“Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham. Thế nhưng với những người Kitô Hữu, chết là bước đường đi đến cuộc sống muôn đời trên Thiên Đàng.” (Phaolô Phạm Khắc Khoan)
Trong thư I gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì đức tin của ta vô ích.” (I Cor. 15 ,17)
Cũng vì Chúa đã sống lại, mà mỗi thời đại đã có biết bao người sẵn sang hy sinh tận hiến cuộc đời mình cho Chúa, không quảng ngại vất vả long đong. Cũng vì Chúa đã sống lại, mà trải qua hai ngàn năm, biết bao cuộc bách hại đẫm máu cũng không giập tắt được niềm tin của những người theo Chúa. Vì đối với những người tin theo Chúa, thì Chúa đã chết để được sống lại thế nào, tín hữu của Chúa cũng sẽ phải chết để được sống lại như Chúa.
Trong thời gian bị giam, một hôm qua tuần phủ nói với thánh Khoan (tử đạo ngày 28. 4. 1840, 69 tuổi): “Tôi muốn kết nghĩa với cụ, tôi chỉ muốn tìm cách cứu sống cụ thôi. Xin cụ chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá.”
Cha trả lời: “Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ, tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức Tin cho đến chết.”
- Thế ông không muốn sống ư?
- Bẩm quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống hồ là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham. Thế nhưng với những người Kitô Hữu, chết là bước đường đi đến cuộc sống muôn đời trên Thiên Đàng.
- Ai bảo ông là có Thiên Đàng?
- Đó là điều cố nhiên phải có. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa Trời Đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung của Người sao? Nơi ban thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng
- Vậy ai dậy cho ông biết là có Chúa Trời Đất?
- Bẩm quan, không cần phải ai dậy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên, tức khắc phải nhận ra có Đấng tạo Thành và giữ gìn nó. Chúng tôi gọi Đấng ấy là Chúa Trời và tôn Thờ Người.
Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải (Ninh Bình). Sau khi thụ phong linh mục, cha được sai đi coi xứ Kẻ Vĩnh, rồi xứ Phúc Nhạ. Cha Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ. Ngoài xứ chính ra, cha còn phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn Đạo (Ninh Bình). Mỗi tháng cha đều đến họ lẻ dâng Lễ, giải tội và khuyên nhủ giáo hữu sống đạo đức, gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy, cha thường dẫn theo một hai thầy giảng để giúp việc dạy giáo lý và đi sát với quần chúng. Năm 1839 có hai thầy cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thầy Phêrô Hiếu và thầy Gioan Baptista Thành. Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về thị xã Ninh Bình.
Vì hy vọng thời gian sẽ làm cho các anh hùng đức Tin nản chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa, đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng ép, nhưng không cách nào có thể làm các chứng nhân thay lòng, đổi dạ.
Ở trong ngục, cha Khoan nhận được bức thư của đức cha Retord Liêu viết trước khi lên đường sang Manila để được tấn phong. Bức thư bằng Hán Văn:
“Sách có câu: Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi chừng kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lên khen ngợi những ai chết cho đức Tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc với âm điệu ngân vang muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ chờ lưỡi rìu chặt đem đi tiếp lửa cho hỏa ngục.” Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn nho Giáo hội, làm cho nó thêm phong nhiêu… Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui, tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin cha đừng quên tôi.”
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: “Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?” Quan hỏi: “Sao lại không hợp lý, tôi cho ông con đường sống mà không hợp lý sao?” Cha đáp: “Bẩm quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ, chết đào ngũ thì thật là hèn nhát. Cũng vậy, tôi chịu ơn Vua Cả Trời Đất, tôi đâu được phép sợ chết mà bỏ Người được.”
Quan thất vọng trước sự trung kiên của cha Khoan, thầy Hiếu, thầy Thành nên đành ký án tử gởi về triều đình xiu châu phê. Trong những ngày chờ đợi, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thầy hát bài Thánh Thi “Chúc Tụng” (Te Deum). Cha một câu, hai thầy một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca trên những lời tri ân: “Tâu Thượng Đế! Này thần dân xin hát mừng trước bệ - Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn …
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời: “Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại Đức Vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu, và vì không chịu bỏ đạo Thiên Chúa và đạo duy nhất chân thật.”
Lính đẩy ba chứng nhân trung thành vào khu vực riêng, xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hay thầy hiệp ý cầu nguyện với vị linh mục:
“Vinh danh Chúa Tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho đức vua được cai trị lâu dài và thái bình thịnh vượng…
Như trong đêm phục sinh, cha Khoan hát lên ba lần, Alleluia, Alleluia, Alleluia Alleluia, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Đối đáp lại, hai thầy hát theo cung độ của vị chủ sự. Ba cái đầu cùng một lúc rơi xuống. Thầy giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba đấng về Phúc Nhạc an táng.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề tựa của Lm. HK