Headlines
Loading...
GLPÂ CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM A

GLPÂ CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM A

Chúa Nhật 28 Quanh Năm Năm A
(phần II)


GLPÂ CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM A
CHÚA NHẬT XXVIII QUANH NĂM, NĂM A
Sách Ngôn Sứ Isaia 25.6-10;
Thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philipphê 4,12-14.19-20
 và Phúc Âm Thánh Matthêô 22.1-14

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   

Nước Trời được ví như một bữa tiệc hoàng gia:Phòng tiệc rộng và đẹp.
Thức ăn ngon miệng và dư thừa. Chủ tiệc tận tình mời khách.
Nhiều khách mời có tên trong danh sách từ chối thẳng thừng vì nhiều lý do cá nhân. Họ là những người không biết giá trị tuyệt đỉnh của nước trời và lời mời của Chúa.
Sự từ chối của những khách mời mở rộng lời mời đến tất cả mọi người. Nước Trời hay bàn tiệc thiên quốc được dành cho tất cả mọi người, bất kể sang hèn.

II.        Vấn nạn P.Â.    
Liên quan giữa dụ ngôn vườn nho trong những Chúa Nhật trước và dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia trong Chúa Nhật XXVIII quanh năm hôm nay.

Dụ ngôn hay ngụ ngôn là những câu chuyện giả tưởng được xử dụng với ngụ ý hay dụng ý nhằm truyền đạt một giáo huấn hay một bài học dạy đời.  Đây là hình thức văn chương thông dụng ngày xưa. Trong kho tàng văn học thế giời, chúng ta thấy có ngụ ngôn Lã phụng Tiên (Lafontaine) vào thế kỷ thứ 17. Kho tàng văn chương Việt Nam cũng có nhiều dụ ngôn hay ngụ ngôn như chuyện Lưu Bình Dương Lễ để dạy về tình bạn hay chuyện Cô Tấm Cô Cám để dạy về luân lý sống hiền lành.

Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giảng dạy. Người ta đếm được khoảng 30 dụ ngôn trong các Phúc Âm. Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII quanh năm hôm nay cho chúng ta dụ ngôn tiệc cưới hoàng  gia. Đây là những chương Phúc Âm Matthêô nối tiếp nhau với những dụ ngôn có ý nghĩa liên đới: Chúa Nhật 25 Quanh Năm, Phúc Âm Matthêô 20,1-16, dụ ngôn chủ vườn nho từ sáng sớm ra đi mướn thợ làm vườn nho mình. Có người được mướn từ sáng sớm và phải làm việc lâu   giờ và chịu nắng nôi vất vả. Có người chỉ được mướn vào cuối ngày, chỉ làm việc có một giờ. Sau cùng tất cả đều được lãnh phần tiển công như nhau. Nước thiên đàng hay phần rỗi linh hồn của mỗi người là phần thưởng sau cùng của đời sống. Dù giữ đạo từ nhỏ hay lúc tuổi già… Tất cả đều có nước thiên đàng như nhau.

Biệt Phái và Luật Sĩ luôn tự hào vì chuyện mình được nên công chính vì lề luật hay vì con cháu Abram. Họ quên rằng Thiên Chúa là chủ vườn nho. Thiên Chúa ban phần thưởng cho con cái mình giống nhau. Những ai đã giữ đạo lâu đời, xin hãy cám ơn chúa, vì mình đã có hướng đi ngay từ còn bé. Những ai giữ đạo lâu đời, hãy thương đến những anh chị em khác, không ai mướn hay không nhận được hướng dẫn cần thiết để nhận biết Chúa. Họ trông ngóng cả ngày, cuộc đời vô định.

            Dụ ngôn hai người con trong Matthêô 21.28-32 nhằm ám chỉ Biệt Phái và lãnh đạo Do Thái. Họ tự nhận mình là những đứa con chí hiếu luôn làm những gì Chúa dạy. Kỳ thực, họ không đi làm vườn nho cho chúa hay đúng hơn: họ giả bộ làm vườn nho mà thôi. Dụ ngôn những tá điền bất trung, được tường thuật trong Matthêô 21,33-46 nhằm nói đến những Luật Sĩ và Biệt Phái trong Do Thái Giáo. Họ là dân Chúa chọn. Họ được sống trong vườn nho Chúa. Họ được chăm sóc chu đáo mọi mặt. Nhưng họ đã phản bội tình thương Chúa. Họ không sinh hoa kết trái trong đời sống mình mà còn phá hoại vườn nho và giết chết những sứ giả của Chúa.

            Hôm nay đây, Chúa Nhật XXVIII quanh năm, Phúc Âm Thánh Matthêô với dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia. Những khách được mời có trong danh sách đều viện dẫn lý do để không đến dự tiệc. Sau cùng, mọi người đều được mời, được gom vào cho đầy phòng tiệc. Rõ ràng, Dân Do Thái, Dân Thiên Chúa đã từ chối lời mời nhập tiệc. Nói khác đi, họ có những lề luật, những lối sống riêng mà họ nghĩ là tốt hơn tiệc cưới hoàng gia. Sau cùng tất cả mọi dân nước trên  thế giời đã làm đầy phòng tiệc nước trời.

Những trưng dẫn trên, thoạt đầu chúng ta thấy đây là khuyến cáo hay chỉ trích của Chúa dành cho giới lãnh đạo Do Thái. Điều nầy không sai, tuy nhiên các dụ ngôn và các lời khuyến cáo cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời và cho chúng ta. Thật vậy, nhiều người công giáo  giữ đạo lâu đời, nghĩ mình có công hơn những người khác hay lấy cái lý lịch công giáo gốc của mình để phê phán hay chỉ trích người khác. Nhiều người công giáo giữ đạo lâu năm, bề ngoài như những đứa con ngoan của Chúa. Kỳ thực, họ không đi làm vườn nho nước chúa mà chỉ làm những gì có lợi cho riêng mình. Có nhiều người công giáo giữ đạo lâu năm, được sống trong Giáo Hội và được chăm sóc chu đáo, nhưng đã không mang lợi cho Chúa. Họ quên bổn phận làm con cái Chúa và phải làm cho nhiều ngưởi nhận biết Chúa.

Dụ Ngôn Tiệc Cưới Hoàng Gia

Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia được tường thuật trong Phúc Âm Thánh Matthêô và Thánh Luca.

Đọc giả của Phúc Âm Matthêô là những người chính gốc Do Thái. Họ thấm nhuần Kinh Thánh Cựu Ước. Họ là dân chúa, được Chúa chọn và trao phó sản nghiệp nước trời. Tuy nhiên họ đã là những đứa con xem chừng ngoan ngoãn nghe lời Chúa, nhưng lại không thực hành Lời Chúa. Chúng ta sẽ thấy cùng một dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia nầy, nhưng Phúc Âm Matthêô dài hơn và nhiều tình tiết hơn, đặc biệt phần cho tống vào nơi khóc lóc nghiến răng khách dự tiệc mà không mặc áo cưới.

Đọc giả của Phúc Âm Luca là dân ngoại mới tòng giáo, tức những người không là “đạo gốc”. Họ là dân ngoại được cảm hóa và gia nhập Kitô giáo. Nên Phúc Âm Thánh Luca trong dụ ngôn nầy không có phần cuối tức phần không mặc áo cưới và bị tống vào nơi khóc lóc và nghiền răng. Rất dễ hiểu: Dân ngoại đi tìm lòng thương xót Chúa. Chúa đã mời gọi họ vào cho đầy phòng tiệc. Điều đó là đủ để diễn tả dụ ngôn nước trời như tiệc cưới hoàng gia, không cần thêm chi tiếc về nghi thức phải mặc áo cưới và trừng phạt.

Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.

Thực tế trong dụ ngôn, những khách đã được mời coi thường tiệc cưới, có người viện dẫn lý do từ chối, có người hung bạo đánh giết người đi mời. Như vậy việc khinh thường lời mời của nhà vua đã làm cho những khách nầy trở nên không xứng đáng, tức họ tự loại mình ra khỏi danh sách khách danh dự được mời. Nước trời như tiệc cưới hoàng gia, đã dành chỗ cho dân Chúa chọn. Tuy nhiên, người ta đã từ chối. Sự từ chối làm cho khách mời trở nên không xứng đáng. Nước Trời luôn có chỗ cho mọi người. Ơn cứu độ có tính cách phổ quát, tức dành cho muôn  người. Ai cũng xứng đáng cả nếu chấp nhận lời mời gọi. Mình chỉ không xứng đáng hay không có chỗ khi chính mình từ chối lời mời hay khinh thường ơn cứu độ.

Đạo Chúa là đạo công giáo, đạo dành cho hết mọi người. Ai cũng được kêu mời vào đạo. Nên đạo công giáo không khước từ con người, chỉ có con người mới khước từ đạo mà thôi. Nên khi tôi không được cứu độ, phần trách nhiệm về phía tôi, chứ không về phía Chúa hay giáo hội. Vì “các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”

III.      Thực hành P.Â.:
Khách mời và người đi mời khách
Nếu chúng ta là những người đạo Công Giáo. Chúng ta đã được mời dự tiệc cưới hoàng gia. Chúng ta đã được mời bằng việc sinh ra trong gia đình có Cha Mẹ Công Giáo. Chúng ta được mời bằng cách lớn lên trong một hoàn cảnh thuận lợi cho đức tin, như trong xóm đạo công giáo. Chúng ta được mời bằng việc được giáo dục trong nền giáo dục công giáo…Những sinh hoạt công giáo thuần túy nầy nhiều khi làm chúng ta quên rằng mình là khách mời. Nhiều khi làm cho chúng ta có cảm tưởng mình là chủ bữa tiệc hay đạo Công Giáo là đạo của riêng mình. Yếu tố “toàn tòng” nầy làm cho mình khinh thường hay lấy làm lạ khi nhìn thấy người khách không có đạo. Có nhiều khi những ông bà “làm chủ đạo” nầy nặng lời với những anh chị em lương dân là “quân vô đạo!”  Không! Chúa là người khoản đãi tiệc cưới hoàng gia. Chúng ta chỉ là khách được mời, chứ không là chủ tiệc. Đừng chiếm lấy vai trò làm chủ nước trời. Tốt hơn chúng ta hãy biến mình thành người đi mời khách vào cho đầy bàn tiệc nước trời.

Thường vào cuối tuần, ở trước các nhà hàng và bên vệ đường có nhiều người qua lại, có những người đứng mời khách. Họ thường ăn mặc bắt mắt người qua lại thí dụ có chiếc mũi to, hay chiếc nón to và cao. Có khi họ đeo một tấm bảng trước ngực để làm mọi người chú ý. Họ thường có thái độ lịch sự và tạo cảm tình với mọi người. Có nhiều khi người ta chưa đói hay chưa muốn ăn, nhưng thấy người mời khách dễ thương, người ta lại vào nhà hàng. Có nhiều khi cha mẹ không quan tâm, nhưng các con lại thích kiểu mời mọc nầy, nên lại muốn cha mẹ ghé vào nhà hàng ăn.

Hãy làm một khách mời dễ gây cảm tình và chú ý cho người ở các ngã đường. Đạo Công Giáo phần nhiều bị thất bại trong cách mời khách vào đạo. Thường người công giáo bảo: Đó là việc của Chúa, nếu Chúa chưa gọi thì mình không làm gì được. Cũng có những người trình bày một gương mặt hay một thái độ kẻ cả không gây được cảm tình với người khác. Tệ nhất là có những người đã vào đạo, nhưng vì lối hống hách của cha cố hay chủ cả của những kẻ cho mình là đạo gốc nầy mà họ xa rời phòng tiệc nước trời.

Mình đã được mời vào bàn tiệc nườc trời. Xin hãy là một người mời khách thật “ăn khách” bằng lời lẽ nhẹ nhàng, thoải mái và chân thành, bằng những việc làm bác ái vô vụ lợi, bằng những thái độ khiêm nhường gần gũi và nhất là bằng đời sống đạo đức chân thật.

 Lm Phêrô trần Thế Tuyên


 Tiệc cưới đã sẵn sàng
Suy Niệm
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do-thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Lectio Divina: Chúa Nhật XXVIII Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 12 Tháng 10, 2014
Lời mời rộng rãi đến bàn tiệc Nước Trời
Đón nhận ơn cứu rỗi với sự chuẩn bị xứng đáng
Mt 22:1-14
 

1.  Lời nguyện mở đầu 
Lạy Chúa Thánh Thần của chân lý, được Chúa Giêsu sai đến để hướng dẫn chúng con tìm đến sự toàn chân, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con để chúng con có thể hiểu được lời Kinh Thánh.  Ngài là Đấng đã rợp bóng trên Đức Maria và khiến bà thành mảnh đất màu mỡ nơi Lời của Chúa có thể nẩy mầm, xin hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi trở ngại hướng đến Lời Chúa.  Xin giúp chúng con học hỏi theo gương Đức Maria xưa kia với trái tim trinh khiết và tốt lành để lắng nghe Lời Chúa nói với chúng con trong cuộc sống và trong Kinh Thánh, để chúng con có thể tuân giữ Lời Chúa và sinh sản được hoa trái tốt tươi qua sự kiên trì của chúng con.
 2.  Bài Đọc
a)  Bối cảnh:
Ý nghĩa của bài dụ ngôn khá rõ ràng khi chúng ta đọc trong bối cảnh của nó.  Nó đi kèm ngay sau một dụ ngôn khác về Nước Trời (21:33-43) và là một phần của cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các thượng tế và người Biệt Phái về sứ vụ và quyền hạn của Người (xem 21:23-46).
Trong dụ ngôn trước, dụ ngôn về vườn nho, Chúa Giêsu tóm tắt lịch sử ơn cứu độ. Thiên Chúa đã bao phủ dân Israel với sự chăm sóc đặc biệt và hy vọng rằng với sự chăm nom như thế sẽ nảy sinh hoa trái dưới hình thức một đời sống trung thành và công bằng.  Đôi lúc, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở dân chúng về kết quả mà Thiên Chúa đã mong đợi, nhưng sứ vụ của họ luôn gặp phải sự chống đối của dân Israel.  Cuối cùng, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người, nhưng họ đã giết Người Con ấy.  Tại thời điểm này, Chúa Giêsu nói rằng bởi vì dân Israel tiếp tục chối bỏ Nước Trời, cho nên Vương Quốc Nước Trời sẽ được trao lại cho một dân tộc khác, đó là, dân ngoại (21:43).  Lời công bố này cho chúng ta chìa khóa dẫn đến bài đọc dụ ngôn của chúng ta, thực ra nó lặp lại sứ điệp của bài dụ ngôn trước nhưng dùng một hình ảnh khác và với các sắc thái khác nhau.
Chúng ta phải khẳng định rõ ràng rằng cả hai dụ ngôn không thể có cách chi biện minh cho ý tưởng rằng Thiên Chúa đã phế bỏ dân tộc Israel để dành đặc ân cho Giáo Hội.  Chỉ cần đọc Thư gửi tín hữu Rôma các chương 9-11 để được thuyết phục ngược lại.  Chúa Giêsu nói những lời nghiêm khắc, những điều tiên tri, để kêu gọi dân của Người ăn năn hối cải và để họ chấp nhận Người.  Ngoài ra, các dân ngoại, những người mới được mời, cũng có nguy cơ bị ném ra ngoài nếu họ không mặc y phục lễ cưới.         
b)  Phúc Âm: 
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng:  ‘Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử.  Vua sai đầy tớ đi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.  Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng:  “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này Ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng.  Xin mời các ông đến dự tiệc cưới.”  Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi:  người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi.  Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu hủy thành phố của chúng.  Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng:  “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ được mời không đáng dự.  Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới.”  Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.  Đoạn vua đi vào quan sát những người khách dự tiệc, và thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới.  Vua liền nói với người ấy rằng:  ‘Này bạn, sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới?’  Người ấy lặng thinh.  Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng:  “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng!”  Vì những kẻ gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít.’ 
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a)  Các khách mời từ chối lời mời dự tiệc đại diện cho những ai?  
b)  Các khách mời được tìm thấy trên các ngả đường đại diện cho những ai?     
c)  Người khách mà không mặc y phục lễ cưới đại diện cho những ai? 
d)  Trong đời sống của tôi, có “những việc cấp bách” nào đã ngăn trở tôi nhận lời mời của Thiên Chúa không?
e)  Y phục lễ cưới mà Thiên Chúa muốn tôi mặc để tham dự vào tiệc cưới của Vương Quốc Nước Trời là gì? 
5.  Chìa khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
·         Bàn tiệc Nước Trời
Các ngôn sứ thường công bố những lợi ích của ơn cứu rỗi và cách đặc biệt cho những người vào thời kỳ cánh chung thông qua hình ảnh của bữa tiệc.  Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật tuần này (Is 25:6-10a) là một ví dụ.  Giống như Đức Giêsu, ngôn sứ Isaia cũng nói về một bữa tiệc được chuẩn bị bởi Thiên Chúa cho mọi dân tộc.  Tuy nhiên, dân tộc Israel và đặc biệt là thành phố Giêrusalem vẫn là tâm điểm của kế hoạch Thiên Chúa như là trung gian của ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.  Tuy nhiên trong phần Tân Ước, mặc dù có một sự thừa nhận rằng “ơn cứu độ đến từ dân Do Thái” (Ga 4:22), Đấng trung gian duy nhất của ơn cứu rỗi là Chúa Giêsu, Đấng tiếp tục thực hiện sự hòa giải của mình thông qua cộng đoàn các môn đệ của Người, đó là Giáo Hội.
·         Y phục lễ cưới
Thật là một sự xúc phạm đến người đã đạt lời mời đến dự bữa đại tiệc mà người dự tiệc lại mặc quần áo làm việc thường ngày.  Đó là dấu hiệu của việc coi thường cơ hội mà người ấy được mời tham dự.  Hình ảnh này, được dùng trong dụ ngôn về Nước Trời, muốn truyền đạt ý tưởng rằng người ta không thể bước vào Nước Trời mà không có sự chuẩn bị, và việc chuẩn bị duy nhất là thay đổi.  Trong thực tế, việc thay đổi y phục trong Kinh Thánh có nghĩa là thay đổi lối sống hoặc được cải đổi (xem ví dụ ở Rm 13:14; Gal 3:27; Êph 4:20-24).  
·         “Những kẻ được gọi thì nhiều mà những người được chọn thì ít”
Câu nói này là một cách nói của người Do Thái.  Trong trường hợp không có sự so sánh, Kinh Thánh Do Thái dùng câu diễn tả được dựa trên sự đối chọi mạnh mẽ. Vì thế, câu diễn tả này không nói gì về mối quan hệ tỉ số giữa những kẻ được gọi gia nhập Hội Thánh và những người được chọn vào sự sống đời đời.  Tuy nhiên, nó cũng đúng là dụ ngôn làm cho sự phân biệt giữa lời mời gọi của ơn cứu độ với sự chọn lựa và lòng kiên trì cuối cùng.  Lòng quảng đại của người cai vị quân vương thật là to lớn, nhưng chúng ta phải nghiêm túc về những yêu cầu của Nước Trời.  Câu nói này là lời kêu gọi cấp bách rằng nếu chỉ là tư cách hội viên chính thức dân riêng của Thiên Chúa thôi thì chưa đủ đâu.  Chúng ta không thể xem ơn cứu rỗi là điều tất nhiên.  Ở đây Chúa Giêsu theo sát cách chặt chẽ lời giảng dạy của các ngôn sứ.  Xem lại sách Gr 7:1-15 và Ov 6:1-6.   
6.  Thánh Vịnh 47
Thiên Chúa là vua dân Israel và khắp địa cầu
Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì ĐỨC CHÚA là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.
Chính Người bắt muôn dân muôn nước
phải phục quyền và quỵ luỵ chúng tôi.
Người chọn lựa cho chúng tôi phần cơ nghiệp,
cơ nghiệp làm cho kẻ Người thương là Gia-cóp
được nở mặt nở mày.
Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
CHÚA ngự lên, vang dội tiếng tù và.
Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa!
đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!
Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu,
hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ.
Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,
Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả.
Kìa vương hầu các dân tề tựu
cùng dân Thiên Chúa, Chúa của Ábra-ham.
Mọi thủ lãnh trần gian thuộc quyền Thiên Chúa,
Đấng siêu việt ngàn trùng!
7.  Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa, Chúa của toàn thế giới và là Vua của muôn dân, từ thuở sơ khai Chúa đã chuẩn bị bữa tiệc linh đình cho con cái Người và Chúa muốn tề tựu chúng con chung quan bàn tiệc Chúa để chia sẻ trong chính cuộc sống của Chúa.  Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã gọi chúng con vào trong Hội Thánh Chúa qua Đức Giêsu, Con của Chúa.  Nguyện xin cho Thần Khí Chúa làm cho chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng tiếp tục chấp nhận lời mời của Chúa và xin cho chúng con, qua Chúa Thánh Thần, trở nên con người mới, được tạo dựng ra theo ý Thiên Chúa trong công lý và trong sự thánh thiện đích thực, trong hình ảnh của Chúa Kitô, để chúng con có thể cùng tiến vào bàn tiệc của Nước Chúa với vô số các anh chị em.  Xin hãy dùng chúng con, nếu Chúa muốn thế, để tiếp tục kêu gọi những người khác đến dự bàn tiệc chung của Vương Quốc Chúa.
Chúng con cầu xin điều này qua Đức Kitô là Chúa của chúng con.  Amen!


Chú giải và gợi ý suy niệm Chúa nhật 28 thường niên A: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Bản văn có thể chia thành bốn phần: 1) Mở (22,1); 2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (22,2-7); 3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13): a) Mời mọi người (cc. 8-10), b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13); 4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu (22,14).
Chú giải và gợi ý suy niệm Chúa nhật 28 thường niên A:  DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA

 Lm FX Vũ Phan Long, ofm:
1. Ngữ cảnh
Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho(21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang mộtsứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với mộtlời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.
Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Ngài ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không mộtai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Ngài được đón nhận.
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở (22,1);
2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (22,2-7);
3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13):
a) Mời mọi người (cc. 8-10),
b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13);
4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu (22,14).
3. Vài điểm chú giải
- mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước(Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Ngài.
- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là mộtđộng từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả mộtquyết định rõ ràng.
- Vậy các ngươi đi ra (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như mộtmệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”).
các ngả đường (9): Từ diexodos thuộc Bản LXX có nghĩa là điểm bắt đầu hay là điểm đến, phần xa nhất của một miền đất. Vậy dịch diexodoi tôn [h]odôn là “các ngả đường” dường như không chính xác. Đây là điểm mà từ đó con đường ([h]odos) bắt đầu hay kết thúc. Như thế các đầy tớ đi ra khỏi thành và tỏa ra khắp nơi cho đến tận biên cương của vương quốc.
- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc hoặc trong Hội Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Hội Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.
- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào mộtlúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Hội Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do Thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa mộtlối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Hội Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Hội Thánh của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.
- không có y phục lễ cưới (12): Vào thời Thượng Cổ, không có tập tục các khách mời phải mặc một bộ y phục riêng cho tiệc cưới; chỉ cần một bộ y phục sạch sẽ, trang trọng, là được. Do đó, công thức “y phục lễ cưới” khiến độc giả phải nghĩ đến nghĩa ẩn dụ. Cụm từ “y phục lễ cưới” (endyma gamou) này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc, phải có trước khi ra trước tòa phán xét. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.
- kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…
4. Ý nghĩa của bản văn
* Mở (1)
Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô.
Chính dụ ngôn gồm các câu 2-13. Câu 14 là một lời bình của người kể, tức Đức Giêsu. Sau lời giới thiệu ở c. 2, dụ ngôn được triển khai thành hai phân đoạn, cc. 3-7 và cc. 8-13. Mỗi phân đoạn bắt đầu bằng việc nhà vua sai các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc cưới. Lần mời thứ nhất thất bại; lần mời thứ hai thành công. Tuy nhiên, mỗi lần đều kết thúc bằng một tai họa. Trong trường hợp thứ nhất, tai họa đổ xuống trên những người được mời; trong trường hợp thứ hai, tai hoạ chỉ đổ xuống trên một người khách.
Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là mộtvị vua. Ông chủ nhà sai đầy tớ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một“người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến mộtsố nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn Tiệc cưới, nhân vật duy nhất hành động tích cực là nhà vua. Chỉ một mình ông nói, chứ không có đối thoại. Ngoại trừ cc. 5-6 và c. 10, truyện hệ tại các hành vi hoặc các lệnh truyền của nhà vua.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (2-7)
Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi hỏi về công bình; ở đây là mộtlời mời, mộtvinh dự diễn tả cho mộtai đó. Một bên là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa người ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn chuyện vi phạm mộtquyền, nhưng là mộtxúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn phải là mộtđe dọa, nhưng là mộthành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có mộtsự tiệm tiến.
Những “người đã được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Thế mà nhà vua chỉ nhận được mộtsự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3). Các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Dưới ánh sáng của dụ ngôn trước, qua việc nhà vua sai các đầy tớ lần đầu (c. 3), độc giả có thể nghĩ đến các ngôn sứ trong Cựu Ước; qua lần sai phái thứ hai (cc. 4-6), họ có thể nghĩ đến các tông đồ và các nhà thừa sai (x. 21,34.36). Các độc giả cũng đã biết Israel thường xử tệ và giết các ngôn sứ (x. 23,34-35). Còn những khách được mời, thoạt tiên độc giả sẽ nghĩ đến các thượng tế và người Pharisêu, vì các dụ ngôn được nói cho họ. Tuy nhiên, không nhất thiết chỉ nghĩ tới giới lạnh đạo Do Thái, bởi vì các sứ giả của Đức Giêsu được cử đến với toàn thể Israel (x. 10,5-6.23).
Câu 6 có vẻ đột ngột: đi từ “kẻ thì … , người thì …” (hos men … hos de), ta không chờ đợi “còn những kẻ khác” (hoi de loipoi), nhất là một tội ác (giết các đầy tớ). Nhưng các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái, thì hiểu rằng dụ ngôn đang nói về các thừa sai của họ, các vị này đã bị bách hại tại Israel (10,16-23) cũng như nói về các ngôn sứ Cựu Ước cũng đã bị bắt bớ trước rồi (5,12; 21,35-36). Nhưng c. 7 thì thật lạ, kể cả với các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái. Không còn cỗ bàn, bò tơ, thú béo nữa. Nhà vua lên đường hành quân, chắc chắn đâu có thể làm một sớm một chiều. Dù sao, từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi, người Do Thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c. 8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.
Đức vua đã huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Các khách được mời nay được gọi đơn giản là “bọn sát nhân”. Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là mộtvài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là mộtcâu lạc lõng. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán mộttầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là mộtvài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây tác giả Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Hội Thánh. Hai phương diện này được kết nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Hội Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (8-13)
Phân đoạn này gồm hai truyện khác nhau được kết nối lỏng lẻo (cc. 8-10 và 11-13). Câu truyện có thể kết thúc ở c. 10. Chính cụm từ “xấu và tốt” ở c. 10 khiến độc giả nghĩ rằng câu truyện có thể còn tiếp.
Bây giờ các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường khắp cùng bờ cõi vương quốc (diexodoi tôn [h]odôn) vào phòng tiệc. Tác giả Mt không nói là “người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” như Lc 14,21, vì hiểu chữ “tất cả” (“mời hết vào”) theo nghĩa khác: kẻ xấu người tốt đều được mời. Lần mời này thành công. Chẳng mấy chốc phòng tiệc đã đầy mộtkhối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là mộtsự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt” (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Israel, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến mộtdân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là mộtdân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là mộtxã hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Hội Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Thế nhưng đến đây, bài dụ ngôn vẫn chưa kết thúc “có hậu”. Bởi vì sẽ có mộtcuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có mộtcuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phân đoạn thứ hai (cc. 11-13).
Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Ông đã thấy có một người không có “y phục lễ cưới” (endyma gamou). Nhà vua gọi anh ta là “này bạn” (hetairos), nhưng thái độ rất cứng rắn, không khoan nhượng. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề mộtcái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm” (x. 8,12; 25,30), nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng” (x. 8,12; 13,42.50; 24,51; 25,30), tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.
Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một“sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa.
Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là mộtbảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Hội Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là mình có ơn cứu độ.
* Kết luận (14)
Câu kết luận này là một lời bình của Đức Giêsu. Câu này, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận mộtơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ nhận được mộtơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do Thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.
Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào mộtnhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là mộtngười ngoại chứ không phải là mộtngười Do Thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến mộtsố “ít” (nhỏ) những người được chọn?
Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở bình diện ngữ học (philologie): đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).
+ Kết luận
Tầm nhìn của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành mộtminh họa đời sống của Hội Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do Thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Hội Thánh đã quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Hội Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do Thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.
Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Ngài.
5. Gợi ý suy niệm
1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là mộtđề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có mộttự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu mộtkết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).
2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.
3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Hội Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.
4. Trong các dụ ngôn Cỏ lùng và Lưới cá (13,37-43.49-50), Đức Giêsu cũng đã nói rõ rằng Hội Thánh cũng là một phần của tập thể pha trộn là thế giới, “thửa ruộng” của Con Người. Như thế, các thành viên của Hội Thánh phải để ý đừng thuộc về “những kẻ xấu” đứng đó mà không có y phục lễ cưới. Chỉ có một người trong dụ ngôn bị cật vấn có nghĩa là từng người phải trả lẽ, chứ không thể cây dựa vào người khác.
5. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc mộtáo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng-không.