Headlines
Loading...
Biến đổi

Biến đổi

(Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh, năm A)
Mỗi người chỉ có một cuộc sống, tức là chỉ sống một lần và chết một lần, không ai có thể sống lại. Đó là điều ai cũng biết dù chưa bao giờ trải nghiệm. Dù có sự sống lại nhưng cũng không xảy ra. Điều đó chỉ có Thánh sử Luca kể lại: Chuyện La-da-rô nghèo khổ và phú hộ (x. Lc 16:19-31).
Nhưng sự sống lại đã xảy ra thật: Đức Kitô bị giết chết trên Thập Giá và Ngài đã sống lại. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là hoang đường! Nhưng Đức Kitô đã thực sự sống lại, như vậy đức tin của chúng ta đã được “đóng ấn tín đời đời”. Điều đó đã được Thánh Phaolô minh chứng (x. 1 Cr 15:17).

Là con người bình thường thì ai cũng có nỗi nhớ. Gọi là nỗi nhớ thì không có giới tính. Vậy tại sao lại gọi là nỗi nhớ đàn bà mà không là nỗi nhớ đàn ông? Phải chăng vì phụ nữ có “khoảng nhớ” lớn hơn nam giới? Có phần đúng. Theo khoa học, MỘT bộ óc nhưng có HAI bán cầu não. Phụ nữ “nói nhiều” hơn nam giới vì họ sử dụng cả hai bán cầu não một lượt, còn nam giới chỉ sử dụng một bán cầu não.
Như vậy, có thể nói rằng “khoảng nhớ” của phụ nữ lớn hơn nam giới. Trong tình trường bình thường, khi bị phụ tình (hoặc tình phụ), nỗi nhớ ở phụ nữ vẫn “lâu dài” hơn ở nam giới là vậy. Khoa học không có gì trái ngược với đức tin Công giáo. Phụ nữ được Thiên Chúa ưu đãi nhiều điều lắm!
Thánh Phêrô xác nhận: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Điều này vừa đáng mừng vừa đáng lo. Thật “đáng mừng” vì chúng ta không sợ bị thua thiệt: Thiên Chúa công minh, không thiên vị. Nhưng lại “đáng lo” nếu chúng ta ảo tưởng mà tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Thánh Phêrô nói về biến cố đã xảy ra tại Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng, và nói về lai lịch về Đức Giêsu xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài.
Các tông đồ đã can đảm làm chứng về mọi việc Đức Giêsu đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).
Đức Kitô sống lại và chúng ta cũng sẽ được sống lại như Ngài, một ân huệ quá lớn, vì thế chúng ta phải “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chính “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” nên tử thần đã chiến bại ê chề, mất khả năng hoành hành như trước. Do đó, tác giả Thánh Vịnh hân hoan: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17). Sự kỳ diệu nối tiếp nhau: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Chỉ có Thiên Chúa mới khả thi những điều như vậy!
Thánh Phaolô xác định và nhắc nhở: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thật vậy, Đức Kitô là nguồn sống của chúng ta, Ngài xuất hiện thì chúng ta cũng được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang (Cl 3:3-4).
Thánh Phaolô nói thêm: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:7-8). Tất cả đều biến đổi hoàn toàn, điều đó có thể là được biến đổi hoặc tự cố gắng biến đổi.

Trình thuật Ga 20:1-9 rất ngắn gọn. Chàng Gioan cho biết: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ và thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp người “tổ trưởng” Phêrô và người môn đệ được Đức Giêsu thương mến – tức là chàng trai trẻ Gioan, người tựa đầu vào ngực Thầy Giêsu và nghe được “nhịp tình thổn thức” của Thầy ngay trong Bữa Tiệc Ly.
Bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Thật tội nghiệp, chắc hẳn Bà buồn lắm, và Bà thấy nhớ Thầy Giêsu da diết. Các môn đệ nghe nói vậy cũng cảm thấy hoang mang. Vì trong thời gian này, “vụ án Chúa Giêsu” vẫn còn gây chấn động mạnh, chưa thể nào lắng xuống, ai cũng sợ người Do-thái khủng bố và áp bức, thế nên chẳng ai dám đi lại nhiều, có ở nhà thì cũng đóng cửa kín mít, đi đâu thì phải mắt trước mắt sau, đi như chạy, vội vàng như bị ma đuổi vậy.
Sau khi nghe Bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói, ông Phêrô và Gioan liền đi ra mộ xem sự thể ra sao. Cả hai người cùng chạy, nhưng Gioan còn trẻ nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, đợi cho Phêrô đến nơi và vào trước, “kính lão đắc thọ” theo phép lịch sự.
Ông Phêrô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan cũng đi vào, đã thấy và đã tin. Lúc này hai người tin thật rồi, chứ không như trước đó. Và hai ông đã hiểu rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết theo như Kinh Thánh đã nói.
Hai năm rõ mười, mọi điều đã tỏ tường, ai cũng hân hoan tột độ, và cũng không còn sợ hãi nữa. Chính Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi họ, từ con người nhút nhát thành can đảm, từ con người yếu đuối thành mạnh mẽ, ngay cả các phụ nữ cũng biến thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô Phục Sinh. Phụ nữ có thể “hấp tấp” một chút, dẫu cho “sâu sắc như cơi đựng trầu”, nhưng họ vẫn có những điều khiến chúng ta học hỏi.
Hai hành động THẤY và TIN có liên kết với nhau. Có người thấy mà không tin, vậy là vô ích. Ai thấy và tin thì mới đáng nói. Đó là sự biến đổi mau chóng và thực sự là điều kỳ diệu.
Lạy Thiên Chúa, xin củng cố đức tin nơi chúng con để chúng con được biến đổi mau chóng khi chúng con thấy những điều kỳ diệu mà Ngài vẫn không ngừng thực hiện trong cuộc đời của chúng con, xin giúp chúng con can đảm làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh trong suốt cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

p>Nước rất mềm yếu nhưng cũng rất mạnh mẽ. Nước rửa sạch ô uế, nước gội mát muôn vật, làm cho mọi vật hồi sinh. Nước rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thiếu nước thì người ta mau chết hơn là thiếu đồ ăn. Nước là biểu hiện của sự sống. Nước rất kỳ diệu!

Nước tự nhiên mà còn kỳ diệu đến thế huống chi nước tâm linh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4).
Về ranh giới tử – sinh, Thánh Phaolô nói: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Thật kỳ diệu với vòng tử – sinh như vậy!
“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8). Niềm tin rất chính xác, không luống công vô ích. Thánh Phaolô nói: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).
Được thừa kế niềm tin đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi mọi người: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Tại sao? Lý do rất rạch ròi: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực. Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:16-17).
Đức Kitô chính là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Ngài đã bị giết chết nhục nhã, người ta tưởng vậy là chấm dứt lịch sử, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế trận, Ngài đã chiến thắng tử thần và đã phục sinh vinh quang. Đó chính là công trình của Chúa, công trình vô cùng kỳ diệu trước con mắt phàm nhân chúng ta.
Trình thuật Mt 28:1-10 nói về khoảnh khắc lịch sử độc nhất vô nhị trên thế gian này, lời kể ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ.
Sau ngày sa-bát, vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a cùng đi viếng mộ. Thình lình đất rung chuyển dữ dội: Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, tụi lính canh khiếp sợ và run rẩy đến nỗi chết ngất đi. Ấy thế mà họ vẫn cứng lòng tin còn hơn sáp nguội!
Thiên thần bảo các phụ nữ “đừng sợ!”, và cho biết rằn Đức Kitô đã sống lại như Ngài đã nói trước. Các bà đến mà xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau mắn về báo tin mừng và bảo các tông đồ đến Ga-li-lê để được diện kiến Thầy iêsu. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo Tin Mừng Phục Sinh.
Có hai điều chúng ta cần học tập từ các phụ nữ này: Mau mắn loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Các phụ nữ này đang trên đường đi, Đức Giêsu đón gặp họ và nói: “Chào chị em!”. Các bà khoái chí hết sức nên đua nhau tiến lại gần Ngài, ôm lấy chân Ngài và bái lạy Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với họ: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10). Các phụ nữ đó là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Phục Sinh và trở thành các nhân chứng sống đầu tiên về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Chúng ta phải ghi nhớ và thực hành hai chữ quan trọng trong cuộc sống: ĐỪNG SỢ! Đó là mệnh lệnh đòi hỏi phải có lòng can đảm thực sự, không dễ thực hiện. vì thế mà ai cũng phải cố gắng không ngừng. Cũng như ranh giới tử – sinh, biên độ cũng rất mong manh giữa sự can đảm và sự hèn nhát. Do đó mà lúc nào chúng ta cũng phải tự nhủ như niệm thần chú: ĐỪNG SỢ!
Lạy Thiên Chúa vĩnh sinh, xin thêm đức tin và lòng can đảm cho chúng con, xin giúp chúng con mau mắn và can đảm làm chứng về sự thật, làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh trong suốt cuộc sống của chúng con, mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU