Headlines
Loading...
Lễ Giáng Sinh

Lễ Giáng Sinh

Lễ Giáng Sinh
***
1. Lịch sử.
 

Lễ Giáng Sinh – Wikipedia tiếng Việt


       Lễ Giáng Sinh, là tên gọi ngắn của lễ Thiên Chúa giáng sinh, hay Noel (gốc từ tiếng Pháp Noël) hoặc ChristmasXmas (tiếng Anh: âm dịch là Ki-tô), là ngày lễ sinh nhật của Chúa, kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra đời.
 
        Theo niềm tin của phần lớn người theo đạo, thì Chúa Giêsu được sinh khoảng giữa năm 7 TCN và năm 2 tại Bethlehem thuộc xứ Judea (ngày nay là 1 thành phố của Palestine), lúc bấy giờ thuộc Đế quốc La Mã.
 
        Theo các tài liệu, thoạt đầu chưa có lễ Giáng Sinh vì người theo đạo không ăn mừng lễ sinh nhật, do họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Lễ này chỉ bắt đầu trong đế quốc La Mã từ năm 336 do lệnh của hoàng đế Constantine. Hoàng đế vốn là giáo chủ của Đa Thần Giáo La mã (Roman Paganism), đã thống nhất các giáo phái Ki-tô thời đó để lập ra Công giáo.  Ông quyết định thay đổi ngày mừng Sinh nhật Thần Mặt Trời Vạn Thắng [Feast of The Sol Invictus (Unconquered Sun)] là ngày 25 tháng 12 của Đa Thần Giáo La Mã, trở thành ngày lễ Giáng Sinh.
(xem: The Explorer's Guide to Chiristianity – by Marcus Braybrooke – London 1998 - p. 36).


Sol Invictus - Wikipedia, the free encyclopedia

 
        Ngày nay ngày lễ Giáng Sinh được cử hành chính thức vào ngày 25 tháng 12 nhưng thường được mừng từ tối ngày 24 tháng 12 bởi theo lịch Do Thái, thời điểm tính bắt đầu một ngày là lúc hoàng hôn chứ không phải nửa đêm. Lễ chính thức ngày 25 tháng 12 được gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng" (vọng : ước mong/chuẩn bị) và thường thu hút nhiều người tham dự hơn. Nhiều giáo hội Chính thống giáo Đông phương như ở Nga, Gruzia vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, và lễ Giáng Sinh ứng với ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregorius.
 
2. Các biểu tượng chính trong ngày lễ Giáng Sinh.
2.1. Hang đá và máng cỏ.


Thường là vào mùa Giáng sinh, một máng cỏ được đặt trong hang đá bằng giấy bồi hay gỗ, được dựng lên trong nhà hay ngoài trời, với các hình tượng Chúa Hài Đồng Giê-su, mẹ Maria, cha Joseph (Thánh Giuse). Xung quanh hang đá là các thiên sứ, mục đồng cùng các gia súc như bò, lừa để kể lại sự tích Chúa ra đời trong máng cỏ.
 
2.2. Cây thông.

Theo truyền thuyết, ngay từ 2000 đến 1200 trước Công nguyên đã có tục lệ trưng bày cây thông épicéa vào ngày 24 tháng 12, bởi vì người ta xem như ngày này là ngày tái sinh của Mặt trời. Trước đây, người Đông Âu (Celtes) dùng lịch theo chu kì Mặt trăng. Mỗi tháng của năm đều liên kết với một loại cây. Ngày 24 tháng 12 nhắm tiết Đông chí được đặt tên là tùng bách (épicéa). Để làm lễ cho ngày Đông chí, một cây xanh tượng trưng cho sự sống được trang trí bởi trái, hoa và lúa mì.
 
        Một truyền thuyết trong tôn giáo lại kể rằng: thánh đan sĩ Boniface (sinh năm 680) đã phá tục thờ cây cối. Ngài thuyết phục các đạo sĩ người Đức ở vùng Geismar là cây sồi không phải là cây thiêng. Ngài cho hạ một cây sồi. Khi đốn cây, sồi lăn xuống triệt hạ các cây mọc trên triền dốc, chỉ trừ cây thông. Thánh Boniface coi đó là điềm lạ, nên đã thuyết giảng rằng :''Kể từ nay, ta đặt tên cho cây thông là cây Chúa Hài Đồng'' (hài đồng 孩童: trẻ thơ). Từ đó, cây thông được xem như là nguồn gốc khai sinh cho biểu tượng mừng lễ Giáng Sinh.
 
        Đến thế kỷ thứ XI, cây thông được trang hoàng bằng những trái táo đỏ, tượng trưng cho cây Thiên Đàng, cho cuộc sống vĩnh hằng của Chúa. Các trái táo này được gọi là trái táo của bà Eva.
 
        Vào thế kỷ thứ XII, cây thông được chiếu sáng xuất hiện tại Âu Châu, vùng Alsace. Người ta dùng những vỏ trái hồ đào (noix) đựng đầy dầu, trên mặt để tim đèn, hay đèn sáp mềm, cột quanh cây thông.
 
        Vào thế kỷ thứ XIV, người ta bắt đầu trang trí trên đỉnh cây thông một ngôi sao cây tượng trưng cho ngôi sao Bethleem được phổ biến.
 
        Phong tục cây Thiên Đàng chỉ trở nên phổ biến ở Đức vào thế kỉ XVI.  Ở những vùng vắng bóng cây xanh, mọi người tạo ra các đồ vật hình chóp từ gỗ và trang trí cho nó các cành cây xanh và nến.  Cũng tại Đức, năm 1560, truyền thống cây Thiên Đàng được phát triển trong giới Tin Lành bởi người sáng lập Martin Luther.
 
        Đầu thế kỷ thứ XIX, cây Thiên Đàng được nhập vào nước Anh và dần dần phát triển nhờ ông hoàng Albert, chồng của Nữ hoàng Victoria. Vào thời đó, người ta gọi cây Thiên Đàng là “Victorian Tree”. Theo sự mô tả của đại văn hào Charles Dickens thì cây Thiên Đàng ở Anh được trang hoàng bằng búp bê, những vật dụng nhỏ bé, các thiết bị âm nhạc, đồ trang sức, súng và gươm đồ chơi, hoa quả và bánh kẹo. Từ đó, cây Thiên Đàng lan tới các thuộc địa của Anh.


 
        Cây Thiên Đàng đầu tiên được biết đến ở Mỹ là vào những năm 1830. Khi hầu hết người dân Mỹ coi cây Thiên Đàng là một điều kì cục thì những người Đức nhập cư ở Pennsylvania thường mang cây Thiên Đàng vào các buổi biểu diễn nhăm tăng thêm tiền quyên góp cho nhà thờ. Tuy nhiên, vào những năm 1890, nhiều đồ trang trí bắt đầu được nhập từ Đức vào và từ đó tục lệ về cây Thiên Đàng trở nên phổ biến ở Canada và Mỹ.
 
        Truyền thống cây Thiên Đàng với đủ loại kẹo bắt đầu phát triển tại các gia đình Pháp sau chiến tranh 1870, do có hàng ngàn gia đình người Alsace-Lorraine từ Đức di cư qua Pháp.  Cây Thiên Đàng cũng được thịnh hành vào thế kỉ thứ XIX ở những nước Áo, Thuỵ Sỹ, Phần Lan, Hoà Lan.
 
        Có một sự khác biệt lớn giữa cây Giáng Sinh của Châu Âu và Bắc Mỹ. Cây của Châu Âu nhỏ, hiếm khi cao hơn 1,5 mét chỉ khoảng 4 -5 feet trong khi cây của Bắc Mỹ cao tới trần nhà.
 
       2.3. Ông già Noel.

Ông già Noel – Wikipedia tiếng Việt


        Nhiều sử gia cho rằng hình ảnh đầu tiên về Ông già Noel (Santa Claus) xuất hiện trong một bài thơ có tên: A visit from Saint Nicholas (Chuyến thăm của Thánh Nicholas) dưới ngòi bút của mục sư Clement Clarke Moore đã tưởng tượng trong một bài thơ cho các con ông vào năm 1822 và được xuất bản năm 1823. Còn hình ảnh một ông già phúc hậu, với một bộ râu trắng dài trong bộ đồ màu đỏ có viền trắng thì xuất hiện đầu tiên trên báo vào năm 1860 qua nét bút tưởng tượng của nghệ sỹ Thomas Nast.
 
        Thánh Nicholas là một tu sĩ ở Thổ Nhĩ Kì ở thế kỉ thứ IV. Ông được đặc biệt được ca tụng vì tình yêu đối với trẻ em và sự hào phóng của ngài. Thánh Nicholas là người bảo trợ cho các thuỷ thủ, bảo trợ của trẻ em.
 
        Ít ai biết rằng những phiên bản đầu tiên của ông già Noel được mô tả là một người đàn ông cao lớn, gầy gò, dáng vẻ có phần "ma quái" trong chiếc áo choàng của giám mục có nhiều màu sắc khác nhau: xanh, tím, xanh dương và nâu và áo da thú của những người thợ săn Na - uy.
 
        Năm 1862, họa sỹ tranh biếm họa Thomas Nast nhận vẽ tranh Santa Claus cho tạp chí Weekly Harper của Mỹ. Ông tiếp tục vẽ ông già Noel trong suốt 30 năm sau đó và đã thay đổi màu áo choàng của ông từ màu nâu sang màu đỏ. Thời điểm đó, ông già Noel vẫn chưa nổi tiếng khắp thế giới như bây giờ.
 
        Sau đó, năm 1885, họa sỹ Louis Prang đã vẽ nhiều hình ảnh ông già Noel mặc đồ đỏ trong những tấm thiệp chúc mừng giáng sinh. Và tờ The New York Times cũng đưa tin về những bộ đồ màu đỏ được may hàng loạt vào dịp Giáng sinh năm 1927. Thế giới biết đến ông già Noel nhiều hơn từ đó.

 
        Tuy nhiên, hình ảnh chính xác về một ông già Noel vui vẻ đi phát quà cho trẻ em trên khắp thế giới như bây giờ được Haddon Sundblom - một họa sĩ người Chicago chuyên vẽ tranh minh họa danh tiếng thực hiện vào năm 1931, trong một chiến dịch quảng cáo của một hãng đồ uống Coca Cola nhân mùa Giáng Sinh. 
***