tóc, rồi đặt tay của Đức Giêsu vào bàn tay trái của Mẹ hôn âu yếm, sau đó kính cẩn xức dầu và lấp đầy các lỗ đinh. Đôi tai, lỗ mũi, và các thương tích cạnh sườn cũng được người bôi dầu như vậy. Bà Mađalêna thì rửa và xức dầu tẩm liện đôi chân của Đức Giêsu, rồi lại rửa bằng nước mắt của bà và úp mặt vào đôi chân Chúa.
Nước tắm xác Chúa không bị đổ đi, nhưng được vắt từ các miếng bọt biển chứa vào các bầu da. Vài lần tôi thấy ông Cátsiô hoặc vài người lính khác đi lấy nước trong từ suối Ghi-hon ở cách đó không xa. Khi Đức Thánh Trinh Nữ đã xức dầu mọi vết thương, thì Mẹ quấn đầu Đức Giêsu trong vải gai nhưng chưa che mặt. Mẹ dịu dàng khép đôi mắt hé mở của Đức Giêsu, và đặt tay trên đó một hồi lâu. Mẹ khép miệng Chúa lại, ôm hôn Thân Thể Thần Linh của Con Mẹ rất yêu dấu, âu yếm và kính cẩn úp mặt mình lên khuôn mặt Đức Chúa. Bà Mađalêna thì không dám hôn khuôn mặt Đức Chúa mà chỉ úp mặt trên đôi chân Chúa mà thôi.
Ông Giuse và ông Nicôđêmô đã đứng đợi hồi lâu cách đó một quãng xa xa, bỗng ông Gioan đến gần Đức Trinh Nữ để xin phép được đem xác Đức Giêsu đi để tiếp tục việc mai táng, vì việc tẩm liện các vết thương đã xong và ngày Sabát đã gần. Một lần nữa Đức Maria ôm chặt xác Đức Giêsu, và xúc động nói lời từ biệt. Các ông liền dùng tấm vải trải trên lòng Đức Maria, nâng Thân Thể Cực Trọng lên và chuyển đi một quãng cách đó không xa lắm. Sự buồn phiền của Đức Maria dịu bớt phần nào vì những cảm tình âu yếm và cẩn trọng khi hoàn thành công việc thành kính thì giờ đây lại bùng lên không kềm chế nổi và Mẹ lại ngất xỉu trong tay các bà đạo đức. Bà Mađalêna thì có cảm tưởng rằng Đức Chúa kính yêu của bà bị giật khỏi tay bà đem đi, nên bà giang tay chạy theo vài bước nhưng sau đó bà quay lại với Đức Trinh Nữ.
Họ đem xác Đức Giêsu xuống một chỗ thấp hơn đỉnh đồi Canvê cách đó không xa. Tại đây có một phiến đá bằng phẳng tiện cho việc tẩm liệm xác Đức Chúa. Trước hết tôi thấy một tấm vải giống như "đăng-ten" làm tôi liên tưởng đến những tấm màn lớn có thêu hoa văn treo giữa cung của ca đoàn và chỗ dành cho cộng đoàn giáo dân trong các nhà thờ về mùa Chay. (Chú thích của ô. Brentano: Tục lệ này thường có ở giáo phận Munster, Đức Quốc. Về mùa Chay, người ta thường treo trong nhà thờ một tấm màn thêu mô tả Năm Dấu Đanh, các dụng cụ khổ hình cuộc Thương Khó Chúa, v.v...) Có lẽ tấm vải có lỗ thủng như tấm lưới để nước tắm xác có thể thoát ra qua những chỗ hở này. Tôi cũng thấy một tấm vải lớn khác được trải ra. Họ đặt xác Đấng Cứu Độ chúng ta lên tấm vải "đăng-ten" và một số người khác căng tấm vải kia phía trên thân thể Chúa. Rồi ông Nicôđêmô và ông Giuse quỳ gối và, bên dưới tấm vải này, họ tháo những miếng vải quấn chung quanh hông Đức Giêsu khi họ đưa xác Chúa xuống khỏi Thập Giá. Rồi họ chuyển bọt biển xuống phía dưới tấm vải lớn và lau phần hạ bộ của Đức Chúa. Sau đó, họ dùng một số băng vải buộc phần dưới thân đến đầu gối để nâng Thân Thể Linh Thiêng lên và rửa lưng Người mà không phải lật úp xác xuống. Họ lau xác cho đến khi nước vắt ra từ bọt biển thậât sạch và trong. Sau đó họ đổ nước pha mộc dược lên toàn thân, rồi kính cẩn kéo thẳng xác ra, vì xác còn cứng đơ trong vị thế bị treo trên thập giá, nghĩa là bàn tọa và đầu gối cong lại. Dưới hông, họ đặt một băng vải, rộng khoảng một thước, dài ba thước, trên lòng Chúa những bó cỏ thơm, sau đó rắc khắp thân thể một loại bột thơm mà ông Nicôđêmô đã đem theo. Sau đó họ xức dầu các vết thương ở đùi, đặt các bó cỏ thơm giữa hai chân đã được kéo thẳng ra, và bó lại chung với thuốc thơm.
Ông Gioan một lần nữa lại đưa Đức Trinh Nữ và các bà thánh thiện đến bên xác. Đức Maria quỳ phía đầu Đức Giêsu, đặt dưới đầu một tấm vải gai mịn của bà Clođia Prôcla, vợ Philatô tặng, mà Mẹ đã quàng quanh cổ dưới áo dài của Mẹ. Sau đó, Đức Maria với sự trợ giúp của các bà thánh thiện đặt giữa vai và má Đức Giêsu những bó cỏ, thuốc và phấn thơm đắt tiền, rồi buộc chặt tấm vải gai mịn quanh đầu và vai. Bà Mađalêna đổ một bình nhỏ dầu thơm vào vết thương cạnh sườn, trong khi các bà thánh thiện khác thì xếp cỏ thơm vào những vết thương tay và chân. Sau đó các ông xức thuốc thơm khắp phần thân thể còn lại, vắt chéo đôi tay cứng đơ trên ngực, và quấn một tấm vải trắng lớn quanh thân đến tận ngực như quấn tã một đứa bé. Sau khi cột một đầu băng vải lớn dưới nách họ quấn băng vải này chung quanh đầu và toàn Thân. Sau cùng, họ đặt xác Đức Chúa trên một tấm vải rộng, dài sáu thước mà ông Giuse Arimathê đã mua, rồi bó Người lại. Thân Chúa đặt nằm chéo trên vải, một góc tấm vải được kéo từ chân lên ngực, đầu vải đối diện thì kéo qua đầu, vai, và hai đầu kia thì quấn vòng quanh thân.
Trong khi tất cả quỳ gối chung quanh xác Đức Giêsu, từ giã Người trong nước mắt, một phép lạ cảm động đã xảy ra trước mắt họ: toàn Thân Thể Linh Thiêng của Đức Giêsu với tất cả các thương tích hiện ra, như được vẽ bằng các mầu nâu và đỏ, trên tấm vải liệm. Có vẻ như Người muốn cảm tạ và biết ơn sự đau buồn và âu yếm chăm sóc của họ đối với Thân Thể Người nên đã để lại hình ảnh của chính Người trên tấm khăn như một phần thưởng dành cho họ. Mọi người đều khóc than, ôm lấy Thân Thể Linh Thiêng, và kính cẩn hôn tấm khăn mầu nhiệm ấy. Sự kinh ngạc của họ còn lớn hơn nữa khi mở tấm khăn quấn bên ngoài, họ thấy các băng vải bên trong vẫn còn trắng nguyên, chỉ có tấm khăn bọc ngoài cùng là có hình ảnh của Đức Chúa. Đây không phải là dấu vết do các thương tích đẫm máu để lại vì toàn thân đã được tẩm bằng thuốc thơm và bọc trong khăn liệm, nhưng là một chân dung siêu nhiên chứng tỏ quyền năng sáng tạo thần linh ngay trong thân xác của Đức Giêsu.
Tôi được thấy nhiều điều có liên hệ với khăn liệm thánh trong lịch sử về sau, nhưng tôi không thể diễn tả mạch lạc được vì không còn nhớ rõ thứ tự những sự việc này. Sau khi Phục Sinh, tấm khăn này nằm trong tay các bạn của Đức Giêsu nhưng cũng đã hai lần rơi vào tay người Do Thái, và sau này được tôn kính tại nhiều nơi khác nhau. Tôi đã được nhìn thấy khăn trong tay của một nhóm Kitô hữu không Công Giáo ở tại một thành phố Á Châu mà tôi quên tên. Thành phố này nằm gần xứ sở của Ba Vua.
------------------------
40/CHƯƠNG 40
MAI TÁNG ĐỨC GIÊSU
Bấy giờ các ông đặt Thân Thể Linh Thiêng trên một cái cáng bằng da, phủ lên dó một tấm vải nâu, và xỏ hai cây đòn dài hai bên. Tôi nghĩ ngay đến Hòm Bia Giao Ước. Ông Nicôđêmô và ông Giuse khiêng trên vai hai đòn phía trước; ông Abênađa và ông Gioan khiêng phía sau. Theo sau là Đức Trinh Nữ, bà chị Maria Hêli, bà Mađalêna, và bà Maria Clêôpha và nhóm phụ nữ ngồi đằng xa là các bà Vêrônica, Gioanna Chusa, Maria Máccô; Salômê, vợ ông Giêbêđê; Maria Salômê, Salômê ở Giêrusalem, Sugianna, và cháu của Thánh Giuse là bà Anna. Bà là con gái của người em thánh Giuse và lớn lên ở Giêrusalem. Ông Cátsiô và các binh lính đi sau cùng. Các phụ nữ khác như bà Marôni ở Naim, bà Đina người Samaritanô, và bà Maria người Suphanít lúc ấy đều ở lại Bêtania với bà Mácta và Lagiarô.
Hai người lính mang đuốc đi trước để chiếu sáng cho căn hầm mộ. Đám rước di chuyển theo thứ tự này chừng bảy phút, họ hát Thánh Vịnh với một giọng du dương nhưng trầm buồn. Tôi thấy ông Giacôbê Cả, anh ông Gioan đứng trên đồi bên kia thung lũng nhìn đám rước đi qua rồi ông rời chỗ ngay sau đó để báo tin cho các môn đệ khác biết những gì đã xảy ra.
Tôi thấy đám rước dừng chân ở lối vào cổng vườn, và cổng được mở ra bằng cách gỡ một vài cái cọc lớn mà sau đó được dùng để lăn tảng đá đóng cửa hầm mộ. Trước khi đến tảng đá này, họ mở tấm vải phủ chiếc cáng, nâng xác lên, và đặt trên một tấm ván có phủ vải. Ông Nicôđêmô và ông Giuse giữ một đầu tấm ván, hai người khác giữ đầu kia. Căn hầm mộ mới đục và đã được đầy tớ của ông Nicôđêmô quét dọn sạch sẽ khang trang. Trường kỷ để xác thì rộng ở đầu và hẹp ở chân. Phiến đá này được khoét theo hình thân thể được quấn vải, và ở đầu và chân thì hơi cao lên.
Nhóm phụ nữ thánh thiện ngồi phía trước mộ trong khi bốn người đàn ông khiêng xác Đức Giêsu vào căn hầm, kính cẩn đặt Người trên phiến đá đã phủ sẵn thuốc thơm có một khăn trắng trải bên trên. Sau khi tỏ lòng kính yêu trong nước mắt và hôn kính xác Đức Chúa một lần nữa, họ ra khỏi hầm mộ. Rồi Đức Thánh Trinh Nữ vào ngồi bên cạnh đầu Người Con Chí Ái của Mẹ, cúi mình ôm xác con khóc thương thảm thiết. Khi Mẹ rời huyệt thì bà Mađalêna tiến lên rải một số cành hoa mà bà đã hái trong vườn lên thân xác Chúa. Bà chắp tay lại và hôn kính chân Chúa trong nước mắt. Nhưng các ông nhắc bà rằng họ còn phải đóng cửa mộ nên bà quay về với nhóm các bà thánh thiện. Họ kéo đầu tấm khăn trải trên phiến đá rồi phủ bên ngoài một tấm khăn màu nâu, rồi đóng hai cánh cửa hầm bằng kim khí màu đồng đen, có hai then chốt, một then đứng và một then ngang trông giống hệt một cây thập giá.
Tảng đá lớn mà họ dự định lấp cửa mộ vẫn còn nằm bên ngoài hang, trông nó như cái rương hay nấm mộ, chiều dài đủ lớn cho một người nằm gọn trên đó. Phiến đá này rất nặng nên phải dùng đòn bẩy để lăn tảng đá tới trước cửa mộ. Lối vào mộ có một cái cổng kết bằng những cành cây liễu gai quấn vào nhau.
Tất cả công việc trong mộ đều phải thực hiện dưới ánh đuốc vì ánh sáng mặt trời không lọt vào được. Tôi thấy trong khi chôn cất, một vài người đàn ông lấp ló chung quanh khu vườn kế cận và ở núi Canvê. Họ trông có vẻ e dè và buồn bã. Tôi nghĩ họ là các môn đệ, vì sau khi ông Abênađa kể lại cho họ nghe những gì xảy ra, họ mạo hiểm ra khỏi hang và đến đây. Giờ đây dường như họ đang trở về.
SAU KHI MAI TÁNG TRỞ VỀ. NGÀY SABÁT
Ngày Sabát đã bắt đầu. Ông Nicôđêmô và ông Giuse trở về thành phố qua một cổng riêng nhỏ xây trong bức tường thành phố gần khu vườn nhà ông Giuse nhờ có phép đặc biệt. Các ông đã cho Đức Trinh Nữ, bà Mađalêna, ông Gioan và một số phụ nữ khác biết rằng khi cầu nguyện trên núi Canvê xong thì các vị có thể về qua đây, vì cổng này cũng như cửa phòng Tiệc Ly trên lầu sẵn sàng mở cho họ bất cứ khi nào họ gõ. Bà Maria Hêli, chị của Đức Trinh Nữ, trở về thành phố cùng với bà Maria mẹ ông Máccô và một số bà khác. Đầy tớ của ông Nicôđêmô và ông Giuse thì trở lại núi Canvê để lấy một vài dụng cụ họ để quên.
Binh lính nhập bọn với đội lính gác cổng thành gần núi Canvê, trong khi ông Cátsiô cưỡi ngựa đến dinh Philatô mang theo ngọn giáo. Ông kể lại cho Philatô nghe tất cả những gì đã xảy ra, và hứa sẽ báo cáo đầy đủ mọi sự khả dĩ sẽ xảy ra, nếu Philatô cho ông toàn quyền điều khiển đội lính mà thế nào người Do Thái cũng đến xin phép ông được đặt canh gác chung quanh ngôi mộ Đức Giêsu. Tổng trấn Philatô lắng nghe lòng thầm sợ hãi nhưng cuối cùng ông bảo ông Cátsiô chỉ điên khùng mê tín dị đoan thôi.
Khi Đức Trinh Nữ và các bạn vừa trở về từ núi Canvê thì một đám lính cầm đèn đuốc tiến đến. Các bà đứng dạt sang hai bên nhường cho lính đi qua. Có lẽ đám lính lên núi Canvê để đem tội phạm bị treo trên các thập giá đi chôn trước ngày Sabát. Khi toán lính đi qua, các bà tiếp tục đi về cổng riêng.
Hai ông Giuse và Nicôđêmô gặp ông Phêrô và hai ông Giacôbê Cả và Giacôbê Nhỏ trong thành. Mọi người đều khóc. Nhất là ông Phêrô đã không cầm nổi cơn đau đớn vò nát tâm can ông dữ dội. Ông khóc lóc thảm thiết rồi ôm lấy hai ông Giuse và Nicôđêmô than thở rằng ông đã không có mặt nơi Đức Chúa từ trần, và cám ơn hai ông đã chu tất mọi lễ nghi mai táng cho Thân Thể Cực Thánh Đức Giêsu. Hai ông cho Phêrô biết rằng phòng Tiệc Ly trên lầu sẽ mở cho họ bất cứ ai gõ cửa. Sau đó họ chia tay đi tìm các môn đệ khác đang ở rải rác khắp nơi.
Sau này tôi thấy Đức Trinh Nữ và các bạn đi vào Nhà Tiệc Ly, sau đó ông Abênađa cũng đến và được cho vào, rồi từ từ các Tông Đồ và đa số các môn đệ khác cũng đến tụ họp tại đó. Các bà rút về căn phòng mà Đức Trinh Nữ đang ở. Họ dùng chút ít thực phẩm rồi lại nhỏ lệ đau thương, kể cho nhau nghe những gì mỗi người đã thấy. Các ông thay quần áo, và tôi thấy họ đứng dưới ánh đèn giữ luật ngày Sabát. Họ ăn chút ít thịt chiên trong phòng Tiệc Ly trên lầu, nhưng không giữ một nghi thức nào cả vì họ đã ăn Chiên Vượt Qua tối hôm trước rồi. Tất cả đều đau đớn buồn phiền. Các bà đạo đức cũng cầu nguyện với Đức Maria dưới ánh đèn. Sau đó, khi màn đêm buông xuống thật rồi thì ông Lagiarô, bà quả phụ Marôni ở Naim, bà Đina người phụ nữ Samarita, và bà Maria người Suphanít cũng từ Bêthania đến. Rồi một lần nữa họ được nghe kể lại mọi sự đã xảy ra với bao nhiêu lệ sầu đau thương cảm mến.
ÔNG GIUSE ARIMATHÊ BỊ BẮT. NGÔI MỘ ĐƯỢC CANH GÁC
Ông Giuse Arimathê rời Nhà Tiệc Ly trễ và về nhà cùng với một số môn đệ và vài bà thánh thiện. Đang khi họ buồn bã bước dọc những đường phố Sion thì một toán võ trang nấp cạnh tòa án của Caipha xông tới hành hung và bắt ông Giuse Arimathê. Các bạn bỏ chạy và la hét kinh hoàng. Họ nhốt ông Giuse trong một cái tháp không xa tòa án bao nhiêu. Những tên lính này đều là dân ngoại không phải giữ luật ngày Sabát, nên Caipha đã có thể nhờ chúng thi hành việc này được với ý định để ông Giuse chết đói và giữ bí mật sự kiện ông bị mất tích.
Vào đêm thứ Sáu rạng ngày thứ Bảy, Caipha và một số gia trưởng người Do Thái tổ chức cuộc họp để bàn xem phải làm gì với những dấu lạ đã xảy ra, và ảnh hưởng của nó trên dân chúng. Lúc ấy trời đã khuya, họ đến nói với Philatô rằng "Trong khi còn sống, tên dụ dỗ ấy đã nói, "Sau ba ngày Ta sẽ chỗi dậy," nên họ xin Philatô ra lệnh cho canh gác hầm mộ đến ngày thứ ba; nếu không thì môn đệ của y có thể đến lấy xác đi, và phao lên rằng, 'Người đã sống lại từ cõi chết,' và điều này còn tệ hại hơn điều trước."
Philatô không muốn dính dáng gì đến việc này nên nói: "Các ông có lính canh của các ông thì hãy canh giữ theo ý các ông." Tuy nhiên, Philatô cũng cắt cử ông Cátsiô theo dõi và báo cáo tường tận cho ông mọi điều sẽ xảy ra. Ngay sau đó tôi thấy mười hai người rời thành phố trước khi mặt trời mọc. Tôi thấy bọn này được một số lính không mặc quân phục Rôma hộ tống vì họ được biệt phái canh gác Đền Thờ. Họ đem theo đèn dầu trên những cây sào dài, để có thể nhìn rõ trong bóng tối, và cũng để có thể nhìn thấy bên trong ngôi mộ tối.
Khi đến nơi, trước tiên họ đã tận mắt nhìn thấy xác Đức Giêsu trong đó rồi thì họ cột một sợi giây ngang qua cửa mộ và một sợi giây khác từ đó đến hòn đá trước mộ rồi niêm phong hai sợi giây với nhau bằng cách gắn một con dấu xi hình bán nguyệt. Sau đó họ trở về thành phố, còn lính canh thì đứng đối diện với cửa mộ bên ngoài. Lính canh gồm năm hoặc sáu người chia thành hai toán ba người một thay phiên nhau gác. Cátsiô thì không hề rời khỏi nhiệm sở, phần lớn thời gian ông ngồi hay đứng ngay trước cửa mộ để được nhìn thấy phía chân của Đức Chúa. Ông được nhiều ơn soi sáng nội tâm và được hiểu rõ nhiều mầu nhiệm. Vì hoàn toàn không quen với trạng thái giác ngộ tâm linh này, ông như trong tình trạng xuất thần, không biết gì đến ngoại cảnh. Ông đã hoàn toàn thay đổi, trở nên con người mới, và dùng suốt ngày để sám hối, cảm tạ và thờ phượng Chúa.
CÁC BẠN CỦA ĐỨC GIÊSU NGÀY THỨ BẢY TUẦN THÁNH
Các môn đệ trung thành với Chúa tụ họp trong Nhà Tiệc Ly để giữ ngày Sabát. Họ có khoảng hai mươi người, mặc áo dài trắng có thắt lưng. Căn phòng có một ngọn đèn chiếu sáng. Sau khi dùng bữa, họ chia tay, đa số trở về nhà. Sáng hôm sau họ lại tụ họp thay phiên đọc kinh thánh và cầu nguyện và nếu có bạn nào vào phòng thì họ đứng dậy và thân ái tiếp đón.
Phần nhà trong dành cho Đức Trinh Nữ ở có một phòng lớn chia thành nhiều ô như những phòng nhỏ để các bà ngủ đêm trong đó. Khi các bà từ mộ trở về, thì một trong các bà đốt một ngọn đèn treo giữa căn phòng và rồi họ quây quần quanh Đức Trinh Nữ, và bắt đầu cầu nguyện, giọng đầy đau thương tang tóc nhưng rất cầm trí trang nghiêm. Sau đó không lâu có các bà khác đến từ Bêtania cùng với ông Lagiarô. Đức Thánh Trinh Nữ và các bà kể lại chi tiết về cái chết và cuộc an táng Đức Chúa chúng ta cho họ nghe và một lần nữa tất cả đều đau đớn khóc thương thảm thiết. Khi trời đã khuya, một số ông, trong đó có ông Giuse Arimathê rời phòng ăn hỏi các bà xem có ai muốn về nhà không thì các ông sẵn sàng hộ tống. Một vài người nhận lời và ra về ngay. Nhưng trước khi tới tòa án Caipha thì một số người võ trang xông ra bắt giam ông Giuse vào một tháp nhỏ bỏ hoang.
Những phụ nữ nào không rời Nhà Tiệc Ly thì lui về các phòng nhỏ nói trên để nghỉ ngơi. Họ cột khăn lên đầu, buồn bã ngồi xuống sàn nhà, dựa lưng vào những chiếc đệm kê sát tường. Một hồi lâu, họ đứng lên, trải khăn lên đệm, cởi dép, thắt lưng và áo ngoài rồi nằm xuống cố gắng nghỉ ngơi đôi chút. Vào nửa đêm họ đứng dậy, khoác áo vào, dựng đệm lên và tụ họp chung quanh Đức Mẹ dưới ánh đèn dầu để tiếp tục cầu nguyện với Mẹ.
Khi Đức Trinh Nữ và các bạn thánh thiện đọc kinh khuya xong (một nghĩa vụ thánh mà tất cả con cái trung tín của Chúa vẫn thực hành hoặc vì họ cảm thấy được mời gọi làm như vậy, hoặc để vâng lời chỉ thị do Đức Chúa và Hội Thánh Ngài truyền dạy) thì có tiếng gõ cửa. Đó là ông Gioan và vài môn đệ khác vào đưa họ đến Đền Thờ như các ông đã hứa với các bà. Lập tức các bà khoác áo choàng và theo ngay các ông đến Đền Thờ. Lúc đó khoảng 3 giờ sáng. Họ tiến thẳng lên Đền Thờ vì người Do Thái có thói quen đến đó trước khi trời sáng tiếp theo ngay ngày hôm họ ăn Chiên Vượt Qua. Vì lý do đó mà cửa Đền Thờ được mở ra từ lúc nửa đêm vì lễ nghi hiến tế khởi sự rất sớm. Họ ra đi cũng đúng vào giờ mà các tư tế đóng khằn niêm phong Mộ Huyệt Chúa. Tuy nhiên, quang cảnh trong Đền Thánh khác xa với những dịp tương tự bởi vì mọi hoạt động tế lễ đều dừng lại hết. Địa điểm vắng vẻ tiêu điều. Tất cả đều ra về hết thảy vì những biến cố hôm trước đã làm Thánh Đường trở nên ô uế. Dường như mục đích duy nhất của Đức Trinh Nữ là đến thăm từ biệt nơi mà Mẹ đã sống thời niên thiếu.
Tuy vậy Đền Thờ vẫn mở cửa, đèn đuốc đốt sáng, và theo tập tục đặc biệt ngày hôm đó, dân chúng được phép tự do ra vào tiền đình dành riêng cho các vị tư tế, cũng như ngay sau lễ ăn thịt Chiên Vượt Qua. Như tôi đã nói trước đây, Đền Thờ quả vắng vẻ ngoại trừ một ông tư tế hoặc một người giúp việc nào họa may đang quanh quẩn đó đây. Chỗ nào cũng đầy dấu vết hỗn loạn của những biến cố đã tạo một trạng thái kinh hoàng phi thường trong dân chúng, đó là chưa kể đến việc Đền Thờ trở nên ô uế vì sự có mặt của người chết, và tôi tự nghĩ không hiểu có cách nào thanh tẩy được nữa không?
Hai người con ông Simêon và cháu của ông Giuse Arêmathê thì buồn rầu khi được tin chú của họ bị bắt, nhưng họ thành kính đón tiếp Đức Trinh Nữ và các bạn của Mẹ và hướng dẫn các bà xem khắp mọi nơi, một việc không khó khăn gì vì họ giữ chức vụ thanh tra của Đền Thánh. Các phụ nữ thánh thiện yên lặng hãi hùng nhìn vết tích của cơn thịnh nộ Đức Chúa và chú ý nghe những chi tiết kinh hoàng mà các hướng dẫn viên của họ kể lại. Hậu quả của cơn động đất dữ dội vẫn còn rõ nét vì chưa ai tìm cách sửa chữa lại hằng bao nhiêu rạn nứt trên tường và nền nhà. Bức tường tại khu vực nối tiền đình với Cung Thánh bị lay động mạnh đến nỗi nứt ra một kẽ hở đủ cho một người lớn đi qua. Phần còn lại rất chênh vênh có thể đổ ụp bất cứ lúc nào. Tấm màn treo trong Cung Thánh bị xé làm đôi nay đã thành hai mảnh vải rách nát treo lủng lẳng hai bên. Chung quanh chỉ còn lại những bức tường nứt nẻ, những viên đá lót nền nhà bị nghiền nát, bao nhiêu cột kèo thì phần gãy phần lung lay xiêu vẹo.
Đức Thánh Trinh Nữ đi thăm hết những nơi mà sự hiện diện của Đức Giêsu đã thánh hóa. Mẹ qùy xuống, hôn tất cả các vị trí này và với đôi mắt đẫm lệ Mẹ cắt nghĩa cho các bà kia biết lý do tại sao Mẹ tôn kính đặc biệt từng chỗ, và bạn người cũng lập tức noi gương Mẹ. Người Do Thái rất kính trọng những nơi được thánh hóa vì Đức Chúa đã biểu hiện quyền năng của Ngài. Họ thường đặt tay và hôn kính lên những chỗ này và phủ phục xuống mảnh đất trước mặt họ. Tôi không ngạc nhiên trước các cử chỉ như vậy vì họ đều biết, nhìn thấy và cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa của Abraham, của Isaác, và của Giacob là một Thiên Chúa hằng sống, đang ngự trị giữa dân Người trong Đền Thờ tại Giêrusalem. Do đó nếu họ không tôn kính những nơi mà Đức Chúa đặc biệt biểu dương uy quyền của Người mới là chuyện đáng ngạc nhiên. Đền Thờ và những nơi thánh đối với người Do Thái cũng như Bí Tích Cực Trọng đối với Kitô Hữu. Nhưng giữa họ cũng có một số người mù quáng và một số người sáng suốt, giống như giữa chúng ta, cũng có một số người không thờ phượng Thiên Chúa Hằng Sống đang ngự giữa chúng ta, nhưng lại đi vào các việc dị đoan thờ các tà thần của thế gian. Họ phản ảnh những lời của Đức Giêsu: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, Thầy sẽ chối họ trước mặt Cha Thầy." Những người không ngừng phục vụ các tà thần và sự lầm lạc của thế gian trong tư tưởng, hành động và lời nói, mà bỏ qua các việc thờ phượng Thiên Chúa ở bề ngoài, thì nói rằng, "Chúng tôi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và trong chân lý." Nhưng họ không biết những lời này có nghĩa là trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Con, Người đã mặc lấy xác phàm nhờ Đức Trinh Nữ Maria, và làm chứng cho sự thật; Người sống giữa chúng ta, Người chết cho chúng ta, và Người sẽ ở với Giáo Hội Chúa trong Bí Tích Cực Trọng cho tới tận thế.
Với lòng tôn kính sâu xa, Đức Trinh Nữ đi khắp Đền Thờ với các bạn và chỉ cho họ thấy nơi Mẹ được dâng vào Đền Thánh khi còn bé, nơi Mẹ sinh trưởng hồi niên thiếu, nơi Mẹ đính hôn với thánh Giuse, và nơi Mẹ đứng dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ và nghe sấm ngôn của ông Simêon. Mẹ nhớ đã khóc cay đắng khi nghe những lời nói của ông vì lời tiên tri quả đã ứng nghiệm và lưỡi gươm đau buồn đã đâm thâu trái tim Mẹ. Một lần nữa Mẹ lại chỉ cho các bạn biết nơi Mẹ tìm thấy Đức Giêsu lên 12 tuổi đang giảng dạy trong Đền Thờ khi Mẹ lạc mất Người trong ba ngày. Mẹ hôn kính chỗ Người đã đứng hôm đó. Khi các bà thánh thiện nhìn thấy hết những nơi mà sự có mặt của Đức Giêsu dã thánh hóa thì các vị rời Đền Thờ trong nước mắt và sự muộn phiền sâu xa. Sự đổ nát hoang tàn ngày hôm ấy càng gây nản chí vì sự khác biệt quá rõ rệt với vẻ huy hoàng của Đền Thờ trong những dịp lễ lạc trước đây. Thay vào lời ca tiếng hát, thánh vịnh vui tươi của những ngày hồng ân thì là bầu không khí yên lặng tang tóc đều khắp trong Đền Thờ vĩ đại; thay vì những nhóm dân thờ lạy hân hoan sùng kính thì nay là một sự hoang vắng ớn lạnh. Than ôi, đúng là lời cảnh báo cho tội ác tầy trời mà dân Chúa đã phạm. Mẹ nhớ lại Đức Giêsu đã khóc thương Đền Thờ như thế nào khi Người nói: "Hãy phá hủy Đền Thờ này đi và trong ba ngày Ta sẽ xây lại." Đức Maria nghĩ đến kẻ thù của Đức Giêsu đã phá hủy Đền Thờ Thân Thể Người như thế nào, và Mẹ nóng lòng trông đợi ngày thứ ba ấy đến để lời Chân Lý Vĩnh Cửu được thể hiện.
Trời vừa hừng sáng thì Đức Maria và các bạn trở về Nhà Tiệc Ly, và các bà lui về căn nhà bên tay mặt Nhà Tiệc Ly, trong khi ông Gioan và một số môn đệ lên Nhà Tiệc Ly, nơi đây có khoảng hai mươi người và họ tập trung cầu nguyện dưới ngọn đèn dầu. Thỉnh thoảng một vài người đến gần cửa, rụt rè đi vào, lại gần nhóm đang tụ tập dưới ngọn đèn, chào hỏi họ vài câu trong nước mắt. Tất cả đều tỏ vẻ kính trọng ông Gioan vì ông đã ở lại với Đức Chúa cho đến chết, trong khi chính họ thì đã hèn nhát bỏ mặc Chúa và Thày mình trong giờ Người cần họ nhất nên cảm thấy xấu hổ. Ông Gioan đơn sơ chân thật như đứa trẻ, đã an ủi mọi người với lòng bác ái và thương cảm thiết tha, làm như ông rất sợ người ta ca tụng ông vậy. Tôi thấy nhóm này hôm đó ăn một bữa cơm nhưng phần lớn đều im lặng, cửa nẻo đều đóng chặt. Không nghe thấy một tiếng động khắp căn nhà. Không ai quấy nhiễu họ vì đây là nhà của ông Nicôđêmô, và ông để họ sử dụng trong thời gian lễ Vượt Qua.
-------------------------------
41/ CHƯƠNG 41
MỘT SỐ DỮ KIỆN VỀ VIỆC ĐỨC GIÊSU XUỐNG NGỤC TỔ TÔNG
Khi Đức Giêsu kêu lớn tiếng rồi tắt thở, tôi thấy linh hồn Người như một sao băng sáng ngời có thiên thần Gabrien và nhiều thiên thần khác hộ tống, xuyên qua mặt đất dưới chân thập giá. Thiên Tính Chúa vẫn luôn kết hợp với linh hồn cũng như với thân xác Người hiện còn treo trên thập giá, nhưng tôi không biết diễn tả như thế nào mặc dù tôi trông thấy rõ ràng trong trí tôi. Nơi linh hồn Đức Giêsu đến được chia làm ba phần, trông như ba thế giới. Tôi có cảm tưởng như các thế giới này hình tròn, và tách biệt với nhau bằng một bán nguyệt.
Đối diện với Lâmbô, tôi thấy có vùng ánh sáng đẹp mắt, hoa lá xanh tươi, gió hiu mát thổi quanh. Nhiều linh hồn sau khi được giải thoát khỏi Luyện Ngục thì đến đó trước khi được vào Thiên Đàng. Lâmbô, nơi các linh hồn chờ đợi ơn Cứu Độ, được chia thành nhiều khu khác nhau có sương mù mầu dầy đặc bao quanh. Đấng Cứu Thế, rực rỡ hào quang với cơ binh thiên thần chầu chực tiến vào giữa hai khu này trong chiến thắng khải hoàn. Khu bên trái là các tổ phụ từng sống trước thời ông Abraham, khu bên phải, là các tổ phụ sống giữa thời ông Abraham và ông Gioan Tẩy Giả. Các linh hồn này thoạt tiên không nhận ra Đức Giêsu, nhưng đều cảm thấy tràn đầy vui mừng và hy vọng. Không có chỗ nào trong hai khu chật hẹp này mà không cảm thấy hân hoan hạnh phúc. Đấng Cứu Độ đi qua như làn gió mát, như ánh sáng, như sương sớm, thật mau lẹ như tiếng gió rì rào. Đức Chúa mau lẹ đi qua giữa hai vùng đến một nơi mờ ảo trong đó có tổ tông chúng ta, ông ADong và bà Evà. Người nói chuyện với họ, và họ sùng bái Người trong say mê khôn tả. Đám rước đi theo sau Đức Chúa gồm những con người đầu tiên, giờ đây rẽ sang trái về Lâmbô nơi có các Thủ Lãnh của dân Chúa. Đây là một loại Luyện Ngục, vì có ma qủy đây đó, chúng gây đau khổ và quấy rầy một số linh hồn. Các thiên thần đập mạnh vào cửa. Dường như tôi nghe các thiên thần la lớn: "Mở cổng! Mở cửa!" Đức Giêsu chiến thắng đi vào, trong khi ma qủy tháo lui và la lớn: "Ngài làm gì chúng tôi? Ngài muốn gì ở đây? Ngài muốn đóng đinh chúng tôi sao?" vân vân. Các thiên thần dồn và trói chúng lại. Các linh hồn ở đây chỉ biết lơ mơ về Đức Giêsu; nhưng khi Người cho họ biết rõ ràng Người là ai, họ lớn tiếng ngợi khen và cảm tạ. Và giờ đây linh hồn Đức Giêsu quay sang vùng bên phải, đúng là Lâmbô. Ở đây có linh hồn của người trộm lành được các thiên thần hộ tống đến trong lòng ông Abraham, trong khi tên trộm dữ bị ma qủy kéo xuống Hỏa Ngục. Đức Giêsu nói vài lời với cả hai và sau đó, Người đi vào lòng ông Abraham có vô số thiên thần và những người được cứu độ theo hầu, và cả bọn ma qủy đã bị trói chặt và tống ra khỏi khu vực này.
Tôi thấy dường như chỗ này cao hơn khu vực chung quanh và chỉ có thể mô tả cảm nghiệm của mình bằng cách so sánh với một người bỗng nhiên đi vào một nhà thờ sau khi thơ thẩn một thời gian trong khu vực các phần mộ. Bọn ma qủy bị xiềng xích vùng vẫy chống trả không muốn đi vào, nhưng các thiên thẩn bắt chúng phải tiến lên. Tất cả những người công chính đã sống trước thời Chúa Kitô đều tập trung tại đây: bên tay trái là các tổ phụ, ông Môisen, các phán quan, và vua chúa. Bên tay phải là các thẩm phán, và tổ tiên của Đức Chúa chúng ta cũng như họ hàng gần như ông Gioakim, bà Anna, ông Giuse, ông Dacaria, bà Isave, và ông Gioan. Trong vùng này không có ma qủy, cái khó chịu duy nhất của những người ở đây là nóng lòng trông đợi Lời Hứa được hoàn thành; và khi Đức Chúa đi vào thì tất cả đều cất tiếng hát những bài ca biết ơn vui tươi và cảm tạ để chào đón Người. Họ qùy xuống thờ lạy Người, và bọn tà thần bị lôi cổ vào lòng ông Abraham đều bắt buộc phải thú nhận rằng chúng đã bị thua nhục nhã. Nhiều linh hồn thánh thiện này được Đức Chúa ra lệnh trở lại trần thế nhập vào xác của họ để long trọng và hùng hồn làm chứng cho Sự Thật. Chính lúc đó nhiều người chết đã rời mộ phần của họ ở Giêrusalem. Tôi không coi họ như những người đã chết sống lại mà chỉ như những xác chết chuyển động do một sức mạnh thiêng liêng thúc đẩy mà thôi. Sau đó họ trở về vị trí cũ như những huy hiệu chức vụ mà một người thư ký đeo vào để thi hành nhiệm vụ và khi sứ mạng cấp trên trao phó được hoàn thành thì lại đem cất đi.
Tiếp theo tôi thấy đám rước khải hoàn của Đức Chúa đi vào một thứ Luyện Ngục trong đó đầy linh hồn những dân ngoại đạo đức, từng có một ý thức lờ mờ về sự thật và ước ao được thấy kết quả. Luyện Ngục này rất sâu và có vài tên qủy cũng như vài ngẫu thần của dân ngoại. Tôi thấy ma qủy bị buộc phải thú nhận rằng chúng đã lừa dối người ta bằng các ngẫu tượng, và linh hồn của những người tội nghiệp này qùy dướì chân Chúa Giêsu và vui mừng thờ lạy Người. Ở đây cũng vậy, ma qủy bị trói gô lại và tống cổ ra ngoài. Tôi còn thấy Đấng Cứu Độ chúng ta làm nhiều điều khác nữa; nhưng đồng thời tôi cũng chịu quá nhiều đau đớn nên không thể kể lại như ý muốn được.
Sau cùng tôi thấy Người tiến vào trung tâm vực thẳm, nghĩa là vào chính Hỏa Ngục, và diện mạo Người vô cùng nghiêm khắc.
Mặt ngoài của Hỏa Ngục trông thật buồn thảm và đáng sợ. Đây là một tòa nhà to lớn nặng nề khủng khiếp, và mặc dù những tảng đá hoa cương dùng để xây nhà này có màu đen nhưng trông nó lấp lánh như kim loại. Các cánh cửa nặng nề đen đủi được khóa bằng những cái chốt khủng khiếp khiến không ai nhìn thấy mà không rùng mình sợ hãi. Dù cửa đóng chặt nhưng cũng có thể phân biệt được những tiếng rên siết với những tiếng gào tuyệt vọng. Nhưng than ôi, ai có thể tả được những tiếng la hét rùng rợn đâm thủng lỗ tai khi rút các then cài và cánh cửa mở tung, và ai có thể tả được dáng điệu buồn thảm của những kẻ sống trong chốn đầy đọa khốn khổ này!
Hình ảnh Giêrusalem thiên quốc mà tôi thường được thị kiến là một thành phố đẹp đẽ ngăn nắp với những lâu đài lộng lẫy khác nhau tùy theo cấp độ vinh quang của các linh hồn tuyển chọn được vui hưởng hoặc những khu vườn thiên quốc đầy rẫy hoa trái tuyệt vời. Hỏa Ngục cũng hiện ra trước mắt tôi như vậy nhưng trái lại đây là một nơi hỗn độn, khép kín, đông đúc nghẹt thở; bất cứ một vật gì cũng cho ta cảm tưởng như đầy ắp đau đớn và tang tóc. Dấu chỉ thịnh nộ và trừng phạt của Thiên Chúa hiển hiện khắp nơi; tuyệt vọng như những con kên kên gặm nhấm từng trái tim; xung đột và khốn đốn bàng bạc khắp nơi. Trong Giêrusalem Thiên Quốc thì bình an và hòa hợp vô tận; đây là nơi khởi đầu, kiện toàn và tận cùng của mọi sự vô cùng trong sáng và hạnh phúc. Thành phố gồm toàn những công trình tuyệt mỹ, trang hoàng đẹp mắt và làm say mê mọi giác quan. Dân cư thành phố này lúc nào cũng tràn ngập hân hoan vui sướng; vườn tược lúc nào cũng vui tươi với bao hoa thơm cỏ lạ, cây cối đầy những trái hương vị thơm ngon đem lại sự sống vĩnh cửu. Còn trong thành phố của Hỏa Ngục thì chỉ thấy những nhà tù dễ sợ, hang hố tối thui, sa mạc khủng khiếp, đầm lầy hôi thối đầy những rắn độc đủ loại gớm ghiếc. Trên Thiên Đàng là các thánh thông công trong hạnh phúc và bình an. Trong Hỏa Ngục là những màn gây hấn triền miên và đủ loại tội lỗi sa đọa ghê tởm dưới những hình thức không thể tưởng tượng nổi hoặc những dày vò khiếp đảm. Bất cứ cái gì trong chỗ đó cũng khiến cho tâm hồn tràn ngập sợ hãi; không một lời an ủi, không ai nghĩ đến một tư tưởng thoải mái; ý nghĩ duy nhất đè nặng tâm trí mọi người là công lý của Đức Chúa Trời Quyền Năng Vô Cùng trừng phạt những kẻ đáng bị trừng phạt vì những việc họ đã làm. Thói hư tật xấu nay hiện nguyên hình đúng màu sắc của nó sau khi đã bị lột mặt nạ, và rắn độc hỏa ngục thì cắn xé triền miên những kẻ đã từng say mê hoặc khuyến khích thói hư tật xấu dưới thế gian này. Nói tóm lại, Hỏa Ngục là đền thờ của lo âu thất vọng, trong khi Nước Chúa là Đền Thờ của bình an hạnh phúc. Được nhìn thấy thì dễ hiểu lắm, nhưng không thể nào diễn tả cho rõ ràng được. Tất cả những điều này thật dễ hiểu nhưng không thể diễn tả hết chi tiết.
Khi các thiên thần mở rộng cánh cổng Hỏa Ngục ra, thì những tiếng nguyền rủa, chế nhạo, la hét, và rên rỉ nổ tung như sấm dậy. Tôi thấy Đức Giêsu nói vài lời với linh hồn của Giuđa và các thiên thần buộc ma qủy phải phủ phục trước mặt Đức Giêsu, phải nhận biết và thờ lạy Người. Chúng thà chịu những hình phạt khủng khiếp bội phần hơn là phải chịu cái nhục này, nhưng tất cả bọn chúng đều bắt buộc phải quy phục. Rất nhiều qủy dữ bị xiềng thành một vòng tròn rồi bị đặt chung quanh những vòng tròn khác. Ở trung tâm Hỏa Ngục là một vực thẳm đen tối và Luxiphe bị quăng vào đó, sau khi đã bị trói chặt bằng giây xích; khói đen lưu huỳnh dầy đặc khủng khiếp ùn ùn kéo lên từ vực thẳm nhận chìm hình thù quái đản của tên qủy dữ khiến người ta không còn thấy hắn nữa. Chính Thiên Chúa đã ra án lệnh này. Tôi nghe rằng Luxiphe (nếu tôi không lầm) sẽ được tự do trong khoảng năm mươi hay sáu mươi năm trước năm 2,000. Tôi còn được biết thời điểm của nhiều biến cố quan trọng nhưng tôi không nhớ nữa. Một số qủy khác được thả ra sớm hơn Luxiphe, để cám dỗ con người và để làm khí cụ trừng phạt của Thiên Chúa. Tôi nghĩ là một số đã được thả ra ngay trong thời đại hiện nay và một số khác sẽ được thả ra trong thời gian gần đây (tức là thế kỷ thứ 18, thời của Chân Phước Emmerich).
Tôi không thể nào kể lại được tất cả những gì tôi đã linh kiến. Số lượng quá nhiều nên không thể giảm bớt đi hầu kể lại cho người ta dễ hiểu. Ngoài ra, những đau đớn tôi phải chịu quá nhiều và những gì chứng kiến trong con mắt trí tuệ của tôi đều rõ ràng khiếp đảm như thật nên một người phàm hèn yếu đuối như tôi rất có thể chết đi được.
Sau đó tôi còn thấy vô số những đoàn linh hồn được cứu rỗi rời khỏi Luyện Ngục và Lâmbô, tháp tùng Chúa chúng ta đến một nơi tuyệt diệu nằm ở phía trên thành Giêrusalem thượng giới mà trong đó, chỉ ít lâu trước tôi được nhìn thấy linh hồn của một người rất thân thích với tôi. Linh hồn của người trộm lành cũng được đưa vào đó và lời Chúa hứa Hôm nay ngươi sẽ được cùng Ta vào nước Thiên Đàng đã được ứng nghiệm.
Tôi không có quyền cắt nghĩa thời điểm cụ thể khi nào thì những biến cố này xảy ra và cũng không thể nói lại chừng một nửa những gì tôi đã mắt thấy tai nghe, vì một số điều ngay cả tôi cũng không hiểu được, và một số khác sẽ bị hiểu lầm nếu tôi cố gắng kể lại. Tôi thấy Đức Chúa ở nhiều nơi khác nhau. Ngay cả ngoài biển hình như Người cũng thánh hóa và giải thoát mọi tạo vật. Nơi nào Người đến thì ác qủy đều chạy trốn và tự gieo mình vào vực thẳm đen tối. Tôi cũng được thấy linh hồn Đức Chúa đến thăm nhiều nơi trên mặt đất; trước hết là trong ngôi mộ của ADong dưới chân Gôngôtha. Và khi Người đến đó thì linh hồn của ông ADong và bà Evà đến với Người và Người nói chuyện một hồi với hai ông bà. Sau đó Người viếng mộ các Ngôn Sứ đẵ từng được chôn rất sâu dưới lòng đất, nhưng Người đi xuyên qua lòng đất trong nháy mắt. Linh hồn các vị ngôn sứ lập tức nhập vào xác họ, và Đức Giêsu giải thích cho họ nhiều mầu nhiệm tuyệt vời. Sau đó tôi thấy Người đi cùng với một nhóm ngôn sứ được tuyển chọn, trong đó tôi nhận thấy vua Đavít, đến thăm nhiều nơi trên mặt đất đã được thánh hóa vì các phép lạ và cuộc Khổ Nạn của Người. Với một lòng nhân hậu và yêu thương vô bờ bến Người giải thích cho họ những dấu chỉ tượng trưng khác nhau trong lề luật cũ, biểu hiệu của tương lai, và Người cho họ biết Người đã hoàn tất từng sấm ngôn (lời tiên tri) như thế nào. Cảnh tượng linh hồn Đức Chúa cùng với những linh hồn hạnh phúc, rạng rỡ ánh sáng này thật vĩ đại khôn tả, khi thì Người khải hoàn lướt trong không gian nhanh như sét đánh, hoặc bay trên sông ngòi, hoặc xuyên qua núi đá rắn chắc nhất để vào tận giữa lòng trái đất, hoặc lặng lẽ di chuyển trên mặt đất.
Tôi không thể nhớ lại bất cứ điều gì ngoài những sự kiện mà tôi vừa kể liên quan đến việc Chúa Giêsu xuống Lâm bô - ngục tổ tông - để đem cho những linh hồn đang bị cầm giữ ở đó ơn Cứu Chuộc mà Người đã dành lại được cho họ qua công lao cái chết và những đau khổ của Người. Tất cả những điều này tôi chỉ thấy trong vòng có một thời gian rất ngắn ngủi. Thật thế, thời giờ qua mau đến nỗi tôi có cảm tưởng như chỉ là trong chốc lát. Nhưng đồng thời Đức Chúa còn cho tôi thấy một hình ảnh khác, trong đó lòng thương xót bao la vô biên của Đức Chúa được ban cho các linh hồn tội nghiệp thời đại chúng ta bị giam cầm trong Luyện Ngục; bởi vì hằng năm vào ngày trọng đại này, khi Giáo Hội cử hành mầu nhiệm cái chết vinh quang của Chúa thì Người thương xót nhìn đến các linh hồn nơi Luyện Ngục và giải phóng cho một số đã từng phạm tội chống lại Người trước khi Người bị đóng đanh. Hôm nay, tôi thấy Người đã phóng thích rất nhiều linh hồn, một số tôi quen biết, và một số khác xa lạ với tôi nhưng tôi không được nêu tên bất cứ ai.
Khi xuống địa ngục Chúa Giêsu đã trồng trong vườn hoa thiêng của Giáo Hội một cây mầu nhiệm (nếu tôi có thể nói như vậy) - mà hoa trái là công nghiệp của Người - dùng để giảm bớt nỗi đau khổ thường trực của các linh hồn tội nghiệp trong Luyện Ngục. Giáo Hội Chiến Đấu phải vun trồng cây này và thu hoạch hoa trái để chuyển cho Giáo Hội Đau Khổ không còn có cơ hội lập công cho chính mình nữa. Tất cả công nghiệp của Đức Kitô là như vậy đó; chúng ta phải ra sức làm việc với Người nếu chúng ta muốn được dự phần vào công nghiệp ấy; chúng ta phải đổ mồ hôi mới có bánh ăn. Tất cả những gì Đức Chúa đã làm cho chúng ta trong hữu hạn phải sản xuất hoa trái cho vô hạn. Nhưng chúng ta phải thu hoạch hoa trái trong hữu hạn nếu không thì không thể sở hữu hoa trái này trong vô hạn được. Giáo Hội là một người mẹ rất mực khôn ngoan và thận trọng; năm phụng vụ của Giáo Hội là một vườn trồng cây ăn trái huy hoàng vĩ đại, trong đó hoa trái của thời vĩnh cửu được thu góp lại để chúng ta có thể sử dụng trong thời gian hữu hạn. Năm nào cũng cung cấp đầy đủ nhu cầu cho mọi người, nhưng khốn thay cho người làm vườn bất lương nào để cho hoa trái trao phó cho họ bị hư mất; nếu người ấy không chăm sóc xứng đáng những ơn lành khả dĩ chữa lành cho người mắc bệnh, sức khỏe cho người yếu đuối, hoặc thức ăn cho người đói khát! Khi Ngày Phán Xét đến, Chủ vườn sẽ buộc họ phải tính sổ chi ly không những từng cây một mà còn từng trái đã sinh ra trong vườn nữa!
----------------------
42/ CHƯƠNG 42
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH - ĐỨC GIÊSU LÊN TRỜI
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN NGỰ XUỐNG
Vào cuối ngày Sabát, ông Gioan đến thăm các bà thánh thiện. Ông cố gắng an ủi họ phần nào nhưng chính ông cũng không cầm được nước mắt nên chỉ ở lại với các bà một thời gian ngắn. Các bà cũng được ông Phêrô và Giacôbê Cả đến thăm chốc lát. Sau đó các bà lui về phòng riêng để tự do tỏ lòng phiền muộn với riêng mình. Họ ngồi trên tro bụi, đầu trùm khăn kín mít.
Đức Trinh Nữ cầu nguyện không ngừng. Mẹ không hề ngưng theo dõi Con Mẹ bằng đôi mắt tâm linh, và vẫn nóng lòng trông đợi đến lúc lại được nhìn thấy người Con mà Mẹ yêu dấu không bút nào tả xiết. Bỗng chốc một thiên thần đến cạnh Đức Mẹ, mời Mẹ đứng lên và lại gần cửa nhà ông Nicôđêmô vì Đức Chúa đang đến gần. Tâm hồn Mẹ nhảy lên vui sướng. Mẹ vội thắt chặt áo gọn ghẽ và rời các bà thánh thiện mà không cho họ biết Mẹ đi đâu. Tôi thấy Mẹ đi nhanh đến cổng nhỏ của bức tường thành phố, đại loại giống hệt như cổng nhỏ Mẹ cùng các bạn đi qua sau khi từ ngôi mộ trở về.
Lúc ấy khoảng chín giờ tối và Đức Thánh Trinh Nữ đã gần tới cổng bỗng tôi thấy Mẹ ngưng lại ở một chỗ rất vắng vẻ, ngước mắt nhìn lên trời với vẻ mặt vô cùng rạng rỡ hân hoan, vì trên mặt thành tường Mẹ trông thấy linh hồn Đức Chúa chói lọi sáng ngời không một thương tích, giữa vô số các thánh tổ phụ. Đức Chúa ngự xuống bên Mẹ, quay lại các bạn đi theo Người và giới thiệu Mẹ Người cho các vị. Chúa nói: “Đây là Đức Maria! Đây là Mẹ Tôi!” Hình như tôi thấy Người chào Mẹ bằng một nụ hôn, rồi Người biến mất. Đức Trinh Nữ liền qùy xuống và hôn chỗ Đức Giêsu vừa đứng, và dấu chỉ tay và đầu gối của Mẹ còn in trên đá. Cảnh tượng Mẹ được chứng kiến đem lại cho Mẹ một niềm vui khôn tả. Mẹ lập tức trở về với các bà đạo đức đang bận rộn chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Mẹ không cho họ biết những gì Mẹ đã trông thấy, nhưng Mẹ đã vững vàng lấy lại được sức mạnh thần trí. Mẹ hoàn toàn đổi mới, vì vậy Mẹ an ủi mọi người và cố gắng tăng cường đức tin cho họ.
Tất cả các bà thánh thiện đều ngồi tại một cái bàn dài có trải khăn trùm sát đất khi Đức Maria trở lại. Tôi thấy đủ mọi loại lá thơm chất đống chung quanh các bà và họ đang pha trộn và sắp xếp lại; nhiều chai nhỏ đựng dầu thơm và nước cam tùng để cạnh đó, và một số hoa trong đó tôi để ý đặc biệt có một loại như hoa huệ hay hoa iris (ai-ri-x) có sọc. Bà Mađalêna, bà Maria con ông Clêôpha, bà Salômê, bà Maria Salômê, và bà Gioanna Chusa đã mua những thứ này ngoài phố khi Đức Maria vắng mặt. Họ định bụng sáng hôm sau trước khi mặt trời mọc ra mộ để trải hoa và xức thuốc thơm lên thân thể của vị Thầy yêu qúi của họ.
ÔNG GIUSE ARIMATHÊA ĐƯỢC GIẢI THOÁT MỘT CÁCH MẦU NHIỆM
sau khi Đức Maria trở về với nhóm các bà thánh thiện được một lát thì tôi nhìn thấy phía trong ngục tối mà kẻ thù của ông Giuse Arimathêa đã nhốt ông. Tôi thấy ông đang cầu nguyện sốt sắng, bỗng ánh sáng chói chan chiếu tỏa khắp phòng, và tôi nghe một tiếng nói gọi tên ông, đồng thời nóc nhà mở ra và một tấm vải xuất hiện, giống như tấm vải mà ông đã dùng để liệm xác Đức Giêsu. Ông Giuse đưa hai tay nắm lấy tấm vải, lập tức ông được kéo lên, và nóc nhà khép lại như cũ sau khi ông băng qua. Và thị kiến biến mất sau khi ông được đưa lên đỉnh tháp an toàn. Tôi không rõ thị kiến đó là Đức Chúa hay một thiên thần nào đã trả tự do cho ông.
Ông bèn đi dọc mặt thành tường đến gần khu Nhà Tiệc Ly ở phía Nam Sion. Tại đây ông leo xuống và gõ cửa căn nhà vì mọi cửa nẻo đều khóa chặt cả. Các môn đệ tụ tập nơi đó đang buồn phiền về việc ông Giuse mất tích; họ nghĩ rằng ông đã bị ném xuống cống, vì thời đó những tin tức như vậy rất phổ biến. Vì vậy khi mở cửa và chính ông đi vào, thì niềm vui của họ quả thật lớn lao, cũng lớn lao không kém như khi ông Phêrô được mầu nhiệm cứu thoát mấy năm sau đó. Khi ông Giuse kể lại cho họ những gì đã xảy ra thì họ ngạc nhiên thích thú. Sau khi sốt sắng tạ ơn Chúa, họ cho ông ăn uống để lấy lại sức khỏe. Ông rời Giêrusalem ngay tối hôm ấy và trốn về Arimathê, quê ông, và ở đó cho đến khi có thể an toàn trở lại Giêrusalem.
Cuối ngày Sabát tôi cũng thấy Caipha ở nhà ông Nicôđêmô. Caipha tỏ vẻ như tử tế với ông lắm và đặt ra nhiều câu hỏi. Nhưng ông Nicôđêmô đã trả lời một cách cương quyết và luôn khẳng định rằng Đức Giêsu hoàn toàn vô tội. Họ không đàm đạo với nhau lâu.
ĐÊM VỌNG PHỤC SINH
Sau đó tôi thấy ngôi mộ của Đức Chúa. Mọi sự chung quanh ngôi mộ thánh đều êm đềm, tĩnh mịch. Có sáu người lính gác trước cửa mộ, một số ngồi, một số đứng trong đó có Cátsiô. Trông ông ta như trầm ngâm suy gẫm và có vẻ như đang chờ đợi một biến cố lớn lao. Thân Thể Linh Thiêng của Đấng Cứu Chuộc chúng ta nằm trong khăn liệm có hào quang bao quanh và có hai thiên thần ngồi chầu, một ở đàng đầu, và một ở đàng chân trong tư thế thờ lạy. Tôi đã thấy các vị trong tư thế ấy từ khi Xác Đức Giêsu được đặt trong mộ. Các thiên thần này quần áo như các thày tư tế. Tư thế và cách thức khoanh tay trước ngực của các vị làm tôi nhớ lại các thiên thần Kêrubim đứng chầu chung quanh Hòm Bia Giao Ước, tuy các vị này không có cánh, hoặc ít nhất đối với riêng tôi thì không thấy cánh. Toàn thể ngôi mộ nhắc tôi nhớ đến những giai đoạn khác nhau trong lịch sử của Hòm Bia Giao Ước. Có thể ông Cátsiô cảm thấy sự hiện diện của các thiên thần và ánh sáng chói chan trong mộ, bởi vì thái độ của ông giống như một người đang sâu xa chiêm ngưỡng Phép Thánh Thể.
Sau đó tôi thấy linh hồn Đức Chúa cùng với linh hồn các thánh tổ phụ mà Người đã giải phóng xuyên qua tảng đá để vào mộ. Người cho họ thấy các thương tích trên thân thể rất thánh của Người. Và dường như tôi thấy khăn liệm bọc xác Đức Giêsu tự động mở ra và Người như muốn cho các linh hồn biết cái đau khổ quá sức tưởng tượng mà Người đã phải chịu để cứu chuộc họ. Trông xác ấy dường như trong suốt để có thể nhận ra được hết chiều sâu các vết thương, khiến cho các linh hồn thánh thiện này vô cùng khâm phục mặc dầu họ cũng vô cùng xót xa và đôi mắt họ rưng rưng ngấn lệ.
Thị kiến kế tiếp thật quá bí ẩn nên tôi không thể kể lại một cách rõ ràng dễ hiểu. Đối với tôi hình như thể xác và linh hồn Đức Giêsu được đưa ra khỏi mộ nhưng linh hồn chưa hoàn toàn kết hợp trở lại với thể xác Người hiện vẫn còn nằm bất động. Tôi nghĩ tôi thấy hai thiên thần qùy thờ lạy một vị ở đầu, một vị ở chân, nâng xác ấy lên - giữ xác trong vị thế như đã đặt trong mộ - và đưa xác vẫn đầy vết thương và còn bọc trong khăn đi qua tảng đá, và tảng đá đã rúng động sợ hãi. Và dường như tôi thấy Đức Giêsu dâng xác của Người còn in các dấu thánh của Cuộc Khỗ Nạn lên Đức Chúa Cha đang ngự trên ngai với vô vàn vô số triều thần thiên quốc hân hoan ca lên những bài ca thánh ân thờ lạy. Trường hợp này có lẽ cũng tương tự như khi Đức Chúa tắt thở, rất nhiều linh hồn thánh thiện nhập vào thân xác của họ và xuất hiện tại nhiều nơi trong Đền Thờ và những chỗ khác nhau trong thành Giêrusalem. Thân xác họ chuyển động nhưng họ không thực sự sống, và như vậy họ lại sẽ phải chết một lần thứ hai, trái lại họ trở về trạng thái nguyên thủy không khó khăn gì; nhưng ta có thể nói rằng dáng vẻ thân xác bề ngoài của họ cũng giống như của Đức Chúa (nếu có thể cắt nghĩa như vậy) khi Người tháp tùng thân xác của Người đến ngai Thiên Chúa Cha.
Lúc này thì tảng đá chuyển động dữ dội từ trên xuống dưới đến nỗi ba tên lính gác té nhào xuống đất và ngất xỉu luôn. Bốn tên lính kia khi ấy không có mặt vì chúng đang chạy về thành để lấy một cái gì. Mấy tên lính bị quật ngã cho rằng họ té ngã vì một trận động đất. Ông Cátsiô mặc dầu không rõ đây là điềm gì, nhưng có một cảm giác nội tâm rằng đây là điềm báo trước một biến cố rất trọng đại, nên đứng ngay trân như trông đợi xem việc gì sẽ xảy ra. Sau đó mấy tên lính đi Giêrusalem đã trở về.
Một lần nữa tôi lại thấy các bà thánh nữ: họ đã chuẩn bị thuốc thơm xong và đang nghỉ ngơi trong các ô riêng; các bà không nằm dài trên nệm mà chỉ dựa vào khăn trải nệm đã được cuộn tròn dựng bên vách. Các bà muốn ra mộ trước khi trời sáng vì họ sợ gặp phải kẻ thù của Đức Giêsu, nhưng Đức Thánh Trinh Nữ hoàn toàn hồi phục và đầy nghị lực từ khi đã trông thấy Con Mẹ, đã an ủi và khuyên họ hãy đi ngủ một thời gian, rồi sẽ ra mộ sau, mà không phải sợ hãi gì vì họ sẽ không bị ám hại đâu. Và các bà đã nghe lời Mẹ khuyên và cố gắng di ngủ trong chốc lát.
Lúc đó khoảng mười một giờ đêm, Đức Thánh Trinh Nữ không nén được cảm tình yêu thương nồng cháy liền ngồi dậy, khoác áo choàng lên người và rời căn nhà một mình. Khi thấy Mẹ làm như vậy thì tôi không khỏi lo lắng và tự nghĩ: Ôi chao! Làm sao mà Rất Thánh Đức Mẹ đã từng kiệt sức vì lo lắng sợ hãi lại còn có thể mạo hiểm đi ra phố một thân một mình vào giờ khuya khoắt này? Tôi thấy Mẹ đến nhà Caipha trước, rồi sau đến dinh Philatô, cách đó rất xa. Tôi nhìn Mẹ cô đơn đi dọc theo suốt chặng đường mà Đức Giêsu vác cây thập giá nặng nề đã đi qua. Mẹ dừng chân lại từng chỗ mà Đấng Cứu Độ của chúng ta đã đặc biệt chịu đau đớn hoặc đã bị kẻ thù dã man ngược đãi. Dáng điệu của Mẹ giống như người đang chậm rãi đi tìm một cái gì. Người thường cúi xuống đất, rờ tay vào các hòn đá và hôn rất nhiều vào những chỗ đó coi như là bửu huyết của Con yêu dấu của Mẹ vẫn còn đọng nơi đó. Thiên Chúa lúc đó ban cho Mẹ những ánh sáng và ân sủng đặc biệt và Mẹ đã có thể phân biệt được không khó khăn gì tất cả những chỗ mà Con Mẹ đã thánh hoá bằng những đau khổ của Người. Tôi đi theo Mẹ qua khắp chặng đường hành hương, và tuy rất đau yếu nhưng tôi cũng cố gắng hết sức để bắt chước Mẹ.
Rồi Đức Maria lên núi Canvê, nhưng khi gần đến nơi thi Mẹ bỗng đứng lại và tôi thấy Thân Thể Rất Thánh và linh hồn của Đấng Cứu Chuộc đứng trước mặt Mẹ. Một thiên thần đi trước, hai thiên thần mà tôi thấy ngồi cạnh Người trong huyệt mộ và hàng trăm linh hồn mà Chúa đã chuộc tội cho đi theo Người. Thân thể Chúa Giêsu sáng láng tốt lành nhưng trông không giống như một người đang sống mặc dù có tiếng nói phát ra từ đó. Và tôi nghe Người kể lại cho Đức Maria tất cả những điều Chúa đã làm trong Lâmbô rồi đoan chắc với Mẹ ràng Người sẽ trở lại trong Thân Xác Vinh Quang của Người; và sẽ tỏ mình ra cho Mẹ và Mẹ nên đợi Người xuất hiện cạnh tảng đá trên Núi Canvê, và ở chỗ mà Mẹ đã thấy Người té ngã. Sau đó Đấng Cứu Chuộc chúng ta đi về hướng Giêrusalem, và Đức Thánh Trinh Nữ một lần nữa khoác khăn trùm đầu qùy xuống chỗ Người vừa chỉ. Tôi nghĩ lúc đó đã quá nửa đêm, vì cuộc hành hương của Đức Maria đã mất ít nhất một tiếng đồng hồ. Sau đó tôi thấy những linh hồn thánh thiện đã được Chúa cứu chuộc, đến lượt họ cũng đi qua chặng đường đau khổ, và dừng lại suy gẫm tại những chỗ mà Người đã chịu thay cho họ. Các thiên thần đi theo họ thu lượm lại tất cả những mảnh da thịt rất thánh nhỏ nhặt nhất của Người đã bị rơi vãi vì những đòn vọt Người đã chịu kể cả những giọt máu thánh chảy thấm vào những chỗ Người té ngã.
Sau đó, thân xác rất thánh Đức Chúa nằm trở lại theo tư thế như tôi đã nhìn thấy trong ngôi mộ trước đây. Các thiên thần bận rộn đặt tất cả những mảnh da thịt rất thánh mà các ngài đã thu lượm được vào thân xác Đức Chúa. Họ đã làm được việc này với sự trợ giúp siêu nhiên. Rồi đến lúc tôi ngắm nhìn Chúa thì Người lại được quấn trong khăn liệm, ánh sáng rực rỡ bao quanh với hai thiên thần thờ lạy bên cạnh. Tôi không thể cắt nghĩa được những việc này xảy ra thế nào vì đây là chuyện ngoài tầm hiểu biết của loài người chúng ta. Và cho dù chính tôi có hiểu thấu được những chuyện này đi chăng nữa, và nếu tôi có cắt nghĩa cho người khác, thì đối với họ cũng vẫn là một vấn đề quá mơ hồ và huyền bí.
Ngay khi vừa lấp lánh tia sáng bình minh, tôi thấy bà Mađalêna, bà Maria con ông Clêôpha, bà Gioanna Chusa, và bà Salômê ra khỏi Nhà Tiệc Ly, mặc áo choàng gọn ghẽ. Các bà mang theo từng bọc thuốc thơm, và một người trong bọn cầm một ngọn nến đốt sáng mà bà cố dấu dưới vạt áo. Tôi thấy các bà run rẩy bước đến cổng nhỏ chỗ nhà ông Nicôđêmô.
---------------------------------------
43/ CHƯƠNG ILIII
ĐỨC CHÚA PHỤC SINH
Tôi thấy linh hồn Đức Chúa ở giữa hai thiên thần mặc chiến phục: linh hồn Chúa sáng láng, chói chan, huy hoàng như mặt trời chính ngọ, xuyên qua tảng đá chạm vào Thân Thể Rất Thánh và nhập vào đó, và lập tức thể xác và linh hồn Người hiệp nhất lại làm một. Rồi tôi thấy tứ chi Người cử động, và thân xác Chúa kết hiệp với linh hồn và Thiên Tính của Người đứng lên và rũ bỏ khăn liệm ra, toàn thể căn hầm mộ bừng sáng huy hoàng.
Cùng lúc đó tôi thấy một con quái vật ghê sợ vọt từ phía dưới hầm mộ lên. Đuôi nó như đuôi rắn, nó ngạo nghễ ngóc cái đầu rồng của nó lên như muốn giao tranh với Đức Giêsu, và nếu trí nhớ tôi chính xác thì nó còn có một cái đầu người nữa. Nhưng Đức Chúa chúng ta cầm một cây gậy trắng trong tay ở đầu có gắn một lá cờ lớn. Người đạp chân lên đầu con rồng, và dùng gậy đánh vào đuôi nó ba lần. Sau đó con quái vật biến đi. Tôi đã có thị kiến này nhiều lần trước khi Chúa phục sinh và đã thấy một con quái vật như vậy, có vẻ như muốn ẩn mình lúc Chúa nhập thể. Nó rất giống con rắn đã từng cám dỗ tổ tiên chúng ta trên Thiên Đàng, tuy con vật này còn gớm tởm hơn nữa. Tôi nghĩ thị kiến này ám chỉ cho lời sấm ngôn là 'hậu duệ của người nữ sẽ đạp nát đầu con rắn'. Toàn cảnh này là để chứng minh cho sự kiện Đức Chúa chiến thắng sự chết, vì cùng lúc tôi thấy Người đạp nát đầu con quái vật thì ngôi mộ cũng bién mất luôn.
Rồi tôi thấy Thân Xác Vinh Quang của Đức Chúa đứng lên và đi qua lớp đá dễ dàng như (nước chảy) qua một chất mỏng không có sức cản. Trái đất rung chuyển và một thiên thần mặc chiến phục từ Trời bay xuống nhanh như lằn chớp, đi vào mộ, nâng tảng đá và đẩy nó sang bên phải rồi ngồi trên đó. Trước cảnh tượng oai nghiêm khiếp đảm, bọn lính canh té xuống đất và nằm ngay đơ như chết rồi. Khi Cátsiô thấy ngôi mộ bừng sáng thì ông bước lại chỗ trước kia đã đặt thân thể rất thánh Đức Chúa, rờ tấm khăn liệm và rời nơi đó với ý định về báo cáo lại cho Philatô tất cả những gì đã xảy ra. Tuy nhiên ông còn chần chờ một lát nữa để xem sự việc còn tiếp diễn thế nào, vi mặc dù đã cảm thấy cơn động đất, nhìn thấy thiên thần đẩy tảng đá ra và nhìn vào ngôi mộ nhung ông không được thấy Đức Giêsu.
Ngay lúc thiên thần đi vào ngôi mộ và xảy ra cơn động đất tôi thấy Đức Chúa hiện ra với Mẹ Thánh Người trên Núi Canvê. Thân Thể Người vinh hiển và đẹp dẽ vô cùng, cái đẹp của một nhân vật thượng giới. Người mặc một áo choàng rộng trắng lúc thì vô cùng sáng láng, như lướt trong không gian, lay động dưới làn gió thoảng, lúc thì phản ánh muôn ngàn màu sắc rực rỡ dưới ánh sáng mặt trời. Những vết thương lớn của Người sáng long lanh và có thể nhìn thấy từ rất xa; vết thương bàn tay người lớn đến độ có thể xỏ ngón tay qua đó không khó khăn gì. Và ánh sáng phát xuất từ đó chiếu tỏa theo hướng các ngón tay của Người. Linh hồn các tổ phụ cúi đầu trước Mẹ Thánh của Đấng Cứu Độ chúng ta, và Đức Giêsu nói cho Đức Mẹ biết rất nhiều điều về sự Phục Sinh của Người nhưng tôi đã quên hết. Người cho Mẹ thấy các thương tích, và Đức Mẹ quỳ xuống hôn chân Người, nhưng Đức Giêsu nâng Mẹ dậy rồi biến mất.
Khi còn ở cách ngôi mộ một quãng đường tôi thấy có ánh sáng trong đó và cũng thấy một vùng rất sáng ngay trên bầu trời Giêrusalem.
CÁC THÁNH NỮ TẠI NGÔI MỘ
Khi Đức Chúa chỗi dậy từ kẻ chết thì các thánh nữ đang đến gần cổng nhà ông Nicôđêmô nhưng không biết gì về những điều phi thường đã xảy ra tại ngôi mộ. Họ không biết có lính gác chung quanh hầm mộ, và vì hôm trước là ngày Sabát nên họ đã không ra thăm mộ. Họ lo lắng hỏi nhau: "Ai sẽ đẩy tảng đá lớn chắn ngang cửa mộ cho chúng ta?" Họ không biết phải nhờ ai để làm việc này, vì trong lúc quá xúc động họ đã quên bẵng chuyện tảng đá. Ý định của họ là xức dầu thơm qúi giá lên thân thể Đức Giêsu, và rải lên dó tất cả các loại hoa thơm hiếm có nhất để thể hiện xứng đáng lòng tôn kính đối với vị Thầy Thần Thiêng của họ trong ngôi mộ của Người. Bà Salômê mua nhiều thuốc thơm hơn ai hết vì bà là người giàu có, sống ngay tại Giêrusalem, có họ với Thánh Giuse, nhưng không phải là mẹ của ông Gioan. Họ quyết định sẽ để tất cả mọi thứ trên tảng đá lấp cửa mộ rồi ngồi đó đợi xem có ai đến để giúp lăn tảng đá qua một bên.
Lính canh vẫn còn nằm dưới đất và y cứ vào thân hình run rẩy của họ cũng đủ chứng tỏ họ đã khiếp sợ đến bậc nào, còn tảng đá thì đã được lăn sang một bên nên có thể mở cửa mộ dễ dàng. Tôi có thể nhìn thấy các giải khăn quấn xác Đức Giêsu xếp rải rác trong mộ còn tấm khăn liệm lớn vẫn còn nằm tại chỗ như lúc đầu tuy đã được xếp lại làm đôi khiến nhìn vào thì thấy ngay rằng trong khăn không có gì cả, ngoài những bông hoa và dầu thơm đã được xếp chung quanh thân xác, còn các giải khăn quấn thì nằm ở bên ngoài ngôi mộ. Tấm vải gai mà Đức Maria đã dùng để trùm đầu Con Chí Thánh của Mẹ vẫn còn đó.
Tôi thấy các bà đạo đức đang đi vào vườn, nhưng khi thấy ánh đèn của bọn lính canh và những người này nằm bẹp chung quanh mộ thì đa số các bà đều sợ hãi và đi lùi về phía Gôngôtha. Tuy nhiên bà Maria Mađalêna can đảm hơn cùng với bà Salômê theo sau đi vào khu vườn trong khi các bà khác thì dè dặt đứng bên ngoài.
Khi bà Mađalêna thấy lính canh, thì tỏ vẻ sợ hãi và bước lùi lại vài bước về phía bà Salômê, nhưng cả hai lấy lại được bình tĩnh và cùng bước qua giữa đám lính đang nằm ngổn ngang và đi vào hầm mộ. Họ lập tức thấy tảng đá đã lăn sang một bên, nhưng cửa vẫn đóng, có lẽ bởi ông Cátsiô. Bà Mađalêna nhanh chóng mở cửa lo lắng nhìn vào mộ, và vô cùng ngạc nhiên khi thấy khăn liệm họ đã dùng để bọc xác Chúa đặt sang một bên, và chỗ đặt Thánh Thể Người thì trống rỗng. Một ánh sáng thiên cung chiếu khắp căn hầm và một thiên thần ngồi ở phía tay phải. Bà Mađalêna gần như hoảng hốt vì lo sợ và thất vọng. Tôi không biết bà có nghe thấy tiếng thiên thần nói hay không nhưng bà cố chạy thật nhanh ra khỏi khu vườn về thành phố để báo tin cho các Tông Đồ đang tụ họp tại đó biét về những gì đã xảy ra. Không biết thiên thần có nói gì với bà Salômê không vì bà không vào hầm mộ, nhưng tôi thấy bà rời khu vườn ngay sau bà Mađalêna để kể lại cho các bà kia còn đang đợi bên ngoài những gì đã xảy ra. Họ vừa sửng sốt vừa vui mừng khi nghe được tin này nhưng không thể quyết định có nên vào vườn xem không.
Trong khi đó thì ông Cátsiô vẫn đứng cạnh mộ với hy vọng được nhìn thấy Đức Giêsu, vì ông ta nghĩ rằng chắc chắn thế nào Đức Chúa cũng hiện ra với các vị thánh nữ; nhưng khi không thấy gì thì ông hướng về dinh Philatô để kể lại cho ông ta tất cả những gì đã xảy ra. Tuy nhiên trước khi ra đi, Cátsiô có ghé lại chỗ các bà, kể cho họ nghe những gì ông đã thấy và khuyến khích họ hãy vào vườn lập tức đi. Các bà nghe lời khuyên này đi vào khu vườn ngay. Vừa tới cửa mộ thì họ nhìn thấy hai thiên thần mặc lễ phục tư tế một màu trắng sáng chói chan. Các bà rất kinh hoàng, lấy tay che mặt, qùy úp mặt sát đất, nhưng một trong hai thiên thần nói các bà đừng sợ, và cũng bảo họ đừng đi tìm Đấng Bị Đóng Đinh ở đó vì Người hiện đã chỗi dậy, đang sống và không còn nằm trong mộ nữa. Rồi cùng lúc đó thiên thần chỉ cho các bà thấy ngôi mộ trống, và ra lệnh cho họ đi báo cho các môn đệ biết những gì họ đã thấy và nghe. Thiên thần cũng nói rằng Đức Giêsu sẽ đến Galilê trước họ và nhắc lại những lời Đấng Cứu Độ chúng ta đã nói trong một dịp khác trước đó cho họ nghe .Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ tội lỗi, Người sẽ bị đóng đanh và ngày thứ ba sẽ sống lại. Rồi thiên thần biến đi để lại các bà tràn đầy vui sướng tuy cũng vô cùng xúc động. Họ khóc khi nhìn vào ngôi mộ trống và các khăn vải gai, sau đó họ đi về thành. Nhưng vì sững sờ trước bao nhiêu biến cố lạ lùng vừa xảy ra nên họ đi chậm rãi, thỉnh thoảng dừng chân ngoái nhìn lại, với hy vọng được thấy Đức Chúa hoặc ít nhất là bà Mađalêna.
Trong khi đó bà Mađalêna đã đến Nhà Tiệc Ly như người mất hồn, và gõ cửa dữ dội. Một vài môn đệ còn nằm ngủ quanh nhà, trong khi một số đã thức giấc và đang trò chuyện với nhau. Ông Phêrô và ông Gioan ra mở cửa. Bà Mađalêna không bước vào, mà chỉ la lớn: "Họ đã đem Đức Chúa ra khỏi mộ rồi và tôi không biết họ để Người ở đâu" rồi lâp tức chạy vội trở ra khu vườn. Ông Phêrô và Gioan trở vào nhà và sau khi nói mấy lời với các môn đệ kia và cố chạy theo bà càng nhanh càng tốt, nhưng ông Gioan nhanh chân hơn ông Phêrô. Rồi tôi thấy bà Mađalêna trở lại khu vườn và hướng về ngôi mộ. Trông bà hết sức xúc động, phần vì buồn phiền phần vì chạy quá nhanh. Áo bà ướt sũng sương mai, khăn trùm đầu rớt xuống vai, và mái tóc đẹp xưa nay bà vẫn hãnh diện thì nay rối bù, xõa xuống ngang vai tạo thành một thứ khăn quàng. Vì chỉ có một mình nên không dám vào hầm mộ, mà chỉ đứng ở ngoài một lúc rồi qùy xuống để cúi nhìn vào ngôi mộ cho rõ. Bà cố vuốt mái tóc dài ra sau lưng để cho nó khỏi rủ xuống che mắt bà, bỗng bà nhìn thấy hai thiên thần đang ngồi trong mộ, và tôi nghe một trong hai thiên thần nói với bà: Bà kia, sao khóc vậy? Bà trả lời qua nước mắt (vì bà hoàn toàn đau đớn khi thấy xác Đức Giêsu không còn nằm đó): "Vì họ đưa Chúa tôi đi rồi! Tôi không biết họ để Người ở đâu!" Bà không nói gì thêm, nhưng khi nhìn thấy khăn liệm không có người thì bà ra khỏi mộ và đi tìm Người ở những chỗ khác. Bà linh cảm là sẽ tìm thấy Người và còn nghĩ rằng Người đang ở đâu đó gần bà, và ngay cả sự hiện diện của các thiên thần cũng không làm bà nghĩ khác đi chút nào. Dường như bà cũng không ý thức rằng đó là các thiên thần nữa. Bà chỉ chú ý đến ý nghĩ duy nhất là: "Đức Giêsu không có ở đây! Vậy thì Người ở đâu?" Tôi nhìn bà bước đi như người mất trí với mái tóc bay tung trong gió. Mái tóc có vẻ làm cho bà khó chịu nhất vì bà lại rẽ tóc ra làm hai và cố đẩy nó khỏi khuôn mặt, vuốt sang hai vai.
Rồi bà quay lại, đảo mắt nhìn quanh và nhác thấy một người cao lớn, mặc đồ trắng, đứng cách mộ chừng mười bước về phía Đông khu vườn, nơi mà mặt đất cao hơn hướng thành phố một chút. Hình người phần thì bị một cây chà là che khuất nhưng bà giật mình khi nghe người ấy hỏi: “Chị kia, sao khóc vậy? Chị tìm ai đó?” Bà nghĩ đó là người làm vườn. Tôi thấy quả thật người ấy cầm xẻng trong tay và đầu đội nón rộng vành (có lẽ làm bằng vỏ cây). Áo trắng của người này giống như của người làm vườn trong dụ ngôn mà Đức Giêsu mô tả cho các bà tại Bêtania một thời gian ngắn trước khi xảy ra Cuộc Thương Khó. Thân thể Người không sáng láng, dáng vẻ giống như một người mặc áo trắng nhìn lúc bình minh. Khi nghe hỏi: "Chị tìm ai?" Bà Mađalêna lập tức trả lời: "Thưa ông, nếu ông đưa Người ra khỏi chỗ này, xin cho tôi biết ông để Người ở đâu! Tôi sẽ đưa Người đi!" Và bà lại lo lắng rảo mắt nhìn quanh. Đức Giêsu nói với bà: “Maria!" Bà liền nhận ngay được tiếng nói thân thương và quay phắt người lại, bà nói: “Rabboni (Lạy Thày) !” Bà quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu và giang tay như muốn ôm chân Người. Nhưng Đức Giêsu ra dấu cho bà đứng yên và nói: "Đừng chạm đến Thầy, vì Thầy chưa lên với Cha Thầy. Nhưng hãy đi đến các anh chị em của Thầy, và nói với họ: Thầy lên với Cha Thầy cũng là Cha của anh chị em, lên với Chúa Thầy và là Chúa của anh chị em." Rồi Đức Chúa biến mất.
Sau đó tôi được cắt nghĩa tại sao Đức Giêsu lại nói: "Đừng chạm đến Thầy," nhưng tôi không còn nhớ rõ lắm. Tôi nghĩ Người nói vậy vì cảm nghĩ của bà Mađalêna quá bồng bột khiến bà có thể một mức độ nào đó quên hẳn mầu nhiệm quá vĩ đại vừa mới hoàn thành và bà có thể nghĩ rằng thân thể đứng trước mặt bà cũng chỉ là của một người phàm chứ không phải là một Thân Thể Vinh Quang. Còn như khi Đức Giêsu nói là 'Thầy chưa lên với Cha Thầy', tôi được cho biết là từ lúc Phục Sinh Người chưa lên trình diện với Cha trên trời để cảm tạ Cha vì đã chiến thắng sự chết và vì ơn Cứu Độ mà Người đã hoàn tất. Qua những lời đó Người muốn bà hiểu rằng hoa trái vui mừng đầu tiên phải được dâng lên Thiên Chúa, và bà phải suy gẫm và cảm tạ Thiên Chúa vì đã hoàn tất mầu nhiệm vinh quang Cứu Độ và việc Người chiến thắng sự chết; và nếu bà hôn kính chân Người như bà thường làm trước cuộc Khổ Nạn, bà sẽ không nghĩ đến gì khác ngoài Vị Thầy Thần Thiêng của bà và trong lúc quá bồng bột bà hoàn toàn quên hết những biến cố kỳ diệu đã gây nên kinh ngạc và hoan hỷ trên Thiên Đàng. Khi Đức Chúa biến đi thì tôi thấy bà Mađalêna vội vàng đứng dậy chạy lại mộ để nhìn lại một lần nữa như trong mơ. Bà thấy hai thiên thần vẫn còn ngồi đó, và các ngài nói với bà về việc Đức Chúa phục sinh cũng giống như đã nói với hai bà kia. Ba cũng thấy khăn liệm trống trơn, và chắc chắn là mình không bị mê hoặc mà việc Đức Giêsu hiện ra là có thật, nên bà vội quay lại Gôngôta để kiếm các bạn đang lang thang đây đó chờ đợi bà, đồng thời họ cũng nuôi chút hy vọng được thấy Chúa hoặc nghe nói về Người.
Toàn cảnh này có vẻ như chỉ kéo dài khoảng hai, ba phút. Đức Giêsu hiện ra với bà Mađalêna có lẽ lúc ba giờ rưỡi (sáng), và hai ông Phêrô và Gioan vừa đến khu vườn thì bà đi ra. Ông Gioan đến trước ông Phêrô một chút, dừng lại bên ngoài cửa mộ và cúi nhìn vào bên trong. Ông thấy mấy tấm vải gai xếp ở bên cạnh, và ông chờ ông Phêrô đến để hai người cùng vào và thấy khăn liệm trống trơn như đã mô tả trước đây. Ông Gioan lập tức tin vào sự Phục Sinh và cả hai đều hiểu ngay những lời Chúa Giêsu đã nói với họ trước cuộc Khổ Nạn cũng như những đoạn Kinh Thánh khác liên hệ đến biến cố này mà trước đây họ không thể hiểu được. Ông Phêrô cuộn mấy tấm khăn vải gai dưới áo choàng của mình và vội vã quay về thành phố qua ngả cổng nhỏ nhà ông Nicôđêmô.
Căn hầm mộ khi bà Mađalêna nhìn thấy thế nào thì hai môn đệ cũng nhìn thấy như vậy. Hai thiên thần vẫn ngồi hai bên, một vị ở phía đầu một vị ở phía chân trong cùng tư thế thờ lạy như khi thân xác (Chúa) còn nằm tại đó. Tôi không nghĩ ông Phêrô nhận thấy sự có mặt của các ngài tại đó. Sau này tôi nghe ông Gioan nói với các môn đệ Emmau rằng khi nhìn vào mộ thì ông thấy một thiên thần. Có lẽ bàng hoàng vì thị kiến này nên ông lùi lại để ông Phêrô vào trướùc. Nhưng lý do ông không nói đến trường hợp này trong Tin Mừng của ông, vì khiêm nhường và cũng có thể ông muốn dấu việc mình được ưu đãi hơn ông Phêrô.
Đến lúc này thì tôi thấy các lính canh bắt đầu tỉnh dậy. Họ đứng lên, cầm lại ngọn giáo, cũng như đem mấy cây đèn dầu treo trên cửa hầm mộ để nhờ ánh sáng lờ mờ soi chiếu sự vật chung quanh. Rồi tôi thấy họ vội vã chạy ra khỏi vườn hướng về thành phố bối rối và sợ hãi ra mặt.
Trong khi đó, bà Mađalêna đã gặp các bà đạo đức và kể cho họ nghe việc Đức Chúa hiện ra và những lời thiên thần nói. Họ cũng cho bà biết những gì họ đã trông thấy rồi bà Mađalêna vội đi về Giêrusalem trong khi các bà kia trở lại khu vườn chờ hai vị Tông Đồ. Ngay trước khi họ tới vườn thì Đức Giêsu hiện ra, mình mặc áo trắng phủ lấp cả đôi tay và nói với họ: "Chào mọi người!" Các bà run rẩy ngạc nhiên sấp mặt dưới chân Người. Đức Giêsu nói vài lời, đưa tay ra như chỉ cho họ xem vật gì rồi biến đi. Các bà lập tức về Nhà Tiệc Ly và cho các môn đệ hay rằng họ đã thấy Đức Chúa, nhưng các môn đệ đa nghi không tin lời họ nói hoặc không tin cả bà Mađalêna nữa; họ coi các bà như vì quá xúc động nên chịu ảnh hưởng của óc tưởng tượng của chính mình. Nhưng khi hai ông Gioan và Phêrô vào phòng kể lại những gì họ đã thấy thì họ không còn biết nói gì và tỏ ra rất kinh ngạc.
Rồi hai ông Phêrô và Gioan cũng rời phòng Tiệc Ly. Biến cố vừa xảy ra khiến họ trở nên rất đỗi yên lặng và suy tư. Không lâu sau hai vị gặp lại ông Giacôbê Nhỏ và ông Tađêô vì hai ông này đã ngỏ ý muốn ra mộ cùng với họ. Cả hai vô cùng bối rối vì Đức Giêsu đã hiện ra với họ ngay trước khi họ gặp hai ông Phêrô và Gioan. Tôi cũng thấy Đức Chúa đi rất gần hai ông Phêrô và Gioan nữa. Tôi nghĩ lúc đó ông Phêrô nhận ra Chúa và rất sững sờ còn ông Gioan thì không thấy Người.
---------------------------------
44/ CHƯƠNG ILIV
PHÚC TRÌNH CỦA LÍNH CANH
Khoảng một giờ sau khi Chúa Phục Sinh, ông Cátsiô đến dinh Philatô để báo cáo về biến cố kinh thiên động địa đã xảy ra. Philatô chưa dậy hẳn, vẫn còn nằm trên giường nhưng Catsiô được phép váo phòng ngủ của ông ta. Ông Cátsiô kể lại tất cả các biến cố đã qua với những lời lẽ mạnh mẽ đanh thép. Ông tả lại cảnh tảng đá bị xé ra và cảnh thiên thần từ Trời ngự xuống đẩy tảng đá che cửa hang sang một bên như thế nào. Cátsiô cũng đề cập đến tấm khăn liệm trống rỗng và nói chắc chắn rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa và Người đã thực sự chỗi dậy. Philatô lắng nghe báo cáo và run bắn lên vì khiếp sợ, nhưng cố hết sức trấn tĩnh không để lộ sự hoang mang của mình. Ông ta nói với Cátsiô: "Ngươi quả là mê tín dị đoan quá độ! Ngươi đã không khôn ngoan khi đến mộ của tên Galilê ấy. Vì các thần linh của y đã lợi dụng sự yếu đuối của ngươi, và chính những thần này đã bầy trước mắt ngươi đủ loại thị kiến lố bịch khiến ngươi hoang mang. Ta khuyên ngươi yên lặng và đừng nói gì cả về những huyền thoại ngu xuẩn này cho giới tư tế, nếu không thì ngươi sẽ bị khốn khổ vì tay họ. Ông ta giả bộ tin rằng các môn đệ đã lấy xác Đức Giêsu đi, rằng họ đã hối lộ lính canh và bọn này đã ngủ gục hoặc bị lừa gạt vì ma thuật, do đó đã bịa chuyện để chạy tội cho mình. Khi Philatô nói hết những gì y có thể nghĩ ra được thì ông Cátsiô rời dinh, còn Philatô đi vào cúng vái tà thần của y.
Sau đó thì bốn người lính gác hầm mộ cũng đến dinh Philatô và cũng báo cáo sự việc đã xảy ra như ông Catsiô. Nhưng Philatô không chịu nghe thêm gì nữa, và ra lệnh cho họ đến gặp Caipha. Các lính canh khác đều tập trung tại một sân rộng gần Đền Thờ trong đó tụ họp rất đông người Do Thái lớn tuổi. Những người này bàn tán với nhau, và đi đến kết luận là họ sẽ hối lộ cũng như đe dọa, để ép buộc lính canh phải nói rằng, trong lúc họ đang ngủ, các môn đệ đã ăn cắp xác Đức Giêsu và đem đi nơi khác. Nhưng khi bọn lính do dự vì tin rằng bản phúc trình của đồng đội của họ lên Philatô sẽ trái ngược với điều họ có thể bịa ra, nhưng người Pharisiêu hứa sẽ điều đình mọi sự với Philatô. Trong khi họ đang cãi cọ thì bốn người lính canh vừa đến nơi sau cuộc tiếp xúc với Philatô, phe Pharisiêu lại cố thuyết phục để họ dấu nhẹm sự thật. Nhưng họ từ chối không làm và cương quyết giữ vững lập trường, không thay đổi mảy may nào trong phúc trình đầu tiên của họ. Mọi người cũng đều biết việc ông Giuse Arimathê được thoát khỏi tù một cách mầu nhiệm, và khi người Pharisiêu tố cáo lính canh là đã để cho các Tông Đồ lấy xác Đức Giêsu đi, và đe dọa họ sẽ bị trừng phạt nặng nề nếu không tìm ra được xác Đức Giêsu, thì lính canh lập tức đáp rằng họ không thể nào trưng ra được xác Đức Giêsu, cũng như lính gác ông Giuse Arimathêa không thể nào đem ông ta trở về nhà tù được nữa. Họ nói một cách hết sức cương nghị và can đảm, và những lời hứa hoặc đe dọa không có kết quả đối với họ. Họ tuyên bố là sẽ nói sự thật, và chỉ nói sự thật mà thôi. Rằng án tử hình đối với Đức Giêsu vừa bất công vừa vô luân; rằng tội ác kết án tử hình Người là nguyên nhân duy nhất gây trở ngại cho Lễ Trọng Vượt Qua. Giới Pharisiêu vô cùng giận dữ nên đã khiến 4 người lính bị bắt và bỏ tù, còn những người khác, sau khi nhận hối lộ đã quả quyết rằng môn đệ của Đức Giêsu đã đến lấy xác Người đi trong khi chúng đang ngủ. Và người Pharisiêu, người Xađuxê, và phe Hêrôđê cố dùng quyền lực của chúng để loan truyền tin này không những trong các Hội Đường mà còn trong dân gian nữa. Và với lời dối trá này, họ còn vu khống nhiều điều khác liên hệ đến Đức Giêsu nữa.
Tuy nhiên tất cả cố gắng này không thành công bao nhiêu bởi vì sau khi Chúa Phục Sinh, những người chết đã ra khỏi mồ của họ và đã hiện ra với con cháu họ, mà lòng dạ chưa đến nỗi chai đá, và nhờ ơn sủng Chúa họ đã được khuyến khích để trở lại. Những người chết này cũng đã được nhiều môn đệ trông thấy sau khi vì thiếu đức tin họ đã chạy trốn ra đồng quê. Các môn đệ được khuyến khích quay lại, và do đó tinh thần họ được thêm can đảm.
Sự chỗi dậy của các xác chết này hoàn toàn không giống như sự Phục Sinh của Đức Chúa. Đức Giêsu chỗi dậy trong Thân Xác Vinh Hiển, và không còn chịu ảnh hưỡng của mục nát hoặc sự chết nữa. Người đã lên Trời trong thân xác Vinh Quang này trước mắt tất cả môn đệ. Còn những xác chết mà chúng ta nói đây thì bất động, và linh hồn họ được cho phép nhập vào đó một thời gian làm cho chúng chuyển động, và sau khi thi hành xong sứ mạng thì linh hồn lại lià khỏi xác và trở về trạng thái cũ trong lòng đất và sẽ nằm đó cho đến ngày sống lại để chịu phán xét. Cũng không thể so sánh việc họ trở lại trái đất với việc ông Ladarô sống lại từ cõi chết; bởi vì Ladarô trở về với một cuộc sống mới và đã chết một lần thứ hai.
PHẦN CHÓT TRONG CÁC BÀI SUY GẪM MÙA CHAY
Chúa nhật sau đó, nếu tôi nhớ không lầm thì tôi thấy người Do Thái bắt đầu thanh tẩy, lau chùi và rửa sạch Đền Thờ. Họ rải hoa thơm, và dâng của lễ đền tội. Họ hốt rác, che đậy vết tích của trận động đất bằng những tấm ván và thảm để trám vào những vết nứt nẻ trên tường hoặc nền nhà. Và họ làm lại nghi thức Lễ Vượt Qua trọng thể đã bị gián đoạn giữa chừng, công bố rằng hỗn loạn xảy ra là do sự hiện diện của những người ô uế và cố làm mọi cách để bác bỏ việc người chết trở về. Họ nói đến việc thị kiến ông Eâdêkien nhưng họ cắt nghĩa thế nào thì tôi không còn nhớ. Họ đe dọa bất cứ ai dám nói nửa lời về những biến cố đã xảy ra, hoặc cả chỉ thì thầm thôi cũng đều mắc vạ tuyệt thông và những hình phạt nặng nề khác. Họ thành công khớp miệng một số lòng dạ chai đá vì bọn đó ý thức tội mình nên đã tìm cách loại vấn đề này ra khỏi đầu óc họ, nhưng đối với những người lòng dạ còn chút ít đạo dức thì họ yên lặng một thời gian để che dấu đức tin thầm kín của mình, nhưng sau này, lấy lại can đảm họ lớn tiếng tuyên xưng Đức Tin của họ đối với Đức Giêsu ra khắp nơi. Mấy ông Thượng Tế quá đỗi kinh hoàng khi thấy các giáo lý của Đức Kitô lan truyền ra khắp xứ. Khi ông Stêphanô là phó tế thì tất cả thị trấn Oâphen và phía Đông núi Sion không đủ chỗ cho nhiều Cộng Đoàn Kitô hữu, và một phần phải tới cư ngụ trong khu vực ở giữa Giêrusalem và Bêthania.
Tôi thấy Anna điên loạn như một người bị qủy ám. Sau cùng người ta phải giam y lại và y không còn được ra trước dân chúng nữa. Caipha nhìn bề ngoài thì không đến nỗi hoảng hốt, nhưng y bị dằn vặt nội tâm vì căm hờn và ghen ghét quá độ nên mất trí.
Tôi thấy Philato hôm Thứ Năm Tuần Phục Sinh thành lập một đội quân chia nhau đi khắp nơi trong thành phố tìm vợ, nhưng mọi cố gắng của ông ta đều vô hiệu. Vợ ông trốn trong nhà ông Ladarô ở Giêrusalem. Không ai nghĩ phải đến đó tìm vì trong nhà không có một người nữ nào. Nhưng ông Stêphanô đưa lương thực đến đó cho bà và cho bà biết mọi sự xảy ra bên ngoài. Ông Stêphanô là anh em họ chú bác với thánh Phaolô. Họ là con của hai anh em ruột. Đến ngày sau ngày Sabát, ông Simôn Cyrênê đến gặp các thánh Tông Đồ và xin học đạo để được rửa tội.
Những thị kiến của Chị Chân Phước Emmêrich bắt đầu từ 18 tháng 2 cho đến ngày 6 tháng 8 năm 1823 đến đây là hết.
TƯỜNG TRÌNH VỀ LONGINÔ
Ngày 15 tháng 3 năm 1821, Chân Phước Emmerich ghi lại thị kiến sau đây về thánh Longinô mà Chân Phước đã thấy đêm hôm trước. Ngày 15 tháng 3 là ngày lễ kính thánh Longinô nhưng Chân Phước không biết.
"Tôi nghĩ Longinô có một tên khác nữa. Ông ta giữ một chức vụ nửa quân sự nửa dân chính trong dinh Philatô. Nhiệm vụ của Longinô là ghi lại tất cả mọi vụ việc và báo cáo đầy đủ cho Philatô. Trước khi hoán cải Longinô rất thiếu lập trường và không cương nghị. Làm việc gì cũng hung hăng vội vã, luôn luôn tỏ ra ta đây là người quan trọng, và vì vừa cận thị lại vừa lé nên bạn bè thường đem tật này ra chế diễu. Trong giấc mơ tôi thấy ông đêm nay, và cùng lúc với ông thì tôi cũng được thị kiến Cuộc Khổ Nạn của Chúa không biết bằng cách nào. Tôi chỉ nhớ là có liên hệ đến ông thôi.
Longinô chỉ là một cấp chỉ huy cấp nhỏ và phải báo cáo mọi sự ông đã chứng kiến cho Philatô. Trong đêm Chúa Giêsu bị giải về tòa án của Caipha thì ông đang đứng cùng binh lính ở sân ngoài, đi đi lại lại thường xuyên. Khi ông Phêrô hoảng hốt vì lời nói của tên tớ gái đang đứng gần lò lửa thì chính Longinô đã nói: "Ông không phải là một môn đệ của người này sao?"Khi Đức Giêsu bị đưa lên Núi Canvê, thì Longinô vâng lệnh Philatô đi sát bên Người, và Chúa Giêsu nhìn ông khiến ông cảm động. Sau đó tôi thấy ông ở Đồi Gôngôta cùng với các binh sĩ khác. Longinô cỡi ngựa, tay cầm một ngọn giáo. Sau khi Đức Giêsu từ trần, tôi lại thấy ông ở nhà Philatô và nói rằng không nên đập dập ống chân Đức Giêsu. Rồi ông lập tức quay lại Đồi Canvê. Ngọn giáo của ông gồm nhiều khúc, được xếp gọn với nhau, nên khi kéo thẳng ra thì ngọn giáo dài gấp ba kích thước thường của nó. Ông vừa kéo thẳng ngọn giáo ra khi ông quyết định đâm vào cạnh sườn Đức Cứu Độ chúng ta. Ông hoán cải ngay trên Đồi Canvê và sau đó đã xác tín với Philatô rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Ông Nicôđêmô thuyết phục Philatô cho ông giữ ngọn giáo này, và tôi đã thấy nhiều điều liên hệ đến ngọn giáo. Longinô sau khi hoán cải đã rời quân ngũ và nhập bọn với các môn đệ. Longinô cùng với hai người lính khác đã hoán cải dưới chân Thánh Giá, mặc áo dài trắng, trở về quê quán của họ. Họ sống tại đó trong một vùng đầm lầy hoang vu. Tại đây có bốn mươi vị tử đạo. Longinô là một vị phó tế, và thường di chuyển đó đây rao giảng danh thánh Chúa Kitô, và làm chứng về Cuộc Khổ Nạn và sự Phục Sinh của Người. Ông đã hoán cải được rất nhiều người, chữa lành cho nhiều người bệnh, bằng cách cho họ chạm vào một phần của ngọn giáo thánh mà ông mang theo trong mình. Người Do thái rất phẫn nộ vì ông và hai người bạn kia vì họ đã công bố Sự Thật của Chúa Phục Sinh ở khắp nơi, và về lòng dạ độc ác và dối trá của kẻ thù Người. Bọn này xúi bẩy một số lính Lamã đến bắt và kết án Longinô vì tội bỏ ngũ không có phép, đồng thời là một tên phá rối trị an. Lúc lính đến thì ông đang làm vườn, và ông đã mời họ về nhà mình đãi dằng tử tế. Họ không biết ông là ai, và khi họ cho ông biết mục đích của họ là gì thì ông lặng lẽ gọi hai người bạn đang ở cách đó không xa trong một nơi có thể gọi là ẩn tu. Rồi ông cho họ biết chính ông và hai bạn là những người mà họ đang đi tìm. Người làm vườn thánh thiện của ông tên là Phôcat cũng vậy. Bọn lính Lamã rất đỗi buồn phiền vì họ đã coi ông như bạn thân. Tôi thấy ba ông bị dẫn đến một thị trấn nhỏ và bị thẩm vấn tại đây. Họ không bị nhốt vào tù mà được phép đi đây đi đó vì họ là những tù nhân tự nguyện, nhưng họ phải chịu đóng dấu tù vào cánh tay. Sau đó cả ba đều bị chặt đầu trên một ngọn đồi ở giữa thị trấn này và nhà ông Longinô và chôn tại đây. Lính cắm đầu ông Longinô vào một ngọn giáo và đem về Giêrusalem để chứng minh rằng họ đã hoàn thành nhiệm vụ. Tôi nhớ là chuyện này xảy ra vài năm sau khi Đức Giêsu từ trần.
Rồi tôi được thị kiến vài điều xảy ra sau này. Một phụ nữ mù cùng quê với Longinô, một hôm hành hương Giêrusalem cùng với con của chị, với hy vọng được chữa lành tại chính nơi mà Longinô cũng được chữa lành đôi mắt. Con chị dẫn chị đi, nhưng rủi thay, anh này chết dọc đường khiến chị đau đớn vì bị bơ vơ một thân một mình. Thánh Longinô lúc đó hiện ra với chị, và nói chị sẽ được chữa lành nếu đem được đầu của ông ra khỏi cái hố mà họ đã ném vào đó. Hố này rất sâu, có xây gạch mà người ta thải đủ loại rác rến hôi thối dơ bẩn, và nước cống của thành phố chảy vào đó. Tôi thấy vài người dẫn chị phụ nữ tội nghiệp này ra đó. Chị xuống hố nước ngập đến cổ, và mò được cái đầu của thánh Longinô. Lập tức mắt chị được lành. Chị về xứ và các bạn của chị đã thành kính lưu giữ cái đầu thánh này. Tôi không còn nhớ gì thêm nữa.
TƯỜNG TRÌNH VỀ ÔNG ABÊNAĐA
Ngày 1 tháng Tư 1823 Chị Emmerich nói là ngày lễ kính thánh Têsiphon, viên quan bách quân đã có mặt lúc Chúa Giêsu bị đóng đanh. Đêm hôm trước Chị được thị kiến một vài điều đặc biệt về cuộc đời của vị thánh này, nhưng Chị cũng chịu rất nhiều đau đớn, cộng thêm nhiều chia trí bên ngoài khiến Chị đã quên phần lớn những gì được chứng kiến. Chị kể lại phần sau đây:
Abênađa, sau này được gọi là Têsiphon sanh trong miền giữa Babylon và Ai Cập trong xứ Arabia Felix ngay trên mảnh đất mà ông Gióp đã cư ngụ trong nửa cuộc đời sau này của ông. Ở đó trên khu đất cao thoai thoải có xây một số nhà vuông vức có mái bằng. Ở đây có rất nhiều những loại cây nhỏ và người ta lấy hương trầm và nhựa thơm tại đây. Tôi đã đến nhà ông Abênađa, rộng rãi sáng sủa như thường thấy trong các gia đình giàu có nhưng nhà cũng rất thấp. Tất cả nhà ở đây đều xây theo kiểu này hết, có lẽ để tránh gió lớn vì khu vực này rất trống trải. Abênađa gia nhập đoàn quân đóng tại đồn Antonia ở Giêrusalem với tư cách tình nguyện. Ông phục vụ trong quân đội Lamã nhằm mục đích có cơ hội trau dồi thêm văn học vì ông là một người có kiến thức. Tánh tình cương nghị, vóc người hơi thấp nhưng vạm vỡ, da ngăm đen.
Khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy giáo lý và chứng kiến một phép lạ Người làm thì ông tin rằng Ơn Cứu Độ phải đi tìm nơi người Do Thái, và ông đã theo luật Môsê. Tuy chưa phải là môn đệ của Chúa nhưng ông không có ác cảm với Người và còn kín đáo tôn kính Người nữa. Bản tính ông nghiêm nghị và suy tư, và khi đến Gôngôta để đổi gác, ông duy trì trật tự ở mọi phía, và buộc mọi người ít nhất phải cư xử đàng hoàng cho tới khi sự thật thắng thế trong con người ông, và ông liền tuyên xưng Thần Tính của Đức Giêsu. Vì giàu có và là một quân nhân tình nguyện nên ông xin từ nhiệm không mấy khó khăn. Ông trợ giúp trong việc đem xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thánh Giá, do đó được gặp các bạn của Chúa, và sau ngày Lễ Ngũ Tuần ông là một trong những người đầu tiên chịu phép Rửa tại hồ Betsaiđa, và lấy tên là Têsiphon. Ông có một người anh sống tại Arabia. Ông kể cho anh nghe những phép lạ ông đã chứng kiến và anh ông đã đến Giêrusalem để chịu phép Rửa với tên là Xêciliút (Caecilius). Ông cùng Têsiphon được trao nhiệm vụ trợ giúp các vị phó tế trong cộng đoàn Kitô hữu mới thành lập.
Têsiphon theo thánh Tông Đồ Giacôbê Cả đi Tây-ban-nha và cùng trở về với ngài. Sau một thời gian, ông lại được phái đưa xác thánh Giacôbê bị tử đạo ở Giêrusalem trở về Tây-ban-nha. Ông được tấn phong giám mục và cư ngụ chính thức trong một hòn đảo hoặc bán đảo không xa Pháp là bao. Ông cũng có đến Pháp và thu nhận một số môn đệ. Tôi không nhớ là Têsiphon có bị tử đạo hay không. Ông viết một số sách có nhiều chi tiết về cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô; nhưng có một vài sách được gán oan cho ông, và một số sách khác do chính tay ông viết thì lại được gán cho những người khác. Từ đó Rôma loại bỏ những sách này phần lớn là ngụy thư, tuy có chứa đựng một số điều do chính tay ông soạn. Một trong những lính gác mộ Đức Chúa không chịu để cho người Do Thái mua chuộc là đồng hương và là bạn của Têsiphon. Tên người này là Sulây hay Sulây-i (Sulei, Suleii). Sau khi bị giam một thời gian ông lui về sống trong một cái hang trên Núi Sinai và ở đây 7 năm. Chúa ban cho người này (Sulây) nhiều ơn sủng đặc biệt và ông đã viết một số sách theo lối hành văn của ông Đơnít (Denis) của Hội Đồng Arêôpagut. Một văn sĩ khác đã dùng sách của ông và nhờ đó mà một số đoạn trích dẫn đã đến được tay chúng ta. Tất cả những gì liên hệ đến các sự kiện này tôi đều được biếùt cũng như tên cuốn sách nhưng tôi đã quên mất rồi. Người đồng hương này của Têsiphon sau đó theo ông đi Tây-ban-nha. Trong số bạn hữu của Tesiphon ở Tây-ban-nha có anh ông là Xêciliút và các ông Intalêciút, Hêxiciút, Ơphơraciút; một người Arập khác tên là Sulima đã hoán cải trong những ngày đầu của Giáo Hội tiên khởi, và một người đồng hương khác của Têsiphon tên là Sulenxít sau này đã trở thành một Kitô hữu trong thời kỳ các phó tế.
HẾT
Tags:
Thánh Giá