Các bài suy niệm Lời Chúa - Chúa Nhật IV Mùa Chay A

Các bài suy niệm Lời Chúa - Chúa Nhật IV Mùa Chay A

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY A
Lời Chúa: 1Sm 16,1b.6-7.10-13a; Ep 5,8-14; Ga 9,1-41

MỤC LỤC

1. Người mù
Các bài suy niệm Lời Chúa - Chúa Nhật IV Mùa Chay A
Source: http://www.orthodox.net
2. Người mù3. Hãy biết mình – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền4. Ngọn đèn đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt5. Thầy là ánh sáng thế gian6. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà.7. Con mắt là cửa sổ của linh hồn8. Sáng mắt sáng lòng – Như Hạ9. Nhận ra lòng Chúa xót thương10. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng11. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng12. Lạy Chúa, xin cho con được thấy!13. Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc14. Đón nhận chân lý – Achille Degeest.15. Suy niệm của André Sève16. Đức tin17. Người mù18. Đức tin19. Chúa Giêsu là ánh sáng20. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà.21. Ánh sáng cho người mù – Lm FX Vũ Phan Long22. Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện



1. Người mù

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.

Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.

Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.

Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.

Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.

Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?

2. Người mù

Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.

Thực vậy, đầu mối câu chuyện chỉ vì Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người mù vào đúng ngày nghỉ lễ. Luật về ngày nghỉ lễ do bọn Biệt phái chủ trương cấm làm những việc Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng Chúa Giêsu đã làm điều cấm ấy, cho nên Ngài chỉ là một kẻ tội lỗi. Mà đã tội lỗi, thì không thể nào là người bởi Thiên Chúa, do đó không thể làm được phép lạ.

Cái lý luận chặt chẽ ấy đã che mắt họ, không cho họ nhận biết điều lạ lùng đang xảy ra. Được đặt trước sự thực, nhưng họ lại tìm cách chối bỏ sự thực ấy: Kẻ được chữa lành không phải là người mù họ thường thấy, nhưng chỉ là một người giống như hắn. Họ đã muốn phủ nhận ngay chính người được chữa lành. Họ hạch hỏi và làm khó dễ cả người cha lẫn người mẹ. Bản thân anh cũng bị tra hỏi, tất cả như muốn anh chối bỏ chính cái ơn huệ, chính cái thực tế diễn ra nơi con người anh.

Thế nhưng cuộc hạch hỏi này lại cho chúng ta thấy người sáng suốt lại chính là anh mù. Còn kẻ mù lại là bọn Biệt phái, vốn tự nhận mình là thông suốt đạo lý và lề luật. Anh mù đã muốn đi từ thực tế không thể chối cãi được, tìm hiểu về con người đã làm phép lạ, để rồi cuối cùng anh không phải chỉ được chữa để nhìn thấy sự vật chung quanh, mà còn được nhận biết ánh sáng của niềm tin, nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng từ trời đến, để thông chia cho mọi người sự sống Thiên Chúa.

Trong khi đó bọn Biệt phái lại muốn đi từ một cách hiểu về đạo giáo của họ để phán xét sự thật. Vì họ đã sai lầm trong cách hiểu và lý luận của mình, nên họ đã bị bưng bít, không thể nhận ra được sự thật, cũng như ý nghĩa của sự thật ấy.

Chúa Giêsu đã đảo ngược các hoàn cảnh. Người mù tin ở Ngài thì được khỏi và được dẫn đến chỗ nhìn nhận mạc khải của Chúa. Trái lại những kẻ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt thì lại không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết. Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Thực vậy, một cản trở không nhỏ trên con đường đến với Chúa và nhận ra tiếng Ngài trong những biến cố của cuộc sống đó là cứ bám víu vào những tiên kiến và tự mãn với những điều chúng ta đã biết, bằng sự rập khuôn và óc câu nệ. Tất cả tạo nên một thứ hàng rào kiên cố ngăn cản chúng ta tiếp cận với sự thật để được cứu rỗi. Những người thủ cựu và cố chấp giống như những kẻ đeo cặp kính màu xám, thì nhìn cái gì cũng hoá ra xám. Họ giống như những anh mù sờ voi, phùng má trợn mắt bảo vệ lập trường của mình, mà chẳng ai nắm được sự thật.

Bọn Biệt phái đã căm thù Chúa Giêsu và cuối cùng đã tìm cách thủ tiêu Ngài chỉ vì không chấp nhận để Ngài phá vỡ cái hàng rào này của họ. Chúng ta cũng sẽ chỉ có ánh sáng của lòng tin khi nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng đem lại cho chúng ta ơn cứu rỗi mà thôi.

3. Hãy biết mình – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
"Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:
-      Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.
-      Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.
-      Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.
-      Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.
-      Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

4. Ngọn đèn đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối. Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.
·        Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.
·        Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.
·        Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.
Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh. Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành. Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình. Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.
Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ
1.    Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?
2.    Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?
3.    Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?
4.    Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

5. Thầy là ánh sáng thế gian

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc. Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc. Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Đức Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của thế giới.

Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go. Lúc đầu, Đức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.

Đức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa. Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành. Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận. Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi.

Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Đức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Giới lãnh đạo Do thái giáo không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài. Họ tự hào mình hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.

Mù không phải là một tội. Cố ý không muốn thấy mới là tội đáng kể. Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.

Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại, một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt. Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần chân lý trọn vẹn.

Gợi Ý Chia Sẻ
·        Chúng ta đều ít nhiều mù lòa về chính mình. Theo ý bạn, làm sao chúng ta có thể ra khỏi sự mù lòa đó?
·        Tự ái, tự hào, tự cao, tự mãn... theo ý bạn, đây có phải là những thái độ khiến chúng ta khó đón nhận những góp ý nghiêm túc của người khác không?

Cầu Nguyện
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do.

6. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà.

Xuyên qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xácmù quáng của tâm hồn, của đầu óc.

Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pharisêu tự cho mình tinh thông.

Trong khi đó, những người Pharisêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay. Họ bị thành kiến che mờ tâm trí nên họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ nên họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Người tặng ban.

Những người mù loà thể xác hầu hết rất hiền hòa. Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu. Họ là những người đáng thương và đáng kính.

Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án khinh chê.

Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:
Mù quáng vì tham lam
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)

Mù quáng vì ghen tị
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn”. Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)

Mùa quáng vì dục tình
Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đavít được lên làm vua. Đavít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ. (Samuen II, chương 11)

Nói tóm lại, lòng người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay. Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.

Có hai điều tai hại do mù quáng phát sinh:
-      Một là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa. Thế là họ cứ bị mù quáng cho đến mãn đời, mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.
-      Hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.

Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.

Nguyện xin Chúa Giêsu soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và cố tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất tai hại nầy.

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.

7. Con mắt là cửa sổ của linh hồn

(Phêrô Trần Minh Đức)
Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù loà, cụt tay, cụt chân! … Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể thể nào hình dung ra được!

Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ lúc mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông! “Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri. Bài Phúc âm cũng phản ảnh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy. Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây? Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù loà gấp ngày lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù. Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta. Qua bí tích Rửa tội Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.

8. Sáng mắt sáng lòng – Như Hạ

Ánh sáng và bóng tối vẫn giao tranh ác liệt. Bóng tối không ngừng gieo rắc tai họa khắp nơi. Nhưng ánh sáng đã thắng lớn khi Đức Giêsu ra tay "để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa" (Ga 9,3) nơi "một người mù từ thuở mới sinh." (Ga 9,1)

Thui ra mới biết béo gầy
Mặt trận chia làm hai phe rõ rệt. Một bên là "môn đệ của ông Môsê" (Ga 9,28). Bên kia là "môn đệ của ông ấy" (Ga 9,28) tức là Đức Giêsu. "Các môn đệ của ông Môsê" lớn tiếng kết án Đức Giêsu "là người tội lỗi." (Ga 9,24) Cả anh mù cũng bị lên án: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu." (Ga 9,34) Tất cả "không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát." (Ga 9,16) Đó là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá con người. Cả một màn đêm bao phủ tinh thần nệ luật. Bóng tối đã làm tê liệt khả năng đối thoại và nhìn nhận sự thật. Đúng như Chúa nói: "đêm đến, không ai có thẻ làm việc được." (Ga 9,4). Không chỉ lên án Đức Giêsu, họ còn "đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô." (Ga 9,22) Anh mù bẩm sinh đã trở thành nạn nhân của lối nhìn khắt khe đó (x. Ga 9,34) Mặc dù biết rõ sẽ bị lên án, anh vẫn can đảm nói lên sự thật: "Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi ; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy." (Ga 9,31) Lập luận đanh thép đó đương nhiên dẫn đến kết luận: Đức Giêsu là "người bởi Thiên Chúa mà đến." (Ga 9,33) Ý Thiên Chúa là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá và phân hạng con người. Cuối cùng chiến thắng sẽ thuộc về ánh sáng. Quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đã đưa anh mù vào vùng ánh sáng. Phép lạ lớn lao đó không thể không tác động đến toàn thể con người và cuộc đời anh. Khi còn chìm ngập trong đêm tối, anh như mất tất cả. Sau khi "đến hồ Silôac mà rửa", anh đã "nhìn thấy được." (Ga 9,6-7) Ánh sáng đã thay đổi toàn diện con người anh. Anh rất bén nhậy trước nguồn ánh sáng đang ùa tràn vào con mắt và tâm hồn. Anh không thể không nói lên sự thật. Trước mặt những người Pharisêu anh dõng dạc làm chứng. Sau khi đã được mạc khải rõ về Con Người, anh còn tuyên xưng: "'Thưa Ngài, tôi tin.' Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người," (Ga 9,38) với tất cả niềm tri ân cảm tạ hồng ân giải thoát anh khỏi vùng tối tăm. "Người mù đã được sáng mắt, giờ đây độ sáng tinh thần đang tăng lên nhờ nhận ra Đức Giêsu." (Faley 1994,258) Anh đã sáng mắt sáng lòng.

Người mù bẩm sinh đã đón nhận được ánh sáng và nguồn ân sủng đó, nên đã thành một chứng nhân phi thường cho Đức Giêsu trước quyền bính. Tại sao anh có một sức mạnh lớn lao đó ? Còn ai cảm nghiệm được bề dầy của đêm tối bằng người mù bẩm sinh ? Phá sập bức tường tăm tối đó, Đức Giêsu đã chinh phục được trọn vẹn tâm hồn anh mù từ bẩm sinh. Mặc dù không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu (x. Ga 9,12), nhưng anh mù vẫn mạnh mẽ tuyên xưng "Người là một vị ngôn sứ" (Ga 9,17) và "tin vào Con Người," (Ga 9,35) Đấng từng hứa: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (Ga 12,32,34). Phép lạ đã trở thành dấu chỉ rõ nét nhất về nguồn ân sủng đó. "Các môn đệ của ông Môsê" có dư phương tiện để tìm hiểu sự thật. Thế nhưng, dù nắm đầy đủ bằng chứng, họ vẫn không nhích được một bước. Không hi vọng có một chút thay đổi nào nơi những não trạng duy luật đó. Họ mất hết bén nhậy trước những thực tại tươi rói của Tin Mừng. Những đầu óc chai cứng đó không thể mở ra đón nhận bất cứ chân lý mới mẻ nào nữa. Đó là những người chỉ đọc một sách. Trái lại, người mù bẩm sinh chưa hề đọc cuốn sách nào lại dễ mở lòng đón nhận chân lý là Đức Giêsu. Trước luận điệu những người Pharisêu khăng khăng buộc tội Đức Giêsu, anh cương quyết bênh vực: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được !" (Ga 9,25) Nói thế có khác gì thánh Phaolô, đấng từng quả quyết: "Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2,2) Một chứng từ quá đủ để cho anh tìm ra sự thật giải thoát. Trái lại, vì không tìm ra sự thật đó, nên các người Pharisêu vẫn cứ luẩn quẩn tìm cách kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Càng tìm cách củng cố lập luận, càng bị sa lầy. Sau bốn lần hội kiến với các nhân chứng, họ vẫn không tìm ra sự thật. Đúng hơn, họ đã cố tình bẻ cong và cô lập sự thật. Không ai điếc bằng người không muốn nghe. Họ bắt buộc phải nghe một sự thật từ miệng Đức Giêsu: 'Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù.'"( Ga 9,39) Bởi đấy, nguy cơ lớn nhất đã đến, khi Đức Giêsu phán quyết: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn đó." (Ga 9,41) Cuối cùng mới rõ trắng đen.

Ánh sáng trần gian
Sau khi bị lên án như thế, chắc chắn người Pharisêu vẫn chưa sáng mắt sáng lòng để nhận ra Đức Giêsu "là ánh sáng thế gian." (Ga 9,5) Họ đồng lõa với bóng tối. Ngày nay, bóng tối đó vẫn phủ ngập trân gian và lăm le triệt hạ ánh sáng. Thế nhưng, "bóng tối đã không diệt được ánh sáng." (Ga 1,5) Chẳng hạn, bóng tối tràn ngập xã hội Ấn độ khi một nhóm Ấn độ giáo cực đoan tấn công các tu sĩ Công giáo và thí điểm truyền giáo tại Sanjeli, vào ngày 2/3/2002 vừa qua (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002). Giáo Hội vẫn không tìm cách trả thù. Nhưng một đàng các người Kitô hữu Ấn độ kêu gọi những người thiện chí đoàn kết để cô lập nhóm quá khích cuồng tín và tái lập hòa bình. Đàng khác, Giáo Hội vẫn tin tưởng rằng "việc chung sống nhân danh tôn giáo là con đường dẫn tới hòa bình, chứ không phải là dịp tạo ra chiến tranh. Thập điều Assisi hiện nay gây ấn tượng mạnh vì hòa bình trở thành một cam kết chung, chứ không phải chỉ là lời kêu gọi vượt qua những đối đầu kiểu chiến tranh." (Riccardi: ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Hơn lúc nào, nhân loại cần đến "ánh sáng trần gian" để nhìn ra sự thật và chung sống hòa bình. ĐGH Gioan Phaolô II quả quyết Giáo Hội Công giáo "sẽ tiếp tục cam kết thập điều Assisi chân chính, sự tha thứ cho nhau và đồng tâm nhất trí với nhau sẽ hướng dẫn nhịp sống nhân loại trong đệ tam thiên niên kỷ này." (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Người còn cho biết "tinh thần và sự cam kết ở Assisi sẽ hướng dẫn mọi người thiện chí đi tìm chân lý, công lý, tự do, tình yêu để mỗi người có thể hưởng những quyền lợi bất khả nhượng và mỗi quốc gia được hòa bình." (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Điều 3 trong thập điều Assisi nói rõ: "Chúng tôi cam kết cổ võ một nền văn hóa đối thoại để sự hiểu biết và tin tưởng có thể phát triển giữa cá nhân và các dân tộc như những điều kiện để đạt đến một nền hòa bình đích thực." (CWNews 4/0/2002) Quả thực, khi con người chấp nhận đối thoại, vấn đề nào cũng có thể giải quyết được. Tôn trọng những khác biệt của nhau là điều kiện cần cho cuộc chung sống. Bởi thế, điều 5 trong thập điều Assisi quả quyết: "Chúng tôi cam kết thành tâm và kiên nhẫn dấn thân vào cuộc đối thoại, bất chấp những khác biệt, chúng tôi nhận thức rằng đối diện với những khác biệt đó có thể là một cơ hội lớn để hiểu biết nhau hơn." (CWNews 4/0/2002) Nhưng nếu không có "ánh sáng trần gian", chúng ta không thể thấy những nét kỳ diệu trong các tôn giáo và văn hóa. Bởi thế, Đức Giêsu mới bảo đảm cho muôn dân một cuộc sống phong phú và một nền hòa bình lâu dài.

9. Nhận ra lòng Chúa xót thương

(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đứng trước thân phận đáng thương của một người bị mù lòa từ thuở mới lọt lòng mẹ, hay trước bất cứ một số kiếp hẩm hưu nào khác, người ta dễ dàng đặt câu hỏi: ‘tại sao?’. Tìm hiểu nguyên nhân sự việc là một đòi hỏi hợp lý của bất cứ đầu óc suy luận nào; và trong công việc đó, định luật ‘nhân - quả’ thường được áp dụng cách triệt để. “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Càng suy nghĩ theo lối thông thường đó thì câu trả lời của Đức Giêsu càng gây cho chúng ta kinh ngạc đến sửng sốt: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó quả là một lối nhìn, một suy luận thật khác lạ, đi ra ngoài (đúng hơn: vượt lên trên) qui luật luận lý nhân quả, một điều mà lý trí tự nhiên khó ai chấp nhận nổi. Tuy nhiên chính lối nhìn và hiểu biết này mới là triết thuyết của Tin Mừng, vì nó chứa đựng bên trong một sức mạnh giải phóng đến kỳ lạ. Phải chăng đây chính là lô-gích mới mẻ đã được giới thiệu cho nhân loại? Không may, mỗi khi có một tia sáng mới lóe lên thì ánh sáng chói lọi của nó thoạt đầu dễ làm cho con mắt chúng ta bị xốn xang. Ánh sáng Tin Mừng cũng là như thế, thoạt nghe nó có vẻ điên rồ và phi lý siết bao!

Theo khẳng định của Đức Giêsu thì ‘nhận ra công trình của Thiên Chúa’ mới chính là nguyên nhân (hay mục đích) của biết bao sự kiện tang thương, tiêu cực đang xảy ra trên trần gian (động đất, sóng thần tàn phá Nhật Bản hay siêu bão hayan chỉ là nhưng ví dụ điển hình). Câu khảng định trên mới nghe ta tưởng như hoàn toàn phi lý, không thể chấp nhận được. Ta vẫn quen chia sẻ lối suy nghĩ phổ biến: ‘công trình của Thiên Chúa’ phải là điều gì hùng vĩ, hoàn hảo và tốt lành lắm; còn những bất toàn, tang thương không thể là công trình của Ngài. Nguyên nhân của các sự kiện đó nằm ở nơi khác… tội lỗi chẳng hạn; cùng lắm Thiên Chúa cũng chỉ ‘cho phép’ xảy ra vì một lý do nào đó, để thử thách, răn đe... Cách duy nhất để giải thích câu nói của Đức Giêsu là hiểu: ‘công trình của Thiên Chúa’ chính là lòng nhân ái xót thương mà Thiên Chúa đang ra công thực mạc khải và thực hiện, nhất là qua cuộc sống và cái chết thập giá của Giêsu Na-da-rét. Trong trường hợp cụ thể của người mù từ lúc mới sinh, thì chính nhờ việc anh được chữa lành mà anh, và nhiều người khác nữa, nhận biết Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa nhân lành. “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Anh mù đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mình qua con người được sai đến là Đức Giêsu; và một khi đã nhận biết “chính đấng đang nói với anh đây” là vị đó, anh tin vào Người: “Thưa Ngài, tôi tin” và bái lạy Người. Đối với anh, vấn nạn tại sao mình bị mù, cũng như tại sao mình được chữa khỏi có lẽ không quan trọng lắm, điều quan trọng đối với anh là biết rằng mình được Thiên Chúa xót thương. Anh tin vào tình thương đó qua việc ông Giêsu đã chữa anh lành, cho dầu lúc đầu anh chưa biết Người là ai. Niềm tin này đã giúp anh vượt qua lý luận ‘nhân – quả’ để nhìn ra ‘công trình của Thiên Chúa’ là lòng nhân ái Ngài. Trong khi đó những người Pha-ri-sêu thông thái lại đã không vượt qua nổi cái lô-gich hẹp hòi: “mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Họ luẩn quẩn trong lối suy nghĩ nhân quả đó nên không thể tìm ra giải đáp thỏa đáng, và như thế sẽ tiếp tục mãi tình trạng đui mù là không thể nhận ra ‘công trình của lòng Chúa xót thương’. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”
Như vậy niềm tin Kitô hữu phải giúp tôi vượt lên trên lối suy nghĩ ‘nhân-quả’ bình thường, để nhận ra công trình yêu thương Thiên Chúa từ nhân đang thực hiện qua mọi biến cố  buồn vui đang xảy đến cho tôi và cho nhân loại. Nhìn lên Đức Giêsu chết treo trên thập giá, tôi không được luẩn quẩn mãi trong cái suy luận phức tạp ‘tại sao?’, nhưng với con mắt đức tin phải nhận ra ngay ‘công trình yêu thương’ Thiên Chúa đang liên tục thực hiện. Cũng với niềm tin này, tôi nhìn vào mọi biến cố hàng ngày đang xảy ra cho chính tôi và quanh tôi, nhất là khi chúng tiêu cực và vô lý tới độ không thể nào giải thích nổi, để nhận ra bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện diện đầy nhân ái của Thiên Chúa là Cha.

Là Kitô hữu như Phaolô, giữa muôn sóng gió và đổ vỡ của cuộc sống, tôi sẽ luôn sống trong hy vọng và tín thác. Hãy “không để bất cứ điều gì làm bạn xao xuyến!” (‘nada te turbe’ Tê-rê-xa Avila) vì “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,39).

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn để được nhìn thấy trong mọi biến cố cuộc đời, nhất là khi đau khổ và tội lỗi ngập tràn,‘công trình cứu độ của Thiên Chúa đang được tỏ hiện’ nơi con. Xin cho con cặp mắt sáng như thánh Âu-tinh, để nhận ra ngay cả các tội mình đã từng phạm trong quá khứ đều là những ‘tội hồng phúc!’, vì qua đó, con càng có thể vững vàng hơn đặt trọn niềm tin vào Giêsu Thập Giá, biểu hiện trọn vẹn nhất của tình yêu nhân ái Chúa Cha không bao giờ xua đuổi ruồng bỏ con. Amen

10. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng

BÀI 1
Mù là một chứng bệnh gây nhiều đau khổ thiệt thòi, buồn tủi và nguy hiểm cho bệnh nhân. Người mù suốt đời, ngày cũng như đêm ở trong tối tăm, không xem thấy ánh sáng, không thể nhìn ngắm cảnh đẹp thiên nhiên, màu sắc của vạn vật cũng như nét mặt xinh tươi của người thân yêu. Đó là những thiệt thòi rất lớn làm giảm thiểu sinh lực và hạnh phúc của cuộc đời. Hơn nữa, người mù còn mặc cảm, coi mình là vô dụng, ăn bám và phải cậy nhờ người khác trong mọi sự, đi phải có người dắt, ăn phải có người đem đến tận tay, có khi liều mình gặp nguy hiểm sa lửa, sa nước, va chạm, vấp ngã thiệt đến tính mạng. Mù là chứng bệnh gây đau khổ thiệt thòi cho bệnh nhân như vậy. Đàng khác, mù cũng là chứng bệnh nan y bất trị, ngày nay khoa học đã tiến bộ rất nhiều, người ta chữa được nhiều bệnh trước kia không thể điều trị, dù vậy, người ta chưa tìm được phương thuốc nào làm cho người mù sáng mắt.

Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại rằng: “Khi ấy, Chúa Giêsu gặp một người mù bẩm sinh đang ngồi ăn xin, Chúa nhổ xuống đất, lấy nước miếng(nước dãi) trộn thành bùn xoa lên mát người đó, rồi bảo đi tới hồ Si-lô-ê mà rửa. Anh đi ra và rửa, đoạn trở lại thì trông thấy mọi sự rõ ràng”. Đây là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Theo công lệ tự nhiên, bùn chỉ có thể làm cho người ta đau mắt, nhưng trường hợp này bùn xoa vào mắt lại làm cho người mù được sáng. Như vậy, không phải do tính chất của nó mà do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.
Ta có thể nói, đây là hình ảnh các nhiệm tích mà Chúa sẽ lập, trong đó Chúa dùng những chất liệu bề ngoài để chữa tật bệnh linh hồn, thí dụ: nước trong phép Rửa tội, dầu thánh trong phép Xức dầu bệnh nhân. Sau nữa, phép lạ chữa người mù trong bài Phúc âm hôm nay cũng tượng trưng  một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi mù phần linh hồn, biết mở mắt trí khôn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, nhìn nhân Đức Ki ô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người. Vì thế, sau khi người mù bẩm sinh, được Chúa cho sáng mắt, anh đã can đảm làm chứng về Chúa và bị người Do thái đuổi ra khỏi Đền thờ, Chúa đã đến gặp anh và hỏi: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không ?” – Anh nói : “Thưa Ngài, Con Thiên Chúa là ai để tôi tin”. – Chúa trả lời: “Ngươi đang nhìn thấy Ngài và Ngài đang nói với ngươi”.- Anh liền thưa:  “Lạy Thày, con tin và anh sấp mình thờ lậy Chúa”. Từ đây, anh trở nên một tìn hữu nhiệt thành và một tông dồ can đảm. Đối với anh được khỏi mù phần xác là một sung sướng lớn lao, nhưng được khỏi mù phần linh hồn là một hạnh phúc lớn lao hơn nhiều, vì bệnh mù phần xác chỉ là một bất hạnh tương đối và tạm thời ở đời này, còn bệnh mù phần linh hồn làm mất hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, không thể lấy gì bù lại được. Do đó, những năm ở trần gian, Chúa gặp rất nhiều người mù, nhưng chỉ một số ít được Chúa chữa khỏi, khi về trời Chúa cũng không để lại phương thuốc gì để chữa người mù sáng mắt. Nhưng phần linh hồn, Chúa còn dùng những phương thế hữu hình để soi sáng cho người ta biết Chúa và những chân lý trong Đạo. Những phương thế hữu hình đó thể hiện nhiều cách khác nhau: có khi là một lời khuyên với dòng nước mắt của người mẹ gia đình như bà thánh Mônica đã làm cho thánh Auguttinô là con mình trở lại Đạo chính; có khi là một hiện tượng gây xúc động xẩy đến như đám tang và thi hài tàn rữa của bà hoàng xinh đẹp nhất nước đã làm cho thánh Phanxicô bỏ địa vị chức quyền để tận hiến cuộc đời cho Chúa; có khi là một thất bại trong ước mơ, như việc thua kiện bất ngờ đã làm thánh Anphongsô bỏ đường danh vọng để dâng mình phục vụ Giáo Hội; có khi là gương sáng của người chung quanh như cử chỉ tôn sùng thành kính của người Ả rập đã làm cho cha Sac-lơ Phu-cô lấy lại được Đức tin đã mất từ thời niên thiếu…Tất cả những sự kiện hữu hình trên đây, ta có thể nói là như chất liệu Chúa đã dùng để làm cho người ta sáng mắt linh hồn, nhìn nhân được Chúa và trở lại với Ngài, cũng như Chúa đã dùng chất bùn làm cho anh mù bẩm sinh được sáng mắt rồi sau đó được sáng trí khôn để tuyên xưng Chúa và tôn thờ Ngài.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: ánh sáng làm cho người có mắt lành mạnh được dễ chịu và xem thấy sự vật, nhưng cũng làm cho người đau mắt khó chịu và chói lòa. Đức Giêsu là ánh sáng soi trần gian, những ai có thiện chí và tâm hồn ngay lành mới nhận được Ngài, còn những ai thiếu thiện chí và có thành kiến sẽ không nhìn nhận Chúa mà còn phản đối Ngài. Bài Phúc âm hôm nay chứng minh điều đó, đứng trước phép lạ hiển nhiên Chúa làm, người mù đã nhận Chúa và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, song những người biệt phái thì tìm mọi cách để chối bỏ phép lạ của Chúa và còn trục xuất những ai tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô. Trước sự ngoan cố của họ, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính vì để xét xử mà Ta đã xuống trần gian để những ai không xem thấy thì được xem thấy và những kẻ xem thấy sẽ hóa nên mù”.

Để kết luận, chúng ta hãy xin Chúa cho ta một thiện chí và một tấm lòng ngay lành để chúng ta đón nhận được Chúa khi Ngài dùng các dấu chỉ bề ngoài mà đến gặp ta và tỏ cho ta nhận biết Người. Amen

11. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng

BÀI 2
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một phép lạ Đức Giêsu làm cho một người mù bẩm sinh được sáng mắt. Trước phép lạ hiển nhiên đó, ta thấy có bốn thái độ của những hạn người khác nhau:
-      Trước hết là thái độ bàng quan của dân chúng. Họ đứng ngoài cuộc mà nhìn, không tham gia, coi như không liên hệ gì đến mình, do đó, họ phát biểu những ý kiến vu vơ trái ngược nhau. Kẻ thì đặt vấn đề “Phải chăng đây anh mù vẫn ngồi ăn xin ?”, người thì nói: “Chính là hắn ta”; kẻ khác lại bảo: “Không phải, nhưng là một tên khác giống như hắn”.
-      Sau là thái độ hèn nhát, trốn trách nhiệm của cha mẹ anh mù, ông bà ta biết rõ anh mù là con mình, và anh ta đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, nhưng ông bà không dám nói lên sự thật, không dám làm chứng cho Chúa, ông bà sợ liên can, bị phiền hà vì người Do thái đã bàn tính trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai công khai nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Bởi đó, ông bà đẩy trách nhiệm cho con mình và nói: “Chúng tôi nhận nó là con chúng tôi và bị mù từ mới sinh… nhưng ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự trả lời các ông”.
-      Thứ ba là thía độ ngoan cố và ác cảm của người biệt phái, vì các cảm với Chúa Giêsu, họ không muốn nhận Ngài là Đức Kitô. Lại còn ngăn cấm những ai nhìn nhận và làm chứng cho Ngài. Vì ngoan cố họ nhắm mắt trước một sự thật quá hiển nhiên và tìm mọi cách cho người khác phủ nhận sự thật đó. Nhưng không may cho họ, những lập luận ngụy biện của họ không thuyết phục được anh mù mà còn bị anh phỉ báng những lời lẽ đanh thép khiến họ phát khùng đến nỗi dùng quyền lực đàn áp công lý truc xuất anh ra khỏi hội đường. Thái độ ác cảm và ngoan cố của họ bị Chúa lên án khi Ngài tuyên bố: “Ta đến trần gian để cho những kẻ không xem thấy được xem thấy, còn những kẻ xem thấy trở nên mù”.
-      Sau cùng, thái độ của anh mù là phục thiện, thẳng thắn và kiên cường. Người phục thiện luôn sẵn sàng từ bỏ quan điểm riêng mình để lằng nghe lẽ phải, nhìn nhận sự thật. Người luôn sẵn sàng bệnh vực lẽ phải, làm chứng cho sự thật theo tiếng lương tâm. Không quanh co dấu diếm, không chiều đời cho yên phận. Thánh Phaolô một lần đã phản đối thánh Phêrô vì không thẳng thắn. Đó là, trước khi những người Do thái đến thì thánh Phêrô ăn uông với người dân ngoại tân tòng, nhưng khi người Do thái đến thì Phêrô lẩn tránh vì sợ họ phê bình, Trước thái độ mập mờ không hợp tinh thần Phúc âm như vậy, ông Phaolô đã nói với ông Phêrô: “Ông là người Do thái mà muốn sống theo kiểu dân ngoại, có lẽ gì ông bắt người dân ngoại sống theo kiểu Do thái ?”(Gal 2, 12-13)

Trở lại người mù trong Phúc âm, chúng ta thấy anh ta rất phục thiện và thẳng thắn. Anh dám nhìn thẳng vào sự thật, mặc dù người khác cố tình phủ nhận. Khi người ta hỏi làm thế nào mà anh được sáng mắt, anh trả lời ngay: Ông mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi, bảo tôi đến hồ Si-lô-ê mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi trông thấy. Vì không che dấu được phép lạ Chúa Giêsu đã làm, những người Do thái đổi chiến lược vào uy tín của Ngài. Họ nói với anh mù: “Chúng tôi biết Thiên Chúa đã phán với ông Maisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến. Anh mù thẳng thắn trả lời cái đó mới lạ chứ ! Ông ấy đã mở mắt cho tôi mà các ngài không biết bởi đâu mà đến…” “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt cho người mù bẩm sinh, nếu người ấy không bởi Thiên Chúa. Qua cuộc rtanh luận đó, ta thấy anh mù rất phục thiện và thẳng thắn, hơn nữa anh còn tỏ ra kiên cường nghĩa là trung thành giữ vững lập trường không ngại khó khăn, không sợ đe dọa, sẵn sàng đón nhận hậu quả là bị trục xuất ra khỏi hội đường và bị coi như người ngoại giáo.

Ngày nay, Chúa đã về trời, Đạo Chúa đã được rao giảng khắp nơi và từ hai nghìn năm nay, thái độ của nhân loại đối với Đạo Chúa cũng như những người đồng thời với Chúa.

Trước hết, là những người bàng quan, không xét đến vấn đề tôn giáo, vì họ còn bận tâm làm những việc khác mà họ cho là thiết thực hơn.

Sau là những người tin Đạo, nhưng chỉ giữ Đạo tại tâm, không dám tuyên xưng Đạo ra trước mặt thiên hạ, không dám lên tiếng bệnh vực sự Đạo khi cần thiết, giống như bố mẹ anh mù trong bài Phúc âm hôm nay.

Thứ ba là những người ác cảm với Đạo và bách hại những ai tin Đạo, như những người biệt phái ác cảm với Chúa, cố tình phủ nhận phép lạ Chúa làm, và trục xuất những ai tuyên xưng Chúa là Đức Kitô.

Sau cùng là những người có tâm hồn trong sạch, ý chí ngay lành, đã tin theo Chúa và sẵn sàng chịu mọi khó khăn để trung thành với Chúa như các Thánh Tử Đạo mà lịch sử Giáo Hội đã ghi lại những tấm gương anh hùng.

Xưa, khi Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền thờ, có cụ già Simêon ẵm Chúa trên tay, tuyên xưng Chúa là ánh sáng soi các dân tộc, cụ cũng nói tiên tri về tương lai của Chúa và thái độ người đời đối với Ngài. Cụ nói: “Trẻ này sẽ nên duyên cớ cho nhiều người vấp phạm và nhiều người chỗi dậy”(Lc 2, 34). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm. Cũng một cái đèn sáng nhưng sinh hiệu quả khác nhau tùy thái độ mỗi người trước cái đèn đó, ai quay mặt về hướng đèn sẽ nhìn thấy ánh sáng và biết đường đi, ai quay lưng lại, thì bản thân họ sẽ tạo nên bóng tối, làm họ vấp ngã.

Trong Phúc âm, Chúa cũng xưng mình là ánh sáng thế gian, ai theo Ngài sẽ không bước đi trong tối tăm.

Nguyện xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn trong sạch, một ý chí ngay lành, một niềm tin vững mạnh để bước theo Chúa cho đến cùng. Chúa là đường, là sự thật, là sự sống,  bước theo Chúa chúng ta sẽ không lầm lạc, ở trung thành với Chúa ta sẽ được sống đời đời.

12. Lạy Chúa, xin cho con được thấy!

(Suy niệm của Lm. Phaolô Trương Hoàng Phong)
Ngày xưa, mỗi khi ra khỏi nhà vào ban đêm, người Nhật Bản thường có thói quen tay cầm theo một chiếc lồng đèn. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm  một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không cầm chiếc lồng đèn trên tay nên anh chủ nhà mới lấy chiếc lồng đèn của mình để đưa cho anh mù.

Nhưng anh mù từ chối và nói:
-      Đối với một người mù như tôi thì ngày cũng như đêm, bóng tối cũng như ánh sáng. Cho nên chiếc lồng đèn này chẳng có ý nghĩa gì hết. Cầm nó theo cũng vô ích!
Người bạn mới giải thích:
-      Tôi biết anh không cần chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm nó trên tay thì người khác sẽ không thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!
Anh mù nghe anh bạn lý luận có lý nên đành nhận lấy chiếc lồng đèn và ra về. Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào, đụng vào. Anh ta tức tối và la to lên:
-      Bộ mày đui hả? Không thấy tao cầm chiếc lồng đèn trên tay sao?
Người kia trả lời như sau:
-      Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn đèn bên trong nó đã tắt rồi. Cho nên tôi không thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!

Câu chuyện trên giúp cho chúng ta hiểu được: đi trong bóng đêm ai cũng cần có ánh sáng. Trong đêm tối, tưởng chừng như không cần thiết nhưng người mù cũng cần cầm đèn sáng trên tay. Anh cầm đèn không phải để cho mình nhưng để người khác thấy anh mà tránh hoặc có thể họ sẽ giúp đỡ anh. Trong đêm tối, người sáng mắt cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp anh thấy đường đi, thấy người khác và biết được những chướng ngại vật trên đường. Ánh sáng giúp anh đi đúng đường, đúng hướng, không bị lầm đường lạc lối. Ai cũng cần có ánh sáng tự nhiên để nhận biết mình và thấy tha nhân.

Bài Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay, Thánh Gioan cũng kể cho chúng ta nghe câu chuyện về anh mù. Anh này bị mù từ nhỏ, bị mù bẩm sinh. Vì mù nên anh không biết khuôn mặt của mình, không biết cha mẹ mình là ai và những người thân của mình như thế nào. Anh cũng không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và thiên nhiên. Cuộc sống của anh toàn là một màu đen. Ngày cũng như đêm. Đêm cũng như ngày. Ai cũng như nhau. Anh phải sống trong một tâm trạng buồn thảm và thất vọng hoàn toàn. Nhiều người cho rằng vì có tội nên anh mới bị trừng phạt như thế. Nhưng thật may, Chúa Giêsu đã thấy anh và chữa anh sáng mắt. Chúa không chỉ chữa cho anh được sáng đôi mắt thể xác, giúp anh thấy mình, thấy tha nhân, thấy cảnh vật xung quanh; nhưng quan trọng hơn, Ngài còn chữa lành đôi mắt đức tin của anh nữa. Chúa đã hỏi anh: “Anh có tin vào con người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38). Chúa cho anh được thấy Ngài, được gặp Ngài, được tin Ngài và thờ phượng Ngài.

Chúng ta là những người rất diễm phúc. Diễm phúc vì được Chúa ban cho đôi mắt lành lặn, một đôi mắt sáng. Ta hãy cám ơn Chúa về ân huệ đó. Tuy nhiên, đôi mắt thể xác của chúng ta sáng nhưng có thể đôi mắt tinh thần, đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin của ta bị mù loà; như Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Đúng là có những người nhìn thấy, có những người sáng mắt nhưng tâm hồn của họ lại mù loà. Ta thường thấy có 3 loại mù loà tinh thần như sau:

1. Mù loà về bản thân
Mù vì không biết rõ mình; không biết những tài năng, những khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho. Mù vì không thấy rõ những giới hạn, những khuyết điểm, những lỗi lầm, những sai trái của bản thân. Ta thường sáng chuyện của người nhưng lại mù tối, mù mờ chuyện của mình. Có khi ta cũng giống như những anh mù xem voi. Ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ của vấn đề mà vội vàng kết luận cho đó là đúng, là sự thật, là chân lý. Ta thường có những phán đoán sai lầm, chủ quan. Tệ hơn nữa là lương tâm của ta bị mù tối; không phân biệt được điều tốt và điều xấu; mất ý thức đối với tội.

2. Mù loà về tha nhân
Ta không muốn thấy những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để mà học hỏi, khen ngợi; nhưng ngược lại, ta chỉ thích thấy những điểm tiêu cực, điểm xấu, khuyết điểm để chỉ trích, chê bai, coi thường và có khi hạ bệ người khác. Ta cũng thấy nhưng thấy một cách phiến diện, tiêu cực; ta cũng có thể bị mù về lòng nhân: thấy người khác đau khổ mà không chạnh lòng thương, biết người ta nghèo mà không ra tay giúp đỡ, ta làm ngơ vì không dám dấn thân nhập cuộc.
3. Mù loà về Thiên Chúa
Ta không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không thấy Thiên Chúa hiện diện trong Giáo Hội, nơi tha nhân, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Ta không thấy Thiên Chúa đang đồng hành với mình; không cảm nghiệm được những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm; và không tin có Thiên Chúa đang hiện hữu trong thế giới này.

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, xin Chúa hãy mở đôi mắt tinh thần của con để con thấy được những bất toàn, những giới hạn, những khuyết điểm của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn của con để con thấy được những điều hay, những điều tốt nơi anh chị em con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt đức tin của con để con thấy Chúa, nhận ra Chúa và cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho con. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Amen.

13. Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc

Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con." Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết thúc: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con."

Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.
ÙÙÙ
Người đàn ông trong câu chuyện trên đây tuy bị mù về đôi mắt thể xác, nhưng lại ngời sáng về đôi mắt đức tin. Đôi mắt đức tin của ông bừng sáng khi ông bằng lòng hy sinh đôi mắt tinh anh của thể xác để đổi lấy đôi mắt trong vắt của linh hồn.

Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng thánh Gioan 9:1-41 quả là một tấm gương sáng chói cho mỗi người tín hữu: Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt Đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh sáng của trần gian.

Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được đức tin ngời sáng. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của Đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisêu sáng mắt mà như mù lòa. Con đường đi tới Đức tin của anh là con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Hành trình Đức tin của anh cứ bị khựng lại bởi những hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo.

Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Đức tin ngời sáng, như đôi mắt của anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabát, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực cho Đức Giêsu và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: "Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 9,31-33).

Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do thái giáo, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được? Hoá ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hoá ra mù.

Họ mù quáng vì luôn cố chấp trong ý nghĩ lỗi thời, họ cho mình quyền nắm giữ đạo đức truyền thống, nên những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc, phải loại trừ. Họ mù quáng vì họ tự cao tự đại, luôn cho mình là người tinh thông luật đạo, lại thánh thiện đức độ hơn người, nên họ không bao giờ nhận mình sai sót lỗi lầm. Họ mù quáng vì lòng họ chai đá, không cảm thông được nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của người được sáng mắt. Và nhất là họ mù vì họ đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt, chính là Đức Giêsu Kitô: "Đấng là ánh sáng thế gian".

Nguy hiểm biết bao khi luôn cho mình đã nhìn rõ. Trong bao cái chai lì của đời sống làm sao chúng ta nhìn thấy hết mọi vấn đề. Cái nhìn vừa mênh mông vừa thiếu sót làm sao! Cái nhìn sai nào cũng gây bất công và đau khổ cho người khác. Tiêu chuẩn để khỏi phải hối hận vì gây đau khổ cho người khác là hãy nhìn bằng đôi mắt xót thương.

Mù loà thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù loà tâm hồn còn là một tai hoạ khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù loà khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Chính Người đã tuyên bố: "Sự thật sẽ giải thoát chúng con" (Ga 8,32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Ánh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Người.
ÙÙÙ
Lạy Chúa, chỉ những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình. Xin đừng để chúng con ở lì trong bóng tối tội lỗi của mình, nhưng xin dẫn dắt chúng con bước đi trong ánh sáng của Chúa. Amen.

14. Đón nhận chân lý Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Câu chuyện hôm nay đặt ra trước mầu nhiệm khôn lường của sự từ khước ánh sáng. Phái Pharisêu không tự truy vấn mình, kiểm thảo mình, lại từ chối sự thật hiển nhiên bằng cách khai trừ người mù được chữa lành. Để hiểu rõ hai chi tiết trong bài, nên lưu ý điều này là, theo quan niệm thông thường, nước miếng có sức chữa lành. Ta hiểu tại sao Chúa Giêsu đã làm bùn xức vào mắt người mù. Đức Giêsu thường ghép hành động thần thiêng của Người vào trong các thực tại tự nhiên khiêm tốn nhất. Đàng khác, sở dĩ người Pharisêu tố cáo người mù đã sinh ra trong tội, là vì theo đạo lý họ, bệnh tật là hình phạt về một lỗi phạm –ở đây là lỗi phạm của cha mẹ- Đó là điều Chúa phản đối. Câu chuyện về người mù đặt ra một cách gay cấn vấn đề đón nhận chân lý như thấy hiện ra khắp nơi trong các bản văn của thánh Gioan. Ở đây ta đứng lên trên cả vấn đề phép lạ và hiệu năng của phép lạ xét như dấu hiệu; ta đứng trước một sự mù quáng tinh thần không chịu nhìn xem chính cái dấu hiệu nữa. Lòng thù ghét có sức tạo nên một trạng thái tâm lý làm cho con người nên đui mù. Khi tâm hồn bị đóng kín lại, nó không còn thấy điều hiển nhiên nữa. Cả đến sự thật bên ngoài khách quan về việc người mù đã lành bệnh, ai ai cũng biết hết, thế mà người Pharisêu vẫn từ chối, vẫn bài bác. Có lần Chúa Giêsu đã phải nói với người Do Thái rằng dù một phép lạ xảy ra trên trời (gây chấn động mạnh mẽ) cũng khó cho họ nhìn nhận.

Thái độ từ khước ánh sáng có nhiều đặc điểm. Sau đây là hai đặc điểm:
1. Người ta lấy một khía cạnh của sự thật, cô lập nó, dựng nó lên thành tuyệt đối, mà quên rằng nó tuỳ thuộc vào những yếu tố khác quan hệ hơn của sự thật ấy. Kiêng việc xác ngày lễ nghỉ là một điều luật. Giữ luật ấy là việc tốt. Nhưng nó lệ thuộc vào luật bác ái, luật này cao trọng hơn. Vậy mà người Do Thái xem nó là một điều tuyệt đối. Nhân danh ngày “lễ nghỉ”, họ từ khước lòng bác ái. Lối suy nghĩ này là đầu giây mối nhợ của bao nhiêu vụ tranh luận, cãi cọ mà họ kéo Chúa Giêsu vào.

Trong Giáo Hội hiện nay cũng có nhiều hiện tượng thuộc loại này. Ví dụ: người ta tách riêng một ít trong Phúc Âm, coi đó là tuyệt đối, rồi sử dụng để biện minh cho bạo lực nhân danh Tin Mừng.

2. Người ta ngồi vào trong một hệ thống ý tưởng mà họ quyết đoán là đúng. Họ làm như thế có thể là vì trí không hướng nhiều về dường ấy, vì một lợi ích nào, vì tình liên đới với phe nhóm v.v… Nét tiêu biểu là ở chỗ họ coi mình là người biết, người sáng suốt, người hiểu rõ, Chúa Giêsu trách bọn Pharisêu vì họ nói: “Chúng tôi thấy”. Trước một não trạng như thế, khi chân lý xuất hiện một cách khác thường, nó sẽ không được nhìn nhận. Mà trong đời sống con người, chân lý của Chúa thường mặc những hình thức bất ngờ và gây khó chịu cho thói quen của ta. Chân lý ấy làm nổ tung mọi hệ thống tư tưởng và mọi chương trình hành động. Người Kitô hữu khi suy nghĩ cũng như lúc hành động phải chăm chú nhìn những dấu hiệu của Chúa.

15. Suy niệm của André Sève

XIN CHO CON NHỮNG CON MẮT ĐỂ ĐƯỢC THẤY NGÀI
Đây là bài tường thuật một phép lạ hay sao? Không phải, Gioan nói lên điều này trong hai chi tiết trong câu 41. Ngài thuật lại bước đường đức tin với đầy đủ chi tiết. Đầu tiên, tất cả đều là những người mù. Cuối cùng, một người được sáng mắt và nhiều người bị mù. Chúng ta gặp gỡ với bóng đêm và với Giêsu – Ánh sáng. Đó là bóng đêm sự dữ và tội lỗi. Đứng trước người mù từ khi mới sinh ra, các môn đệ muốn tìm hiểu.
-      Làm sao người ta lại bị mù từ lúc mới sinh, lỗi tại ai?
Chúa Giêsu gạt bỏ một cách nhìn sai về sự vật: thiết lập quan hệ giữa người tàn tật và tội lỗi. Nhưng Ngài không đưa ra một lối giải thích khác, Ngài chỉ muốn là ánh sáng để chúng ta có thể sống điều chúng ta phải sống.

Điều ác kinh khủng nhất, màn đêm ghê gớm nhất, chính là thiếu vắng sự gặp gỡ này với ánh sáng: “Màn đêm tối, và Ta là ánh sáng”.

Phép lạ sẽ là dấu hiệu lớn lao này: Chúa Giêsu ban cho con mắt để được thấy. Nhưng từ chính dấu hiệu này, người mù hoàn toàn đạt được mục đích khi gặp gỡ Chúa Giêsu – Ánh sáng, và những “Người Do thái” (những người chống đối) thì bị thất bại. Người mù ra khỏi bóng đêm: “Lạy Chúa, tôi tin Ngài”. Còn người Do thái thì dấn mình vào bóng đêm: “Ông Giêsu này là người tội lỗi”.

Người mù tuyệt vời! Bổn mạng của những người tìm kiếm ánh sáng. Người mù một mực hướng tới mầu nhiệm Giêsu mà không để mình bị những “người thông thái” khủng bố, và thậm chí nói khôi hài khi mọi người run sợ. Ở đây Gioan viết một trang hết sức sống động, xen kẽ những câu hỏi và những thái độ tức giận: Người ấy là ai? Người ấy đã làm gì cho anh? Người ấy ở đâu? Người ấy là ai vậy? Và anh, anh bảo người ấy là ai? Người này không từ Thiên Chúa mà đến! Nhưng nếu thế thì làm sao người âý có thể làm được những điều như thế? Anh là môn đệ của người đó sao? Anh là kẻ sinh ra trong tội lỗi! Họ nói “chúng tôi, chúng tôi là những người thông thài, thếmà họ không thấy gì. Người mù trả lời “tôi không biết gì hết”, và anh ta dần dần thấy ánh sáng. Anh nói: “người ấy”, rồi sau đó lại bảo “Ngài đến từ Thiên Chúa”, và cuối cùng là “Lạy Chúa!”.

Người ta có thể đọc đi đọc lại Phúc Âm mà vẫn không thấy Đức Giêsu. Ngay từ đầu, Gioan không ngừng lặp lại điều đó: “Ánh sáng chiếu soi đêm tối, nhưng đêm tối không hiểu được ánh sáng” (Ga 1,5). Đứng trước người mù “thấy” được Ngài và những người Pharisêu nhìn Ngài mà không thấy Ngài, Chúa Giêsu bắt buộc phải nhận xét điều xảy ra khi Ngài xuất hiện: “Người mù trở nên sáng mắt và người sáng mắt trở nên mù”.

Nhưng tôi biết, tôi thấy! Không, chúng ta đọc trang Phúc Âm này đến trang Phúc Âm khác, ngày này qua ngày khác, và chúng ta chỉ “ cố gắng” để thấy Ngài mà thôi. Chúng ta là những kẻ mù được Chúa Giêsu cho mắt hai lần: lần đầu để nhìn Ngài và lần sau để thấy Ngài. Chúng ta đừng ngần ngại lặp đi lặp lại lời cầu nguyện này cho tới giây phút cuối cuộc đời: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con những con mắt để được thấy Ngài”.

16. Đức tin

Mù lòa là một nỗi bất hạnh. Thà chết còn hơn bị mù. Người mù nhất là mù từ hồi bẩm sinh, không phải chỉ là một thiệt thòi cho đôi mắt, mà còn thiệt thòi cho toàn thể con người và cuộc đời. Thế giới xinh đẹp này đã chết đi trong lòng họ. Họ không có quan niệm gì về màu sắc, về hình dáng những người thân yêu. Ánh sáng và bóng tối cũng như văn minh tiến bộ cũng như không. Đã vậy, họ còn mang nặng mặc cảm tự ti, bất an, lệ thuộc và bị bỏ rơi.

Vì thế, chúng ta hiểu được nỗi khao khát được sáng, dù chỉ rất lờ mờ. Họ làm bất cứ chuyện gì để được sáng, như người mù bẩm sinh hôm nay đã vận dụng tới cả đức tin:
-      Lạy Ngài con tin.

Đức tin của anh thật sáng giá. Anh tuyên xưng đức tin trước tòa án, trước công chúng và trước Chúa Giêsu, Đấng đã làm phép lạ cho anh. Vì tin vào Ngài mà anh bị cha mẹ tránh xa không bênh đỡ, bị hội đồng Do Thái trục xuất ra khỏi cộng đoàn, cắt đứt mọi liên hệ trong một thời gian dài vô hạn định. Người ta lên án anh:
-      Toàn thân mày sinh ra trong đống tội lỗi.

Một mình anh cô đơn, đứng riêng một phe, tách biệt khỏi cộng đoàn chỉ vì đức tin. Đức tin làm cho chúng ta cũng phải “chia lìa” với cả những người thân yêu nhất trong gia đình, nhưng lại làm cho chúng ta gần gũi Thiên Chúa hơn cả.

Đức tin của người mù hôm nay cũng giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình.
-      Có người đời sống đức tin lên xuống như nhiệt độ của kẻ bị sốt. Nhất là đối với tuổi trẻ mới lớn, đang đứng trước những khúc quanh của muôn giòng thác tư tưởng.
-      Có người trưởng thành mà đời sống đức tin vẫn cứ lên xuống bất tử, chỉ vì họ sống theo cảm xúc, lệ thuộc vào ngoại cảnh hay vào những người chung quanh. Một đời sống đức tin lung lay như vậy nhất định sẽ không thể nào nhận biết Chúa, sẽ không thể nào nắm vững được Chúa, chưa tin nhận Chúa là Đấng phải tin cậy. Chúa phán:
-      Phải thờ lạy Chúa trong tinh thần và chân lý. Điều đó có nghĩa là phải thờ lạy Chúa với tất cả tấm lòng chân thành vì Chúa nhìn thấy tự bên trong. Nhưng đồng thời còn phải thờ lạy Chúa trong chân lý.

Trên thế giới này biết bao nhiêu người sùng kính và trung thành với giáo chủ của họ hơn chúng ta, nhưng họ không có chân lý hướng dẫn, còn chúng ta, chúng ta có chân lý hướng dẫn, nhưng chúng ta lại không chịu làm theo.

Thực vậy, có những người đời sống đức tin luôn thay đổi theo cảm xúc và tùy theo hứng. Đó là điều rất tệ hại. Họ không giúp ích gì cho ai được, vì chính họ cũng đang chao đảo, ngả nghiêng.

Ngoài ra, có những người cuộc sống trở nên quá êm ả bình thản, không một chút lo âu, không một sự phấn đấu, đức tin của họ cũng sẽ mau phai tàn. Vì cuộc đời quá bình thản, quá dư thừa, khiến họ không còn chiến đấu và cầu nguyện nữa. Trước mặt Chúa chúng ta không có một chiến tuyến nào rõ rệt để phải xử dụng đến đức tin. Đức tin lúc đó như một viên ngọc lu mờ vì không được mài dũa. Chúng ta xin Chúa đánh thức chúng ta dậy đừng để chúng ta sống trong cảnh êm xuôi ru ngủ để rồi xa lìa Chúa.

Sau cùng có những người đời sống đức tin đang vững chắc nhưng lại gặp nhiều thử thách nặng nề của hiểu lầm, của tai ương và bệnh tật. Trong trường hợp này, chúng ta hãy thận trọng. Đừng nhìn vào quá khứ hay hiện tại, nhưng hãy vươn tới tương lai. Phải nhắm tới mục đích của những khó khăn thử thách. Một người càng kiên vững, thì đức tin càng bị tôi luyên cho đến lúc gặp được chính Thiên Chúa.

Đừng để cho nghịch cảnh làm chủ đời sống đức tin. Nhưng hãy noi gương anh mù, can đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người vì đức tin đòi hỏi một lập trường công khai và quyết liệt.


17. Người mù

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ hai điểm.

Điểm thứ nhất đó là thái độ của những người chung quanh đối với anh mù.
Nhìn thấy anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường, thay vì xót thương thì người ta lại cho là đáng kiếp. Kẻ thì bảo tình trạng mù lòa ấy là do tội lỗi của cha mẹ, bởi vì Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của cha mẹ nơi con cái. Kẻ thì bảo Thiên Chúa thấy trước những tội lỗi, nên đã trừng phạt anh ta từ lúc mới sinh. Tựu trung lại chính tội lỗi và sự vi phạm giới luật Thiên Chúa đã dẫn tới tình trạng bi đát ấy.

Cuộc tranh luận không phân thắng bại và các môn đệ bèn phải thỉnh ý Chúa Giêsu. Các ông hỏi:
-      Thưa Thầy, vậy thì ai đã phạm tội, anh hay cha mẹ của anh, để rồi bản thân anh bị mù lòa.

Chúa Giêsu, lúc bấy giờ có lẽ đã nhìn anh bằng một cái nhìn cảm thông. Con người ta thường tỏ ra cay độc khi xét đoán, nhưng Chúa thì khác, Ngài đã trả lời như sau:
-      Không phải vì anh hay cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

Chúng ta là những người đau khổ. Nào là đau khổ phần hồn, nào là đau khổ phần xác. Chẳng hạn như bệnh tật, nghèo túng, tang tóc. Đau khổ như một cái gì gắn liền với thân phận con người, như một đám mây đen che phủ cuộc đời chúng ta. Và nhiều khi, trong những giờ phút tăm tối ấy, chúng ta đã kêu lên:
-      Tôi đã làm gì nên tội mà phải khổ thế này.
Chúng ta hãy bình tĩnh và suy nghĩ, đồng thời dưới ánh sáng đức tin, chúng ta thấy đau khổ không phải chỉ là hậu quả của tội lỗi, mà nó còn mang một ý nghĩa cao cả hơn nhiều, bởi vì những công việc của Chúa phải được thực hiện nơi bản thân chúng ta.

Thực vậy, nếu chúng ta biết can đảm chấp nhận những gian nguy thử thách, thì tình thương và ân sủng của Chúa sẽ được biểu lộ nơi chúng ta. Vì thế, đừng phàn nàn oán trách, đừng bực bội tức tối như những kẻ không có đức tin. Hãy mang lấy cây thập giá đời mình như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy.

Điểm thứ hai chúng ta cùng nhau chia sẻ, đó là phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện.
Phúc âm kể lại rằng: Ngài lấy nước bọt trộn lẫn với đất rồi bôi lên mắt anh và bảo:
-      Hãy đi rửa ở giếng Siloe thì anh sẽ được khỏi.

Anh đã làm theo lời căn dặn của Chúa Giêsu và mắt anh đã được sáng. Trước phép lạ quá hiển nhiên ấy, người ta đâm nghi ngờ không biết có phải là chính anh hay không? Để rồi anh đã phải lên tiếng xác nhận và kể lại những sự việc đã xảy đến với mình.

Chúng ta chia sẻ nỗi bất hạnh khi anh bị mù, cũng như niềm vui khi anh được sáng. Niềm tin tưởng và cậy trông của anh đã được ân thưởng một cách xứng đáng. Theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu, anh đã đi rửa tại giếng Siloe và anh đã được khỏi. Từ đó chúng ta rút ra một kinh nghiệm sống, đó là ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm thấy một nơi nương tựa còn vững hơn cả núi đá.

Đôi khi chúng ta than phiền về gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa biết cây thập giá chúng ta đang vác và với những hy sinh gian khổ. Ngài không bao giờ đặt trên vai chúng ta một gánh nặng vượt quá sức của chúng ta.

Hãy chấp nhận với lòng tin yêu để những hy sinh gian khổ đem lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.


18. Đức tin

Có một người kia, sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào”. Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi”. Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy”. Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi”. Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa”. Thấy anh ta tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: “Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi”. Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối”.

Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở Ấn Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù từ bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi được sáng mắt, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hiu buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pharisêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pharisêu. Đôi mắt thân xác của người này mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pharisêu có đôi mắt thân xác không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pharisêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.

Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa rất tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù lòa thì y khoa có thể dùng một loại ra đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra. Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pharisêu là những kẻ mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù”. Chúng ta thường nói về những người cố chấp: “Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe”, thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần: “Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem”.

Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không?

Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.

19. Chúa Giêsu là ánh sáng

Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.

1. Đời người có hai nỗi khổ
Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Đó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.

Ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Đó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.

Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.

2. Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh
Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1-41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giêsu lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " (Ga 1, 32-33 ).

Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh ta: "Anh có tin vào Con Người không?" (Ga 1,35). Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin" (Ga 1, 38). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Đức Giêsu như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Đất Hứa là Nước Trời.

3. Diễm phúc và bổn phận của ta
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. " (Tv 23, 4-5)

Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Đó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Đa-vit: Đavít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Đồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.

Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong "Jésus, l? histoire vraie" (Cent. 1994, trang 364)để kết: "Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giêsu, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người", trong lúc đó, những kẻ "thấy", những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Đức Giêsu nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ".

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".


20. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà.

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Ngày xưa ở Ấn độ, có một vị vua muốn tìm trò tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân lính đi lùng kiếm năm người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về triều làm trò tiêu khiển. Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù: Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến lại sờ voi rồi mô tả cho Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ được trọng thưởng.

Sau một hồi sờ voi, anh thứ nhất tâu:
-      Tâu bệ hạ! Con voi giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.
Anh thứ hai thưa:
-      Voi giống như cái quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.
-      Voi giống như một khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).
-      Voi giống như một tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)
Anh thứ năm cho rằng bốn anh kia đều sai bét, và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí tâu:
-      Lâu nay hạ thần tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).
Anh nào cũng hăng say và quyết liệt bênh vực ý kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và những người khác đều sai. Họ tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người khác là ngu, là mù, là dốt nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi khùng lên, xông vào đấm đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại... Trong khi đó nhà vua và triều thần ôm bụng cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.
Cả năm anh mù nầy đều thuộc diện mù loà bẩm sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.

Người mù quáng chỉ biết một phần mà cứ tưởng rằng mình biết toàn bộ, chỉ mới am tường một khía cạnh mà cho là mình đã quán triệt hoàn toàn... và cho rằng những ai không suy nghĩ như mình, không cùng quan điểm với mình, không phát biểu như mình là sai lạc. Họ không hề chấp nhận ý kiến người khác, hoặc tìm cách triệt hạ người bất đồng quan điểm với mình. Đây là căn bệnh tinh thần rất phổ biến trong xã hội loài người suốt dòng lịch sử và đã gây nhiều đổ vỡ đau thương cho nhân loại.

Những người biệt phái được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thuộc hạng người mù quáng. Mắt các ông tuy sáng nhưng tâm hồn hoàn toàn mù tối. Các ông đã từng nghe lời Chúa Giêsu dạy, từng thấy phép lạ Chúa Giêsu làm và một trong các phép lạ ấy là việc chữa lành người mù bẩm sinh đang xảy ra sờ sờ trước mắt. Vậy mà các ông vẫn không nhìn nhận Ngài do Thiên Chúa mà đến, lại còn nhẫn tâm trục xuất người mù vừa được Chúa Giêsu chữa lành ra khỏi cộng đồng chỉ vì người nầy không cùng quan điểm với các ông, không chối bỏ sự thật như các ông...

Đọc Kinh Thánh, ta thấy lòng ghen tị của Ca-in đã làm cho anh trở nên mù quáng, mù quáng đến độ ra tay giết hại A-ben là đứa em hoàn toàn vô tội chỉ vì lễ vật của A-ben đẹp lòng Thiên Chúa.
Lòng ghen tị cũng đã làm cho vua Sao-lê trở thành mù quáng. Ban đầu vua rất yêu thương Đavít, xem Đavít như con. Nhưng khi Đavít giết được tướng giặc khổng lồ Gô-li-át, dân chúng hoan hô ca ngợi Đavít còn hơn vua, nên vua đâm ra ghen tức, lòng trí hoá ra mù quáng khiến vua săn lùng Đavít như một ác thú tận thâm sơn cùng cốc, tìm mọi cách giết hại vị anh hùng tài ba dũng cảm nầy.

Đến lượt Đavít, khi được lên ngôi vua, cũng trở nên mù quáng vì tình dục. Do say đắm sắc đẹp của bà Bát-sa-bê, vợ của U-ri-a, nhà vua đã sa ngã phạm tội với bà, sau đó lại tìm cách giết U-ri-a chồng bà và rồi chính thức cưới bà ấy làm vợ. Mù quáng đến thế thì thật là khủng khiếp!

Như thế, người mù quáng tự làm cho mình bị suy thoái nghiêm trọng, trở thành người xấu xa và gây thiệt hại khôn lường cho người khác.

Ngoài ra, điều tệ hại nhất là người mù quáng ít khi tự thấy được sự mù quáng của mình, không nhận ra lầm lỗi của mình, kể cả những tội tày trời, nên ngày càng lún sâu trong tội, vô phương cứu chữa!
ÙÙÙ

Lạy Chúa Giêsu, như những người biệt phái xưa, con là người mù quáng cần được Chúa xót thương.

Xin thương mở mắt tâm hồn con như Chúa đã mở mắt người mù bẩm sinh được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay để con được thoát khỏi tối tăm lầm lạc và được hoan hỉ bước đi trong ánh sáng Tin Mừng.

21. Ánh sáng cho người mù – Lm FX Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay thuộc về “Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu (dịp các đại lễ Do Thái)” (Ga 5,1–10,42) với bố cục như sau:
B (5,1-47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù nhờ ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến)
Việc chữa lành anh mù bẩm sinh được tác giả TM IV ghi nhận như là mộttrong những “dấu lạ” quan trọng “để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (20,31).

Tác giả trung thành với cách viết của ngài: trình bày biến cố (= bình diện thực hành) và diễn từ giải nghĩa (= bình diện nhận thức). Phân tích kỹ hơn, ta thấy truyện được trình bày như một phiên tòa xử Đức Giêsu xuyên qua những cuộc gặp gỡ của anh mù với nhiều hạng người, để rồi cuối cùng lại chính Đức Giêsu là người đứng ra kết án. Tấn bi kịch đã được báo trước trong hai chương 7 và 8. Khi các thuộc hạ trở về mà không bắt Đức Giêsu, các thượng tế và người Pharisêu đã kêu lên: “Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa” (7,49). Đấy là như tiền đề cho việc họ nổi giận với người mù, vì anh ta “sinh ra trong tội”, mà lại dám lên mặt sửa dạy các “môn đệ của ông Môsê” (9,28-34). Câu truyện người đàn bà ngoại tình là mộtlý do thứ hai, bởi vì trong sự cố này, cũng vẫn là Đức Giêsu đã “tước vũ khí” của họ khi nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (8,7). Rồi sau đó là những câu nói đầy thách thức: 8,21.24.35-44.46.

2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù (9,1-5);
2) Đức Giêsu chữa lành anh mù (9,6-7);
3) Cuộc xử án (9,8-33):
a) Láng giềng anh mù (9,8-12),
b) Người Pharisêu (9,13-17),
c) Cha mẹ anh mù (9,18-23),
d) Người Pharisêu (9,24-34a);
4) Tuyên án (9,34b-41):
a) Anh mù bị người Pharisêu tống ra ngoài (9,34b),
b) Anh mù được Đức Giêsu đón tiếp và anh tin nhận Người (9,35-38),
c) Đức Giêsu kết án người Pharisêu (9,39-41).
Chúng ta có thể nhận ra bảy cuộc gặp gỡ trong truyện này:
1- Đức Giêsu và anh mù (chữa mắt: c. 6);
2- Anh mù và láng giềng (c. 8);
3- Anh mù và người Pharisêu (c. 13);
4- Anh mù và người Do Thái và cha mẹ (c. 18);
5- Anh mù và người Do Thái (c. 24);
6- Đức Giêsu và anh mù (tin: c. 35);
7- Đức Giêsu và người Pharisêu (c. 40).

3.- Vài điểm chú giải
- ai đã phạm tội (2): Mặc dù có sách Gióp, lý thuyết cổ truyền vẫn tồn tại: người ta nghĩ rằng có mộtquan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội và bệnh tật. Về trường hợp một em bé mới sinh đã mắc bệnh tật, xem Xh 20,5.
- như vậy là để công trình của Thiên Chúa nơi anh được tỏ hiện (3): Các kinh sư nói đến việc Thiên Chúa ban cho loài người “những hình phạt tình yêu”, nghĩa là những sửa dạy mà nếu người ta quảng đại chấp nhận, sẽ đưa đến cho họ đời sống dài lâu và những phần thưởng. Nhưng hình như tư tưởng của Đức Giêsu ở đây hoăc ở Ga 11,4 không phải là như thế; Đức Giêsu lại cho thấy rằng Thiên Chúa vận hành lịch sử để tôn vinh Danh Người. Chúng ta có mộtví dụ rõ ràng ở Xh 9,16, được trích dẫn trong Rm 9,17.
- Thầy là ánh sáng cho trần gian (5): Rất có thể lời này được rút từ Is 49,6, trong đó Người Tôi Trung của Đức Chúa được mô tả như là mộtánh sáng cho muôn dân. Chính là trong dịp Lễ Lều mà Đức Giêsu đã tuyên bố lần đầu: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian” (8,12).
- nhổ nước miếng (6): Chỉ có Ga và Mc (7,33; 8,23) ghi lại rằng Đức Giêsu nhổ nước miếng. Người xưa coi nước miếng như là mộtthứ thuốc chữa mắt và cả những phần khác trên thân thể (Tacite, Historiae IV, 81). Dường như sức chữa bệnh của nước miếng sẽ gia tăng nếu trộn với đất hay đất sét. Đức Giêsu đã làm cử chỉ nhổ nước miếng mà trộn bùn không phải vì các thứ này cần để có thể làm phép lạ, nhưng là để “gây chuyện” với người Pharisêu.
- hồ Silôác (7): Hôm nay, ta còn thấy cái hồ này ở phía đông nam Giêrusalem, ở cuối thung lũng Tyrôpêôn. Con suối Gihôn đã cung cấp nước cho hồ này nhờ con kênh vua Xítkigia (Ézéchias) đã cho đào trong đá (x. 2 V 20,20; 2 Sb 32,30; Hc 48,17). Silôác có nghĩa là “người sai phái” (= người gửi [nước]). Tác giả Ga ghi nhận tên này, nhưng lại dịch như mộttừ ngữ ở thụ động cách: “Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7). Rõ ràng ngài dùng từ ngữ như mộtbiểu tượng. Trong TM IV, hơn 40 lần Đức Giêsu được gọi là “Đấng được sai phái”, và Người cũng vừa nói với các môn đệ là Người phải “thực hiện công trình của Đấng đã sai phái Thầy” (c. 4). Vậy tác giả muốn nói rằng hồ Silôác, cũng như Đền Thờ, như lễ Vượt Qua, như ngày sa-bát, như mọi sự trong Israel, đều được quy hướng về Đức Giêsu và rút ra từ Người ý nghĩa vĩnh viễn và chân thật. Chính tên của cái hồ loan báo rằng Đấng Mêsia sẽ đến múc nước và thông ban cho nước hồ mộtsức mạnh thần linh.

Ngoài ra cái hồ này còn có mộtý nghĩa thiêng liêng. Ngôn sứ Is (8,6) đã coi cái hồ có dòng nước chảy êm ả này như mộtbiểu tượng về đời sống an bình của Israel dưới sự che chở của Thiên Chúa. Nhưng vị ngôn sứ cũng nhân danh Đức Chúa mà than thở rằng “dân này khinh dể nước mương Silôác chảy lững lờ”. Có lẽ tác giả coi sự từ khước này như mộtlời loan báo sự cứng lòng của người Do Thái thời Đức Giêsu.

Ngoài ra, nước hồ còn được dùng trong Lễ Lều. Mỗi ngày trong tuần Lễ Lều, người ta đi rước xuống hồ. Một tư tế long trọng múc nước, rồi đi rước lên Đền Thờ. Vị tư tế ấy vừa đổ nước trên bàn thờ vừa đọc những lời kinh theo nghi thức: họ xin Thiên Chúa ban mưa xuống cho mùa sắp tới; họ đọc những bài đọc Kinh Thánh tưởng niệm phép lạ nước vọt ra từ tảng đá trong sa mạc và loan báo việc canh tân thiêng liêng Sion vào thời Đấng Mêsia. Nhiều liên hệ giữa truyện anh mù và những biến cố dịp Lễ Lều trong TM IV (ch. 7 và 8) mời ta đọc phép lạ này dưới ánh sáng của lễ nghi Lễ Lều. Điều này càng có lý khi ta biết rằng lễ nước, Lễ Lều cũng là lễ ánh sáng. Mỗi buổi chiều, người ta đốt đèn đuốc trong Đền Thờ. Và ngôn sứ Dacaria đã mô tả Ngày của Đức Chúa như là mở đầu cho việc muôn dân cử hành Lễ Lều thật hùng vĩ (x. Dcr 14,7). Đây là khung cảnh rất phù hợp với lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng cho trần gian” và với “dấu lạ” anh mù: có lễ ánh sáng, có việc rưới nước hồ Silôác và có những niềm hy vọng vào Đấng Mêsia.

Những dây liên hệ này soi sáng cho thấy ý nghĩa của biểu tượng “Đức Giêsu-Ánh-sáng-cho-trần-gian”, cũng như “dấu lạ” diễn tả biểu tượng này. Những phúc lành và việc tuôn đổ Thánh Thần, được tượng trưng trong dịp Lễ Lều bằng nước Silôác, sẽ được Đức Giêsu ban cho trần gian: trong tay Người, “nước mương Silôác chảy lững lờ” sẽ chan hòa ánh sáng và sức sống.
- những người Pharisêu (13): Những người phỏng vấn được gọi là Pharisêu trong cc. 13.15.16 (cả c. 40); ở cc. 18 và 22, thì được gọi là “người Do Thái”, là từ ngữ quen thuộc hơn với Ga.
- vì không giữ ngày sa-bát (16): Trong TM IV, từ ngữ sabbaton được dùng 13 lần (Ga 5,9.10.16.18; 7,22.23[2x]; 9,14.16; 19,31[2x]; 20,1.19). Những bản văn quan trọng nhất là các tranh luận về ngày sa-bát trong Ga 5,1-18; 7,19-24 và 9,14-16. Về việc chữa người mù, có những nhận định sau: Thứ nhất, bởi vì mạng sống của anh mù không bị đe dọa, lẽ ra Đức Giêsu nên chờ đến mộtngày khác mà chữa anh. Thứ hai, trong số ba mươi chín việc bị cấm làm trong ngày sa-bát (Mishna, Shabbath 7,2), có việc nhào trộn bột. Thứ ba, thể theo truyền thống sau này của Do Thái giáo (TalBab, Abodah Zarah 28b), có mộtý kiến nói rằng không được phép xức dầu vào mắt ngày sa-bát. Thứ tư, truyền thống (TalJer, Shabbath 14d và 17f) cũng cấm nhổ nước miếng lên mắt ngày sa-bát.
- một vị ngôn sứ (17): Hai vị ngôn sứ nổi tiếng với việc làm phép lạ chữa bệnh là Êlia và Êlisa (x. cả Is 38,21). Có lẽ anh này đang nghĩ đến việc ngôn sứ Êlisa bảo Naaman đi tắm trong sông Giođan. Ít ra có lẽ anh mù tin rằng Đức Giêsu có quyền lực thần linh và “ngôn sứ” là hạng người như thế.
- trục xuất khỏi hội đường (22): Dịch sát câu 22 là: “... kẻ nào tuyên xưng Người là Đấng Kitô, sẽ trở thành người-bị-trục-xuất-khỏi-hội-đường (aposynagôgos, do apo và synagôgê)”. Có lẽ tác giả đang nghĩ đến việc giới chức Do Thái loại các Kitô hữu gốc Do Thái khỏi hội đường (= dứt phép thông công) vào cuối thế kỷ i, sau khi Đền Thờ bị phá hủy.
- Chúng ta (24): Nicôđêmô đã dùng chủ ngữ này (3,2) để nói về uy tín của người Do Thái có học thức.
- Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa (24): Đây là mộtcông thức để thề trước khi làm chứng hoặc thú nhận mộtlỗi lầm (x. Gs 7,19). Nhưng cũng rất có thể tác giả muốn chơi chữ, bởi vì anh mù sẽ tôn vinh Thiên Chúa.
- Thiên Chúa đã nói với ông Môsê (29): Xem Xh 33,11; Ds 12,2-8.
- Chúng ta biết (30): Anh mù dùng chủ ngữ “chúng ta” của người Pharisêu (c. 24), y như Đức Giêsu ở 3,11 đã lấy lại chủ ngữ “chúng ta/tôi” của Nicôđêmô. Rõ ràng những đoạn này được dùng trong những cuộc bút chiến giữa người Do Thái và các Kitô hữu.
- Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi (31): Đây là mộtnguyên tắc Kinh Thánh quen thuộc (x. Is 1,15; 1 Ga 3,21).
- họ tống anh ra ngoài (34): Đây không phải là mộtviệc dứt phép thông công đúng nghĩa, nhưng chỉ là việc đuổi anh cho khuất mắt họ.
- Khi gặp lại anh (35): Hành vi này ngược lại với hành vi của người Pharisêu khi đuổi anh ra ngoài, và minh họa cho lời hứa của Đức Giêsu ở 6,37: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài”.

4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong TM IV, truyện anh mù được chữa lành có mộtvị trí trung tâm. Truyện này giống như mộttổng hợp về sứ mạng làm ánh sáng của Đức Giêsu trong thế gian và về cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối xảy ra giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Bản văn đã được trình bày như mộtcuộc xử án, nhưng Đức Giêsu không trực tiếp đối đầu với các đối thủ. Bản án của Người chỉ được xác định qua việc kết án anh mù; Đức Giêsu chỉ xuất hiện lúc đầu để thực hiện “dấu lạ” và xác định ý nghĩa của “dấu lạ”, rồi xuất hiện ở cuối để uy nghi công bố bản án.

* Đức Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù (1-5)
Không ai xin Đức Giêsu chữa cho anh mù: chính Người bột phát chữa lành anh (9,1-7). Nghĩ đến số phận đáng thương của anh mù, các môn đệ nại đến mộtluận điểm quen thuộc trong dân Do Thái: Tại sao anh bị như thế? Do lỗi của ai? Các ông tìm cách quy kết trách nhiệm. Các ông nghĩ đến mộtlỗi chống lại Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu loại bỏ lối suy luận này. Sau này bản văn sẽ cho thấy tội lỗi thật chống lại Thiên Chúa là tội lỗi gì và nó đưa đến sự đui mù nào. Còn đối với người mù bẩm sinh, Đức Giêsu không nhìn lại đàng sau, Người nhìn tới trước: nhờ anh, Người có thể tỏ mình ra rõ ràng là ánh sáng thế gian. Cho ai đang ngạc nhiên về sự thiếu may mắn của anh mù, lòng thương xót và quyền lực của Thiên Chúa lại được tỏ lộ. Như thế, Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của những việc Người làm.

* Đức Giêsu chữa lành anh mù (6-7)
Khác với những hành vi quyền lực khác của Người, ở đây Đức Giêsu không chỉ hành động bằng lời nói của Người. Tác giả mô tả chi tiết những gì Người làm cho anh mù (9,6.11.14.15). Và cả anh này cũng phải làm mộtviệc: Tin vào lời Đức Giêsu, anh đi đến hồ nước rửa mắt và thấy được. “Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7): Đức Giêsu chính là Đấng được Chúa Cha sai phái; chính là nước của Người, thứ nước đã hứa ban cho người phụ nữ Samari, mới chữa khỏi đui mù. Đức Giêsu không có mặt trong bốn cuộc gặp gỡ sau đó, nhưng tất cả đều xoay quanh những gì Người đã làm cho anh mù và về tương quan của Người với Thiên Chúa. Chính là qua các cuộc tranh luận này mà người lành bệnh được dẫn từng bước mộtđến chỗ thấy ai là người đã chữa lành anh. Các con mắt mà Đức Giêsu đã mở cho anh để anh thấy ánh nắng mặt trời, bây giờ lại mở ra để thấy “ánh sáng cho trần gian”.

* Cuộc xử án (8-34a)
Trong cuộc gặp gỡ với những người láng giềng (cc. 8-12), có một toan tính đầu tiên là giữ khoảng cách với sự thật quá hiển nhiên về cuộc chữa lành và tránh lấy lập trường đối với chuyện này. Người ta nghi ngờ về căn cước của người được chữa lành: không chắc chắn kẻ đang thấy đây là người mù từ lúc mới sinh lâu nay vẫn phải sống bằng việc hành khất, mà ai cũng biết. Tuy nhiên, anh khẳng định căn cước của anh và nói rõ ràng về những gì Đức Giêsu đã làm cho anh.

Khi ra trình diện người Pharisêu, anh lại phải mô tả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh và cách thức anh lại thấy được (cc. 13-17). Họ tỏ ra khó chịu vì Đức Giêsu đã làm việc ấy trong ngày sa-bát, và thế là nêu lên câu hỏi, từ bây giờ sẽ là vấn đề nổi bật, về tương quan của Người với Thiên Chúa. Có những người coi quan niệm của họ về ngày sa-bát là tiêu chuẩn đánh giá duy nhất, nên cho rằng Đức Giêsu không thể đến từ Thiên Chúa. Những người khác nhìn nhận rằng việc chữa lành này là đặc biệt và không thể cho rằng Đức Giêsu là mộtngười tội lỗi. Bây giờ chính người được lành cũng bị buộc phải lấy lập trường: anh nhìn nhận Đức Giêsu là mộtngôn sứ, mộtngười được Thiên Chúa sai phái.

Mẩu đối thoại giữa người Do Thái và cha mẹ anh (cc. 18-23) đưa vào mộttoan tính khác nhằm giữ khoảng cách đối với sự thật. Bây giờ người ta nghi ngờ về tình trạng mù lòa trước đây của anh. Cha mẹ anh công nhận căn cước của anh và tình trạng mù lòa của anh từ khi mới chào đời, nhưng không muốn biết gì về việc chữa lành. Họ cúi đầu sợ hãi trước áp lực của quyền bính. Họ không muốn bị cô lập về mặt xã hội; do đó họ nhắm mắt lại trước ánh sáng.

Cuộc đối diện thứ hai của anh được lành với người Pharisêu (cc. 24-34a) đã phân rẽ các tâm trí. Sau khi mọi lý do đã bị loại bỏ và việc chữa lành đã được xác nhận, người ta không thể tránh khỏi việc lấy lập trường đối với người đã làm việc này. Người Pharisêu chỉ quan tâm tới “cách thức” chữa lành (x. cc. 15.19.26). Và bởi vì cách thức này vi phạm quan niệm của họ về ngày sa-bát, họ biết chắc chắn rằng Đức Giêsu là mộtkẻ tội lỗi. Lỗi mà Đức Giêsu đã phạm không phải là một lệnh truyền cho người được chữa lành, nhưng là hành động chính Người đã làm: “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù” vào ngày sa-bát (c. 6). Một trường hợp như thế đã được minh nhiên tranh luận trong sách Talmud Babylon (x. Strack-Billerbeck II 533t). Thật ra, các kinh sư cho phép, trong ngày sa-bát, được chữa con mắt bị bệnh trong trường hợp cấp tính, chứ không cho phép trong trường hợp mãn tính, như trường hợp anh mù bẩm sinh này. Ở đây “sự kiện” là việc chữa lành đã thực sự xảy ra không hề có tầm quan trọng nào đối với người Pharisêu. Nhưng đây lại chính là điểm mà anh mù bám vững, nhất định không nao núng (x. cc. 25.30.32). Khởi đi từ hành vi Đức Giêsu đã làm, anh nhận ra càng lúc càng rõ tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Đối lại với sự hiểu biết mà người Pharisêu cho rằng họ có về Đức Giêsu (cc. 24.29), anh đề ra sự hiểu biết của anh về Thiên Chúa, mà cả người Pharisêu cũng phải công nhận: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (c. 31). Do không chấp nhận Đức Giêsu, người Pharisêu cứ thắc mắc, nên đã phải nghe giọng mỉa mai của anh mù: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông lại còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy sao?” (c. 27). Từ hành vi phi thường Đức Giêsu đã làm và từ sự hiểu biết này về Thiên Chúa, anh rút ra hệ luận là Đức Giêsu không phải là mộtkẻ tội lỗi, nhưng là mộtngười làm theo ý muốn của Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa.

Ở đây, chúng ta có một ví dụ tiêu biểu về thái độ tích cực và tiêu cực khi đứng trước mộthành vi quyền lực Đức Giêsu đã thực hiện. Anh mù được lành không chỉ xử sự như mộtngười sung sướng vì có thể thấy và không quan tâm gì đến người đã chữa anh lành. Ngược lại, đối với anh, việc chữa lành thật sự đã trở thành mộtdấu chỉ đưa anh đến chỗ nhận biết dây liên kết giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu. Người Pharisêu vẫn ở lại trong thái độ không muốn thấy và cứng lòng lại trong việc từ khước Đức Giêsu. Đối với những sự kiện cụ thể được anh mù nêu ra, họ chỉ có thể chống lại bằng cử chỉ bạo lực là tống anh ra ngoài. Tình thế của họ có nét mỉa mai đầy kịch tính (x. cc. 24 và 40): Trong c. 24, khi mời anh mù nói lên sự thật dưới cái nhìn của Thiên Chúa (“Hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây biết rằng ông ấy là kẻ tội lỗi”), người Pharisêu hẳn lại phải bảo vệ điều ngược lại với những gì họ biết: chữa lành một người mù không phải là dấu chỉ tội lỗi. Trong c. 40 (“Cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”), họ phải thú nhận cách bi đát điều hiển nhiên: loại trừ kẻ đã chữa người mù chứng tỏ chính họ đang mù.

* Tuyên án (34b-41)
Cuộc gặp gỡ thứ hai giữa anh được lành và Đức Giêsu (cc. 35-38) xảy ra lần nữa vẫn do sáng kiến của Người. Đức Giêsu quan tâm đến người đã bị tống ra ngoài và giúp anh có thể thấy thêm nữa, bằng cách đưa anh đến chỗ tin vào Con Thiên Chúa. Nhờ cuộc tranh luận trước đó, càng ngày anh càng đến gần Đức Giêsu hơn và ngày càng mở ra hơn với tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Bây giờ Người tự mạc khải ra cho anh là người bị loại trừ biết Người là Con Thiên Chúa nhập thể, Người không đến thế gian trong ánh vinh quang huy hoàng, nhưng trong tình trạng đơn giản của thân phận con người và đi đến chỗ sẽ được giương cao trên thập giá (3,14; 6,35; 12,23.34). Anh mù được lành đã tin và quỳ xuống trước mặt Người, tức là làm mộtcử chỉ thờ phượng Thiên Chúa. Anh đã có thể thấy trọn vẹn phẩm cách và tầm quan trọng của Đức Giêsu. Khi chữa lành anh và hướng dẫn anh, Đức Giêsu đã ngày càng trở thành ánh sáng cho anh.

Cuối cùng, xảy ra cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và người Pharisêu (cc. 39-41). Các ông này đã phản ứng lại với mộtkhẳng định của Người về mộtphương diện quan trọng trong sứ mạng của Người: Người đã đến để cứu độ thế giới (3,17; 12,47); Người ở trong thế gian như là ánh sáng ban sự sống. Do Đức Giêsu không xuất hiện với mộtquyền lực to lớn, sự hiện diện của Người làm cho loài người chia rẽ nhau. Có những người đón nhận Người và chấp nhận sự trợ giúp của Người, được Người mở mắt và đi đến chỗ nhận biết thực tại trọn vẹn. Có những người khác lại loại trừ Người, nghĩ rằng họ đã biết mọi sự không cần Người và thế là họ thành đui mù thật sự. Khi mà thực tại đã trở nên ngày càng thấy rõ được, sự đui mù của những người ấy càng trầm trọng. Người Pharisêu muốn biết phải chăng điều này cũng đúng đối với họ. Họ đã xác định Đức Giêsu là một “kẻ tội lỗi” (9,24); bây giờ lại chính là Người đang mô tả lối xử sự của họ, mà gọi là “tội lỗi”, là thiếu sót đối với Thiên Chúa.

+ Kết luận
Đức Giêsu là ánh sáng cho trần gian trong tư cách là bao lâu Người còn ở trần gian, Người thực hiện những việc Chúa Cha giao phó cho Người (9,4-5). Người không phải là mộtánh sáng được áp đặt cho bất cứ ai không phân biệt. Điều ghi nhận được với người mù từ thuở mới sinh là nhờ Người, có những người trở thành thấy được và có những người lại trở nên đui mù (c. 39). Qua bảy cuộc gặp gỡ, trong đó Đức Giêsu chỉ có mặt ở lần đầu và hai lần cuối, ta thấy diễn ra mộttình huống đầy kịch tính và phong phú hậu quả. Từ việc chữa lành anh mù, từ những cuộc tranh luận với những người xung quanh Đức Giêsu và từ lời mạc khải về Đức Giêsu, người mù được dẫn đến chỗ thấy được hoàn toàn, tin và thờ phượng Đức Giêsu. Các đối thủ chỉ thấy Đức Giêsu là mộtngười tội lỗi, đã vi phạm Lề Luật và chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những gì Đức Giêsu đã làm và qua đó lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa được tỏ bày ra, đối với họ, lại là mộtcông trình chống lại Thiên Chúa. Ánh sáng làm cho người ta thấy Thiên Chúa, thấy Đấng Thiên Chúa sai phái và lễ dâng của Đấng ấy để cứu độ thế giới, lại làm cho mọi sự ra tối tăm đối với họ. Chỉ ai mở ra, ai chấp nhận được giáo huấn và hướng dẫn, mới có thể gặp Đức Giêsu và nhận được ánh sáng ban ơn cứu độ.

Như thế, chẳng phải là anh mù bẩm sinh hay cha mẹ anh ta là những người tội lỗi (x. c. 2t), nhưng những kẻ từ chối tin Đức Giêsu mới có tội (c. 40t). Một lần nữa, TM IV vượt xa hơn những tranh luận halakha (Midrash halakha là những lời giải thích các bản văn Kinh Thánh liên quan đến các bản văn luật pháp. Các Rabbi giải thích các khoản Luật ghi chép trong Kinh Thánh để dân chúng có thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật. Mỗi thời đại có hoàn cảnh sống khác nhau, vì thế các khoản luật cần được giải thích và thích nghi với hoàn cảnh mới) liên hệ đến luật sa-bát, để đưa độc giả đến chỗ chọn đứng về phía Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến, hay là chống lại Người.

5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay chúng ta có thể tự hỏi về thái độ của chúng ta khi đứng trước đau khổ của người khác. Chúng ta có tự hỏi là vì sao và do đâu mà có đau khổ này, hoặc mục đích của nỗi đau khổ này là gì chăng? Nhất là chúng ta có biết nhìn sự đau khổ của người khác như Đức Giêsu đã nhìn chăng? Không nên kết luận rằng những người phải khốn khổ là nạn nhân của mộtsố phận mù quáng. Một Kitô hữu chân chính không được nghĩ rằng Thiên Chúa trừng phạt người ta. Sớm hay muộn, Thiên Chúa sẽ làm rạng tỏ nơi họ quyền năng và lòng thương xót của Ngài (x. Rm 8,28).
2. Con đường anh mù đã rảo qua cho chúng ta hiểu cách thức Đức Giêsu hành động trong tư cách là “ánh sáng cho trần gian”. Người không chỉ hiện diện trên mặt đất, Người còn đi gặp loài người, chữa lành họ và dẫn họ đi tới, để họ thấy càng ngày càng rõ hơn là Người từ đâu đến và Người là ai. Dù sao, chúng ta cũng biết rằng không phải chính chúng ta sẽ bảo cho Đức Giêsu biết phải sống thế nào và phải làm gì. Chúng ta cần phải để cho Người chỉ cho biết Người là ai và Người muốn mang đến cho chúng ta điều gì.
3. Anh mù đã càng lúc càng hiểu rõ hơn việc anh được lành. Hôm nay tôi có thể tìm hiểu xem kinh nghiệm nào đã là khởi điểm để tôi hiểu Đức Giêsu ngày càng sâu xa hơn. Cần phải nhớ lại kinh nghiệm anh mù đã trải qua. Vì nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai phái, anh bị tống ra ngoài cộng đoàn; người ta đuổi anh như đuổi mộtkẻ tội lỗi. Cả cha mẹ anh cũng từ chối bảo vệ anh. Khi đó, niềm tin đưa đến hậu quả là sự cô đơn. Phải vượt lên trên nỗi sợ hãi, sự cả nể, mối bận tâm đến ý kiến của người đời, để có thể sống độc lập, và đi đến tự do chân chính.
4. Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Con người có khả năng tự làm mình ra đui mù, đưa ra những lý do để khỏi thấy, tạo ra cho mình những xác tín giả trá, từ chối mở mắt ra, mà lại nói là mình “đang thấy”. Ánh sáng rất đòi hỏi: nó bắt ta xét lại nhiều chuyện, từ bỏ nhiều thói quen, đôi khi phải đoạn tuyệt với cả mộtmôi trường. Bị đui mù mà biết nhìn nhận mình thiếu ánh sáng và không thấy, thì không phải là mộttội; nhưng tự hào là mình biết tất cả về Thiên Chúa và về thế giới và từ chối ánh sáng đến từ Thiên Chúa, điều này đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, nên là một tội.

22. Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện

(Suy niệm của Giuse Phạm Duy Thạch)
Tin Mừng ghi lại nhiều lần Đức Giêsu làm cho người mù được sáng mắt, nhưng làm cho “người mù từ thuở mới sinh” được sáng mắt thì chỉ có một lần duy nhất và chỉ có Tin Mừng thứ tư ghi lại.  là một tình trạng khốn cùng trong thời gian lâu dài và khó rõ căn nguyên. Tình trạng mù từ thuở mới sinh là nền cho câu hỏi nan giải của các môn đệ: “ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Danh ngữ “các môn đệ” (số nhiều) chứng tỏ đây là câu hỏi của một tập thể chứ không chỉ một vài cá nhân. Câu hỏi của các môn đệ phát xuất từ lối suy nghĩ chung của người Do thái vẫn còn tồn tại cho đến thời Đức Giêsu: Mọi bệnh tật hay mọi nỗi bất hạnh đều là hậu quả của tội lỗi của chính đương sự hay của cha mẹ đương sự.

Quan niệm này được trình bày rất rõ trong câu chuyện của ông Job được ghi lại trong sách Job (G 4,7-8). Thật ra, ngày nay người ta cũng có thể thấy một số trường hợp bệnh tật là do chính những lỗi lầm con người gây nên. Người ta cũng phát hiện nhiều căn bệnh bẩm sinh của các trẻ em do chính những sai lầm của cha mẹ của chúng gây nên hoặc do di truyền. Kitô giáo cũng thừa nhận nguồn gốc sự ác, sự xấu là từ tội lỗi của con người (1Cr 15,22). Tuy nhiên, trong trình thuật này Đức Giêsu không hề coi tình trạng của Anh mù là do hậu quả của tội. Ngài không chấp nhận bất cứ một phương án nào do các môn đệ đưa ra. Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đó là một lối trả lời hết sức lạ lùng. Câu trả lời này vừa giúp cho suy nghĩ của các môn đệ về đúng với quỹ đạo của nó, giải thoát cho các môn đệ khỏi một quan niệm tiêu cực vừa giúp cho anh mù thoát khỏi những cái nhìn soi mói, khinh bỉ của người đời.

Từ đầu đến giờ bệnh nhân chưa hề nói một lời nào, anh không xin chữa lành, chỉ có Đức Giêsu và các môn đệ nói về căn bệnh anh ta. Có thể anh ta cũng có cùng suy nghĩ với các môn đệ và những người Do thái khác: “mình bị mù từ thuở mới sinh có thể là do tội lỗi của cha mẹ mình hay ông bà mình”. Nếu thế, thì Đức Giêsu cũng bước đầu giải thoát cho anh khỏi cái suy nghĩ tiêu cực anh đang cùng với người khác khoác lên thân mình. Câu trả lời của Đức Giêsu thật tuyệt vời. Nó không những rũ bỏ tình trạng cùng cực của anh khỏi mọi ý nghĩ tiêu cực mà còn mặc lấy cho nó một ý nghĩa hết sức tốt đẹp: là phương tiện cho công trình Thiên Chúa được tỏ hiện. Từ một người tưởng chừng như không ngóc đầu lên nỗi anh bỗng được khoác lên vinh dự được cộng tác cách đặc biệt vào công việc của Chúa.

Công việc đó là công việc gì chưa biết, nhưng chắc chắn là một công việc hết sức khẩn thiết, cao trọng và có ý nghĩa đặc biệt đến sứ mạng của Đức Giêsu. Ngay sau đó Đức Giêsu đã tuyên bố: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy” (Ga 9,4). Động từ “phải” cho thấy tính chất khẩn thiết nếu không muốn nói là bắt buộc Đức Giêsu và các môn đệ phải làm. Việc ấy chắc rất cao trọng và tốt đẹp vì nó không phải của việc riêng của Đức Giêsu hay các môn đệ nhưng là việc của “Đấng đã sai Thầy”. Hơn nữa thực hiện công việc của Chúa Cha chính là lương thực của Đức Giêsu: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34). Ngoài ra, Đức Giêsu còn bộc lộ bản chất của mình khi nói: “Tôi là ánh sáng thế gian”.
Tất cả những đặc tính đó cho thấy Đức Giêsu không thể không làm dấu lạ này dẫu rằng Anh mù chưa từng lên tiếng van xin. Và dĩ nhiên, theo logic của câu chuyện thì việc gì đến ắt sẽ đến. Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ chữa lành anh mù từ thuở mới sinh.

Đến đây, câu hỏi của các môn đệ nhằm tìm căn nguyên của một căn bệnh đã chuyển sang chính công việc của Thiên Chúa qua bàn tay Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã lấy bùn làm từ nước bọt của Ngài và đất để xức vào mắt anh để anh có thể nhìn thấy lại.

Trong dấu lạ này có một chi tiết phụ nhưng lại rất lý thú. Sau khi đã xức bùn vào mắt anh mù, Đức Giêsu bảo anh đến rửa ở hồ Siloam, sau khi rửa thì anh nhìn thấy được. Tác giả ghi chú: Siloam có nghĩa là “người được sai phái”. Người được sai phái chính là một trong những danh hiệu mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng cho Đức Giêsu. Như thế, đến rửa ở hồ Siloam còn có một ý nghĩa ẩn dụ khác. Đó là rửa trong chính chính Đức Giêsu, người được Chúa Cha sai đến. Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là ánh sáng thế gian khi ban lại ánh sáng cho anh mù.

Dĩ nhiên, dấu lạ chữa lành anh mù lại chỉ là một tiền cảnh cho một dấu lạ khác có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Tiến trình chữa lành anh mù trải qua hai gian đoạn chính: (1) hành động của Đức Giêsu: xức bùn vào mắt anh; (2) hành động của chính anh mù: đi rửa ở hồ Siloam. Đó cũng chính là biểu tượng hai giai đoạn cho cuộc chữa lành nội tâm anh mù sau này.

Sau khi Đức Giêsu làm dấu lạ, Ngài dường như biến mất để  lại một mình anh mù đối diện với cuộc sống mới thường ngày của anh. Từ một người không ai để ý đến, hoặc chỉ để ý đến với cái nhìn coi thường và khinh bỉ anh bỗng trở nên một nhân vật nổi tiếng khắp kinh thành Giêsu-sa-lem trong những ngày sau đó. Anh đã phải đối diện và trả lời rất nhiều câu hỏi của nhiều nhóm người khác nhau về việc anh nhìn thấy được. Từ những người đi đường, những người xóm giềng, đến những chức sắc giáo hội như nhóm Pharisêu. Từ lúc nhìn thấy được, cuộc đời anh đâm ra rắc rối và trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi phải đối diện với nhiều nhóm người và phải trả lời nhiều câu hỏi như thế.

Tuy nhiên, tất cả những khó khăn vất vả xen lẫn niềm tự hào, hãnh diện ấy chính là những yếu tố hết sức cần thiết để anh từ từ “rửa trong người được sai phái” để rồi đạt được kết quả tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Những rắc rối những ngày sau đó đã làm cho anh từng bước nhận ra Con Người (Đức Giêsu) là ai trong cuộc đời mình. Tác giả Tin Mừng đã mô tả hết sức tài tình từng bước khám phá Đức Giêsu của Anh mù.

Bước thứ 1: Trước những chất vấn của “những người láng giềng” (Ga 9,8) và “những người khác” cũng như “những người khác nữa” (Ga 9,9), Anh chỉ cho biết “Người đó tên là Giêsu”.

Bước thứ 2: Trước những chất vấn của những người Pharisêu, Anh ta tiến xa hơn một bước khi nói: “Người ấy là một ngôn sứ” (Ga 9,17).

Bước thứ 3: Một loạt những biện luận rất hợp lý của Anh để chứng minh cho nhóm Pharisêu và người Do thái biết: Đức Giêsu không phải là người tội lỗi (Ga 9,25) vì Thiên Chúa đã lắng nghe Ngài cầu xin (Ga 9,31) và Ngài đã làm được dấu lạ chưa từng thấy: “mở mắt cho người mù từ khi mới sinh” (Ga 9,32). Loạt biện luận ấy dẫn đến kết luận của chính Anh mù: Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (Ga 9,33). Những lời biện luận mạnh mẽ và đầy thuyết phục ấy đã khiến Anh phải trả một giá quá đắt: “họ trục xuất anh ta” (Ga 9,34). Bị trục xuất khỏi hội đường là nỗi ám ảnh rất đáng sợ cho các tín hữu thời sơ khai. Chính vì thế mà cha mẹ Anh mù đã không dám nói gì về sự kiện Anh được chữa lành mà chỉ xác nhận là trước kia anh ta bị mù. Tác giả lý giải nguyên nhân của thái độ này là vì họ “sợ những người Do thái”. Quả thế, những người Do thái quyết định: Những ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô thì sẽ bị trở thành “người bị khai trừ khỏi hội đường” (Ga 9,22). Không giống như cha mẹ của mình, Anh mù đã mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình về Đức Giêsu. Đó chính là nguyên cớ khiến cho Anh bị trục xuất. Và đó cũng chính là cơ hội để cho anh đi đến bước cuối cùng trên chặng đường khám phá Đức Giêsu.

Bước thứ 4: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không? Khi đã biết Con Người chính là “người đang nói với anh” (Ga 9,37) anh ta đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” rồi “bái lạy Người” (Ga 9,38).

Hành trình tìm kiếm Đức Giêsu của Anh mù được tóm gọn lại như sau: “Người đó tên là Giêsu”  “Người ấy là một ngôn sứ”  “Người ấy đến từ Thiên Chúa”  “Thưa Ngài, tôi tin”  “bái lạy Người”.

Tin vào Đức Giêsu là điều rất quan trọng trong thần học Tin Mừng thứ tư bởi lẽ nó sẽ là yếu tố quyết định cho sự sống còn hay hư mất của một con người: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36).

Như vậy, hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Việc tuyên xưng niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù được chữa trị tận căn bệnh của mình. Đức Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn thấy con đường dương gian, nhưng trên hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.

Tạm kết
Dấu lạ chữa lành “anh mù tử thuở mới sinh” cho thấy một lối nhìn rất mới mẻ, đầy tích cực của Đức Giêsu trước những đau khổ bệnh tật. Thiên Chúa không hề muốn cho người ta đau khổ nhưng quả thật Ngài có thể “viết thẳng trên những đường cong”; Ngài có thể mặc cho đau khổ những giá trị thật cao vời. Đau khổ mà con người đang mang có thể trở nên một cơ hội tốt để Thiên Chúa làm công việc của Ngài. Thật vậy, việc chữa anh mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu đã cho thấy điều ấy. Có thể nói Đức Giêsu đã từng bước đưa anh từ trong đau khổ tối tăm bước ra cuộc đời đầy ánh sáng huy hoàng.

Lương thực của Đức Giêsu chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”  Tất cả những ai đang chịu gánh nặng của những đau khổ thể xác và đang ở trong sự mù loà về đức tin đều là đối tượng mà Đức Giêsu tìm kiếm và cứu chữa. Tất cả những cứu chữa bệnh tật của Ngài chỉ nhằm một điều: giúp cho người ta nhận biết Ngài, tuyên xưng niềm tin vào Ngài để được sự sống đời đời.


Dấu lạ chữa lành “anh mù từ thuở mới sinh” (9,1-38) cùng với dấu lạ “cho anh La-za-rô sống lại” (11,1-44) là hai dấu lạ cuối cùng, đánh dấu đỉnh điểm công trình của Đức Giêsu qua việc thực thi các dấu lạ. Hai dấu lạ này tỏ lộ rất rõ ràng hai vai trò của Đức Giêsu: là ánh sáng thế gian và là sự sống của thế gian. Cả hai được tóm lại trong câu tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8,12).
Previous Post Next Post