
Suy Niệm: Ðức Maria Ban Chúa Cứu Thế
Truyền thống vẫn gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Ðức Mẹ. Bài sách tiên tri Isaia nói về một Trinh nữ sẽ sinh con trai. Và bài Tin Mừng kể chuyện về việc Ðức Maria mang thai. Như vậy, Phụng vụ muốn ta suy nghĩ về việc Ðức Mẹ ban Chúa Cứu Thế cho chúng ta và chúng ta hãy đón nhận Người.
A. Ðức Maria Ban Chúa Cứu Thế
Thật ra, bài tiên tri Isaia không trực tiếp nói về Ðức Mẹ và Chúa Cứu Thế. Các học giả bàn nhiều về đoạn văn vắn tắt này. Ðại khái bối cảnh của đoạn văn như sau: Akkaz bấy giờ là vua xứ Yuđa. Mấy vua phía Bắc lăm le xâm lăng xứ sở của ông. Ông sợ hãi. Thay vì trông cậy vào Chúa, ông lại chỉ nghĩ đến việc xin viện trợ nước ngoài. Isaia đến can gián ông, khuyên ông tin tưởng vào Chúa. Ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Ðồng thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập các đền thờ quấy, đến nỗi thiêu sinh cả con mình để làm lễ tế. Isaia đến can thiệp lần nữa. Và để bảo đảm lời khuyên của mình, nhà Tiên tri giục vua cứ xin một dấu chỉ, dù ở trên trời hay ở dưới đất: tức là nhà vua xin dấu chỉ nào, Chúa cũng sẽ cho để làm chứng rằng lời tiên tri nói là thật. Nhưng nhà vua vốn không tin Chúa. Vua lại sợ xin được dấu chỉ sẽ phải tin lời tiên tri và phải từ bỏ tà thần để sống trung thành với Chúa. Ông giở giọng đạo đức, nói rằng loài người không nên thử thách Thiên Chúa, cốt ý để ông khỏi phải nghe Lời Chúa dạy. Isaia bực mình, coi nhà vua như dân ngoại rồi. Ông nói: làm loài người khó chịu thôi chưa đủ sao mà còn làm cực lòng Chúa tôi? Chúa tôi, chứ không phải là Chúa của các ông nữa, Isaia muốn nói như thế. Tuy nhiên, chẳng ai cưỡng lại được lệnh Chúa: Này, Chúa sẽ cho nhà Ðavít một dấu chỉ: Cô Nương sẽ sinh con trai và Danh Người là Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Ðây là một sự vô cùng bất ngờ. Người ta cứ tưởng dấu chỉ mà Chúa sẽ cho là một điềm dữ vì thái độ của Akkaz như vậy. Nhưng ngược lại đây là một điềm lành, một dấu chỉ vô cùng quý hóa. Nhà Ðavít sẽ có thái tử kế vị và vị hoàng đế này sẽ đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa sẽ ở giữa dân. Như vậy không phải lo gì chiến tranh. Tương lai của Yuđa còn đó vì sau nhà vua này vẫn còn hoàng tử kế vị. Hơn nữa vị Vua tương lai sẽ được Chúa ở cùng và dân chúng sẽ được hạnh phúc.
Mà quả thật, các vua phương Bắc đã phải rút quân. Akhaz có hoàng tử kế vị là Ezêkia. Thoạt đầu nhà vua này rất đạo đức, khiến cả nước đều vui mừng. Nhưng về sau, ông đã tội lỗi, sa ngã... Như vậy ông chưa ứng dụng hết lời tiên tri. Có lẽ ngay từ cuối đời Isaia, người ta đã nghĩ lời tiên tri kia còn phải đi xa hơn nữa và phải đưa về Ðấng Cứu Thế. Do đó lời Isaia đã trở thành lời tiên báo về Ðấng Thiên Sai, mặc dầu gần thì đưa về E�zêkia. Và truyền thống Tân Ước đã mau mắn dùng bản dịch HyLạp để đọc chữ "Cô Nương" trong lời tiên tri trên là "Trinh Nữ". Và từ đó ta có câu: "Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh một Con Trai, được gọi tên là Emmanuel".
Ðặt trong bối cảnh của lịch sử, lời tiên tri này nói lên lòng Chúa tốt lành nhường bao! Ðang khi loài người, (như Akkaz vua Yuđa) tội lỗi và khước từ mọi cố gắng yêu thương cứu giúp của Chúa, Chúa đã không giận dữ, nhưng vẫn dự tính chương trình cứu chuộc đầy tình thương, không thể ngờ được.
B. Chúng Ta Ðón Nhận Thế Nào?
Chắc chắn không ai muốn bắt chước Akkaz. Nhưng trong thực tế nhiều người đã theo đường lối của ông. Thiên Chúa đã ban cho ta một Hài Nhi. Nhiều người không nhận, vì sợ phải bỏ nếp sống cũ. Lễ Giáng sinh sắp đến nhắc lại Ân ban của Chúa. Chúng ta sẽ đón nhận thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay nêu cho chúng ta một gương mẫu. Chúa dạy Yuse hãy nhận lấy Maria và Con Trẻ. Câu truyện xem ra có nhiều điều khó hiểu. Chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh và ý của thánh Matthêô khi viết bài này.
Ai cũng biết, các tín hữu thời Giáo hội sơ khai không quan tâm nhiều lắm đến cuộc đời thơ ấu của Ðức Kitô. Họ tin Ngài đã sống lại sau khi chết. Việc này làm chứng Ngài là Người Thiên Chúa Cha gửi tới, và là Thiên Chúa. Do đó phải nghe Lời Ngài, giữ lệnh Ngài và chờ đợi Ngài và chờ đợi Ngày Ngài trở lại. Thánh Matthêô, khi viết quyển Tin Mừng, cũng chỉ quan tâm trình bày những điều ấy. Và để cho người Dothái hiểu: Ðức Kitô thực sự là Ðấng Thiên Sai do Chúa Cha gởi tới, ngài phải làm chứng Ðức Kitô là con vua Ðavít. Thế mà ngài lại biết Ðức Kitô đã không sinh bởi ý muốn nam nhân, nhưng do tự Thiên Chúa Cha. Ðức Kitô chỉ có một người mẹ đồng trinh như lời Isaia đã tiên báo. Làm thế nào để có thể nói Ngài là Con Vua Ðavít? Thánh Matthêô đã phải tìm hiểu. Và bài Tin Mừng hôm nay là kết quả. Yuse, thuộc dòng dõi Ðavít đã đính hôn với Maria. Maria được chọn, được truyền tin. Yuse thắc mắc. Sứ thần Chúa hiện ra báo tin cho Yuse. Một người công chính chờ đợi Ðấng Thiên Sai như ông lập tức chỉ còn một thái độ: hân hoan đón nhận tin mừng; được tin này là được tất cả: không gì ở trần gian này còn đáng kể nữa; từ nay chỉ còn sống cho Tin Mừng, vì như lời Ðức Kitô nói sau này: Ai tìm được Nước Trời rồi sẽ bán tất cả, cho đi tất cả để nhận lấy Tin Mừng, sống với Tin Mừng, hy sinh cho Tin Mừng. Thế nên thánh Matthêô đã không cần kể chuyện dài dòng. Những thắc mắc của ta, của những con người ít đạo đức, có thể nói là tiểu nhân thích để ý đến những chi tiết nhỏ mọn và bỏ rơi điều chính yếu, những thắc mắc của ta liên quan tới liên hệ giữa Maria và Yuse đã không được Matthêô gợi đến. Ta hãy theo gương thánh nhân: nhìn vào điểm chính yếu và Tin Mừng Chúa gởi đến cho ta. Qua miện sứ thần, Chúa báo tin: "Một Trinh Nữ sẽ sinh cho ta một Con Trai". Nghe tin ấy, Yuse đã đón nhận ơn cứu độ hằng chờ mong. Và nhờ việc ông đón nhận, và lãnh trách nhiệm đặt tên cho Con Trẻ, nhận Con Trẻ là con của mình, Ðức Kitô trở thành Con vua Ðavít như lời các tiên tri đã loan báo. Yuse thấy mình gần Maria hơn, hiệp nhất với nhau hơn cả những đôi bạn uyên ương, vì cả hai đã đồng thân đồng phận, trở thành dụng cụ cho chương trình của Thiên Chúa, được là những người đầu tiên lãnh nhận Lời Hứa từ bao ngàn năm để đem lại cho loài người. Chỉ những ai không hiểu giá trị ơn cứu chuộc và không đánh giá đúng mức tinh thần của Yuse và Maria, mới còn nêu ra những câu hỏi vụn vặt. Ngược lại, ai coi việc Chúa ban Ơn Cứu Ðộ là lớn, là hạnh phúc vượt quá mọi hạnh phúc và bao gồm hết thảy mọi phúc lộc, sẽ bắt chước Maria và Yuse, từ bỏ mọi sự, hy sinh mọi sự để đón nhận Ơn Chúa và cho đến chết sẽ chỉ còn biết sống cho Ơn đó.
C. Thái Ðộ Thực Tế
Lễ Chúa Giáng sinh đã gần đến. Chúng ta muốn đón nhận Chúa sâu xa ư? Hãy theo gương Ðức Maria và thánh Yuse. Lấy Chúa làm đủ và sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa. Và như Ðức Maria góp máu thịt với Ngôi Lời, như Yuse giúp Chúa trở thành Con vua Ðavít, chúng ta phải làm gì để đưa Chúa vào thế gian, vào xã hội? Mà thế gian, xã hội trước hết là con người và đời sống của ta. Nếu Chúa ngự trị trong con người của ta hơn, khi ta xua đuổi mọi tâm tư, cảm nghĩ, khuynh hướng xác thịt và thế gian đi, Chúa sẽ nhập thế nơi ta vì ta đã trở thành Kitô hữu nhiều hơn. Và nếu thái độ, hành vi của ta nơi xã hội chiếu tỏa tinh thần của Chúa, xã hội sẽ thấy Ơn Chúa hiện đến với mọi người và ta sẽ như Yuse đưa Chúa vào dòng dõi loài người.
Chúng ta không cần đợi đến lễ Giáng sinh để đón nhận Chúa và sống cho Chúa như vậy.
Thánh lễ cử hành bây giờ cũng ban cho chúng ta một Hài Nhi. Nếu ta đón nhận như Ðức Maria và thánh Yuse, ra khỏi nhà thờ hôm nay ta có thể coi mình như một Phaolô: tôi đã được chọn làm Tông đồ của Ðức Yêsu Kitô. Ngài là Lời Hứa từ ngàn xưa, đã nhập thế trong lòng Ðức Maria và đã sinh ra là Con vua Ðavít nhờ thánh Yuse. Nay Ngài dùng tôi và đời sống của tôi đem Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người, để tất cả chúng ta đều trở nên thánh thiện và chứa chan ơn lành và bình an.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm A
Bài đọc: Isa 7:10-14; Rom 1:1-7; Mt 1:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng nghi ngờ hay bất tuân lệnh của Thiên Chúa.
Con người có khuynh hướng làm theo những gì mình suy nghĩ, và áp dụng những gì mình suy nghĩ vào cho Thiên Chúa. Nếu họ nghĩ chuyện đó không thể làm được, họ kết luận Thiên Chúa cũng không thể làm được. Khi suy nghĩ như thế, con người đã hạ Thiên Chúa xuống ngang hàng với con người; và như một hậu quả, con người bất tuân lệnh của Ngài, và dần dần, họ cũng chẳng cần đến Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những mẫu gương vâng lời và bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, vua Ahaz của Judah bất tuân lệnh Thiên Chúa đi cầu cứu với vua Assyria để xin sự bảo vệ; vì Vua không tin Thiên Chúa có sức mạnh đủ để bảo vệ Judah khỏi tay Ai-cập.
Trong Bài Đọc II, Phaolô, sau khi được Đức Kitô mặc khải trên đường đi Damascus, đã nhận ra Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô và cho mọi dân tộc. Kể từ đó, ông không ngừng rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, thánh Giuse không hiểu nổi cuộc thụ thai kỳ lạ của Đức Trinh Nữ Maria, nên toan lìa bỏ Đức Mẹ cách kín đáo; nhưng thiên thần hiện đến với Giuse trong giấc mộng, và cho ông biết sự thụ thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Thiên thần lặp lại lời tiên-tri của ngôn sứ Isaiah trong Bài Đọc I để soi sáng cho Giuse hiểu cuộc mang thai cách mầu nhiệm này. Khi tỉnh dậy ông làm theo ý định của Thiên Chúa và nhận Maria về nhà làm bạn mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đừng bất tuân lệnh của Thiên Chúa.
1.1/ Vua Ahaz bất tuân lệnh Thiên Chúa: Chúng ta phải hiểu hoàn cảnh lịch sử thì mới hiểu trình thuật của Isaiah hôm nay: Ahaz là vua Judah. Sau khi vương quốc miền Bắc bị rơi vào tay quân thù Assyria, ông sợ hãi và muốn sai sứ giả sang triều cống và cầu cứu với vua Assyria để được bảo vệ. Thiên Chúa sai tiên-tri Isaiah đến khuyên nhà vua không được làm như thế; Vua chỉ cần tin vào Thiên Chúa, Ngài có thể bảo vệ vương quốc Judah khỏi tay mọi quân thù. Vua không tin Thiên Chúa có thể bảo vệ, nên cứ sai sứ giả sang cầu cứu với vua Assyria. Khi biết Vua bất tuân lệnh Thiên Chúa, tiên-tri Isaiah vào hoàng cung để đối chất với vua Ahaz, và chúng ta có trình thuật của Isaiah hôm nay.
Một lần nữa Đức Chúa phán với vua Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." Đây là sự khiêm nhường giả tạo: Nếu muốn biết Thiên Chúa uy quyền thế nào, tại sao vua Ahaz không dám mở miệng xin. Lời của vua Ahaz chứng tỏ ông không kính sợ và làm theo ý Thiên Chúa; nhưng chỉ nhát đảm để rồi làm theo ý riêng mình. Hậu quả là toàn vương quốc miền Nam bị rơi vào tay quân đội của vua Babylon. Chúng phá hủy Đền Thờ và đem tất cả vua quan và dân chúng đi lưu đày.
1.2/ Lời tiên báo về hoàn cảnh của Đấng Thiên Sai ra đời: Tuy Ahaz không xin nhưng Thiên Chúa vẫn cho. Ông Isaiah bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà David! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Immanuel." Động từ "làm phiền" đồng nghĩa với bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Dấu lạ vĩ đại của Thiên Chúa là Ngài sẽ ban cho nhân loại Đấng Thiên Sai qua sự mang thai mà vẫn còn đồng trinh của một trinh nữ (parthenos trong bản Hy-lạp, LXX, và almah trong bản Do-thái, MT).
+ Các học giả tranh luận: Từ almah chỉ được dùng ba lần trong Cựu Ước vừa có nghĩa tổng quát là một thiếu nữ, vừa có nghĩa là một trinh nữ; nếu muốn chỉ sự đồng trinh, người ta sẽ dùng danh từ betulah, xảy ra 14 lần trong Cựu Ước. Isaiah cũng dùng 3 lần danh từ betulah (Isa 23:12, 27:32, 47:1).
+ Ý kiến chúng tôi: Tiên-tri Isaiah muốn ám chỉ một trinh-nữ, vì ba lý do sau:
(1) Kinh Thánh: Hai lần khi bản MT dùng almah (Gen 24:43 và Isa 7:14), bản LXX đều dùng parthenos. Chỉ có một lần bản LXX dùng từ neanis để dịch almah là trong (Exo 2:8), khi chị của Moses được công chúa của vua Pharao sai đi mời mẹ của Moses đến. Chị của Moses trong trường hợp này cũng có thể là một trinh nữ, vì theo văn mạch là người vẫn còn nhỏ tuổi. Như thế, Isaiah có thể dùng từ đồng nghĩa ở đây, almah, để chỉ một trinh nữ.
(2) Văn mạch: Hơn nữa, theo văn mạch, Thiên Chúa muốn cho con người một dấu lạ vĩ đại - nếu một thiếu nữ có chồng mà sinh con là chuyện thường tình xảy ra, đâu còn gọi là dấu lạ nữa.
(3) Truyền thống: Khi thánh sử Matthew trích dẫn lời ngôn sứ Isaiah, ông dùng từ parthenos, có ý muốn nói một trinh nữ.
2/ Bài đọc II: Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh.
Để hiểu bắt đầu trình thuật của Thư Rôma hôm nay, một người phải nhớ lại biến cố ngã ngựa của Phaolô trên đường đi Damascus. Trước đó, Phaolô không tin Đức Kitô cần thiết trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và ông cũng không tin Dân Ngoại có thể được cứu độ. Như phần đông người Do-thái, ông tin chỉ cần giữ Lề Luật là đủ để được cứu độ, và ơn cứu độ chỉ dành cho người Do-thái. Nhưng sau khi được Đức Kitô mặc khải, Phaolô thay đổi niềm tin hoàn toàn: ông tin và được chọn để rao giảng Đức Kitô cho Dân Ngoại. Đây là hai điều mà Phaolô đề cập tới trong trình thuật hôm nay.
2.1/ Phaolô được kêu gọi để rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô: Ông xác tín niềm tin vào Đức Kitô, vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng, và vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng của ông: "Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng."
2.2/ Tin Mừng được loan truyền cho tất cả Dân Ngoại: Phaolô tin Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa có hai giai đoạn: (1) Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để chuẩn bị cho Đức Kitô ra đời, và (2) khi Đức Kitô đến, Tin Mừng Cứu Độ được mở rộng đến các Dân Ngoại. Phaolô được tuyển chọn bởi chính Đức Kitô để loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại: "Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các Dân Ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu Kitô. Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an."
3/ Phúc Âm: Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ.
3.1/ Cuộc thụ thai khó hiểu của Maria: Thánh-sử Matthew tường thuật cuộc thụ thai của Maria: "Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo."
Theo trình thuật này, một người có thể nhận ra ngay hai điều quan trọng:
(1) Maria mang thai không phải bởi Giuse: Khi Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo, ông xác nhận điều này, vì Giuse là người công chính.
(2) Maria mang thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Hai lần trong trình thuật hôm nay, thánh sử Matthew đề cập đến sự thụ thai là do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Lần đầu bởi chính thánh-sử, và lần thứ hai bởi sứ thần của Thiên Chúa.
3.2/ Sự việc xảy ra để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaiah: Khi Giuse đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Trình thuật nhấn mạnh: "Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Immanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."" Mặc dù là trong giấc mơ, nhưng sứ thần Thiên Chúa muốn Giuse được củng cố bởi lời của ngôn sứ Isaiah, đã được loan báo hơn 600 năm trước. Vì thế, khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón Maria về nhà.
3.3/ Tranh luận về vấn đề đồng trinh của Đức Mẹ: Từ thời Giáo Hội sơ khai đến nay, thời nào cũng có những người không tin vào tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đối với họ, một phụ nữ không thể sinh con mà còn đồng trinh. Chúng ta có thể căn cứ vào 5 lý chứng sau đây để xác tín vào sự đồng trinh của Đức Mẹ:
(1) Lời ngôn sứ Isaiah đã tiên báo gần 600 năm trước khi Đức Kitô sinh ra. Chúng ta đã phân tích từ ngữ và văn mạch trong Bài Đọc I.
(2) Trình thuật của Tin Mừng Matthew hôm nay hai lần nói tới việc thụ thai của Chúa Giêsu là do ý định của Thiên Chúa và do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
(3) Chính Giuse, chồng của Maria cũng xác nhận việc thụ thai là không do ông; vì thế, ông toan tính lìa bỏ Maria cách kín đáo.
(4) Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự: không điều gì Ngài không thể làm được.
(5) Việc thụ thai như thế nên làm; vì Đức Kitô là Thiên Chúa thánh thiện, không thể vương vấn tội nhơ.
Ai tiếp tục chất vấn sự đồng trinh của Đức Mẹ, người ấy cũng chẳng khác gì vua Ahaz, luôn nghi ngờ uy quyền của Thiên Chúa. Những người này chỉ tin vào sự lý luận khôn ngoan của mình và tiếp tục "làm phiền" Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chúng ta bị giới hạn rất nhiều trong sự hiểu biết; vì thế, chúng ta đừng bao giờ ngoan cố trong sự cố chấp của mình, nhưng phải biết mở lòng để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.
- Chúng ta cũng đừng bao giờ áp dụng những gì chúng ta suy luận vào cho Thiên Chúa, vì Ngài rất khác và uy quyền hơn chúng ta gấp bội. Khi không hiểu mặc khải của Thiên Chúa, chúng ta hãy khiêm nhường xin Thánh Thần soi sáng, thay vì kiêu ngạo cho là chuyện không thể xảy ra.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP