Headlines
Loading...
Chúa Nhật I Mùa Vọng Năm A

Chúa Nhật I Mùa Vọng Năm A

Chúa Nhật I Mùa Vọng Năm A
(Phần I)

Giới Thiệu Mùa Vọng:

1. Năm Phụng Vụ:

Thiên Chúa đã có một chương trình, một kế hoạch đối với vũ trụ nói chung và loài người nói riêng. Nói đúng hơn, Người dự tính cho loài người một lịch sử thật tốt đẹp và xếp đặt mọi sự theo quan niệm đó. Dự liệu của Người được trải ra trong thời gian. Và từ ngày đầu tiên tạo thành thiên địa cho đến ngày thế mạt được gọi là Lịch Sử Cứu Ðộ.

Giáo hội muốn chúng ta sống Lịch sử này trong chu kỳ một năm Phụng vụ. Từ lễ này qua lễ kia, Phụng vụ của Giáo hội trải ra cho chúng ta thấy chương trình và kế hoạch cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa; để chúng ta đón nhận ơn lành Chúa ban, đem lịch sử cứu độ vào trong tâm hồn và đời sống của mình, hầu được cứu chuộc và tham gia và chương trình cứu thế.

2. Các Mùa Phụng Vụ:

Năm Phụng vụ bắt đầu từ hôm nay, với Chúa nhật I Mùa Vọng. Vì sao lại khởi sự vào một ngày mà xã hội không thấy có gì khác thường? Lịch sử cho biết, ngay từ đầu, Giáo hội đã mừng ngày Chúa Phục sinh, tức là các ngày Chúa nhật và đặc biệt ngày Chúa nhật Phục sinh. Biến cố Phục sinh là khởi điểm của niềm tin, lòng cậy và tình mến của Giáo hội đối với Ðức Kitô. Mừng biến cố này một hôm, Giáo hội không lấy làm thỏa mãn. Các ngày Chúa nhật nhắc lại cũng không đủ. Mầu nhiệm Phục sinh không những gồm việc Chúa sống lại, mà còn bao hàm việc Người lên trời và ban Thánh Thần xuống. Nên Mùa Phục Sinh kéo dài mãi tới ngày lễ Ngũ Tuần, tức là 50 ngày sau khi Chúa sống lại, ngày Thánh Thần xuống chan hòa trên các môn đệ Chúa.

Ðể các tín hữu dọn mình đón nhận các ơn phong phú của mầu nhiệm Phục sinh, và nhất là để các tân tòng chuẩn bị sâu sắc việc nhập đạo, trở thành Dân được cứu chuộc nhờ mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại, Giáo hội đã đặt ra Mùa Chay, gồm 4 tuần lễ và Mùa Tử Nạn, gồm 2 tuần lễ, trước lễ Phục sinh. Suýt soát tất cả 40 ngày nhắc lại việc Chúa chay tịnh 40 ngày trước khi ra đi cứu thế. Tuần lễ I của Mùa Tử nạn, vì cử hành những mầu nhiệm thánh thiện nhất của lịch sử cứu độ, nên được gọi là Tuần lễ Thánh.

Như vậy, trong nhiều thế kỷ đầu, Giáo hội chỉ chú trọng đến mầu nhiệm Phục sinh, bao gồm mọi mầu nhiệm khác trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cho mãi tới thế kỷ VI, Phụng vụ mới dứt khoát chọn một mầu nhiệm nữa làm một cái trục thứ hai để khai triển, dẫn vào mầu nhiệm Phục sinh. Ðó là mầu nhiệm Chúa Nhập Thể cứu đời. Lễ Sinh nhật và Hiển linh của Ðức Kitô trở thành một Mùa Phụng vụ mới, gọi là Mùa Giáng Sinh và Hiển Linh. Và cũng như Mùa Phục sinh đã được chuẩn bị bằng một số tuần lễ làm thành Mùa Chay và Mùa Tử nạn, thì Mùa Giáng sinh - Hiển linh cũng được sửa soạn bằng 4 tuần lễ Mùa Vọng, mà mục đích cũng là để chuẩn bị tâm hồn tín hữu và giúp đỡ tân tòng chịu phép Rửa tội.

Nhưng đang khi biến cố Phục sinh rõ rệt đã xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua của người Dothái, việc Chúa giáng sinh vào đúng ngày nào, ai mà biết rõ? Vậy vì sao lại chọn ngày 25 tháng 12 để xếp đặt Mùa Giáng sinh và Mùa Vọng như hiện nay?

3. Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh:

Thực ra, lúc đầu người ta chỉ chú trọng đến việc Chúa chịu chết và sống lại, vì là hành vi dứt khoát cứu chuộc chúng ta. Ðến khi muốn biết rõ ngày nào Chúa sinh ra, Ðức Mẹ đã về trời rồi, không còn chứng nhân chắc chắn nào để hỏi nữa. Nhưng không thể không có ngày giờ Chúa sinh ra. Chọn ngày giờ nào thích hợp hơn cả? Ở Ðông phương, người ta tính Ðông chí là ngày 6 tháng 1; còn ở Tây phương, đó lại là ngày 25 tháng 12. Cả Ðông Tây đều mừng rỡ trong ngày Ðông chí, ngày mùa Ðông xuống đến điểm cuối cùng, và mặt trời lại bắt đầu đi lên quỹ đạo, đem ánh sáng mới sưởi ấm trần gian sau những ngày đông lạnh buốt. Tạo vật bắt đầu hồi sinh. Sự sống mới lại xuất hiện, ngày Ðông chí thật thích hợp để kỷ niệm ngày Chúa đem sự sống mới xuống thế gian. Lương dân quý mến ngày đó đến nỗi hân hoan mừng rỡ chào đón mặt trời đi lên như vị thần đem sự sống đến cho loài người. Và như trong các cuộc liên hoan quá độ, không thiếu những hành vi say sưa, dâm dật không tốt đẹp. Giáo hội muốn con cái mình "luôn vui với người vui", nhưng không muốn có những lạm dụng. Không được thờ mặt trời, vì không phải là thần thánh mà chỉ là tạo vật. Không được say sưa tửu sắc. Chúa mới là Mặt Trời Công Chính; và ánh sáng của Người mọc lên phải đuổi xa tội lỗi và băng hoại. Thế là ngày 25 tháng 12 được chọn ở Tây phương để mừng Ngày Chúa Giáng Sinh; còn Ðông phương chọn ngày 6 tháng 1 để mừng Chúa Hiển Linh khi cho Ngôi Sao của Người mọc lên trên nền trời phía Ðông. Nhưng Giáng sinh cũng là Hiển linh và câu chuyện Ngôi Sao lạ hiện ra ở Ðông phương cũng gắn liền với việc Chúa Giáng sinh. Giáng sinh - Hiển linh làm thành một Mùa Phụng vụ; và 4 tuần lễ đi trước là Mùa Vọng để chuẩn bị tâm hồn tín hữu và giáo huấn tân tòng.

4. Thực Hành Thế Nào?

Khỏi nói đến việc dạy dỗ tân tòng. Theo lịch sử và xếp đặt của Phụng vụ, Mùa Chay mới là thời gian chuẩn bị chính để tân tòng chịu thanh tẩy. Nhưng Mùa Vọng cũng đã được coi như giai đoạn phụ. Lễ Ðêm Giáng sinh thật thích hợp để người tân tòng thấy họ được "kéo ra khỏi nơi tối tăm và đưa vào trong Nước ánh sáng của Chúa". Chọn Mùa Vọng để khởi sự giáo huấn tân tòng cho đến Ðêm Phục sinh, lại càng quý hóa, vì họ sẽ có thời gian tập sống đạo dài hơn. Dĩ nhiên chúng ta đã biết phải dạy dỗ tân tòng như thế nào rồi.

Việc chuẩn bị tâm hồn đón nhận mầu nhiệm Giáng sinh, thực tế có thể khó hơn, vì sẽ đòi cá nhân chúng ta phải cố gắng đối với chính mình. Ðừng đơn sơ nghĩ rằng chỉ cần đi xưng tội, dọn mình mừng lễ là xong! Quả thật, Phụng vụ dùng lễ phục màu tím để nói lên thời giờ thống hối ăn năn. Nhưng các Thánh ca và Kinh lễ Mùa Vọng lại chứa chan những cảm tình nồng nhiệt, phấn khởi. Nhất là từ ngày 17 tháng 12 trở đi, thời gian đầu tiên chuẩn bị lễ Giáng sinh, với các tiền khúc bắt đầu bằng tiếng "Ôi", Phụng vụ chỉ muốn đốt to dần dần ngọn lửa tình yêu nồng nàn đi đón Chúa Cứu Thế mỗi ngày mỗi tới gần.

Như vậy tâm tình chính phải phát triển trong Mùa Vọng là tình yêu. Người tín hữu hãy đốt lửa lòng mình lên để khao khát Chúa hơn. Không phải để rồi khư khư giữ lấy Chúa cho thỏa mãn khát vọng của mình. Nhưng vì Chúa đến với chúng ta là Cứu Chúa, nên người tín hữu phải khao khát Chúa Cứu Thế, Ðấng đến cứu mình khi cứu chuộc mọi người. Do đó không thể chờ đón Người một cách riêng rẽ. Phải chia sẻ tâm tình trông đợi với mọi người. Phải khơi dậy cả một niềm tin yêu cứu thế trong môi trường mình sống. Mùa vọng tự bản chất không phải là mùa đạo đức cá nhân riêng rẽ, nhưng là mùa sống tập thể, vừa truyền giáo vừa công giáo.

Huấn giáo, sửa mình, tin yêu, bác ái là những công tác lớn của Mùa Vọng. Chúng ta đọc Lời Chúa để tu thân hầu mến Chúa và thương người hơn thì Nước Chúa không những sẽ tới mà còn lan rộng. Mầu nhiệm Chúa Nhập thể giáng thế cứu đời đã xảy ra ngày trước trong lịch sử, sẽ như dội lại ở nơi ta, đem ơn cứu độ lan xa hơn như làn sóng, để sang năm bằng giờ lại cuộn lên, lấy đà đổ xuống mang ơn cứu thế đi xa hơn nữa, cho đến mút cùng địa cầu, để cuối cùng ở chân trời thế mạt Ðức Kitô sẽ lại xuất hiện như Vừng Ðông, tỏa sáng vinh quang trên toàn thể vũ trụ và đặc biệt trên cả nhân loại được cứu độ, thiết lập Nước Trời hạnh phúc vĩnh cửu, cho Vinh Danh Chúa Cha đã xếp đặt một kế hoạch cứu độ tốt đẹp như vậy.
5. Các Chúa Nhật Mùa Vọng Năm A:

Tổng quát:

Danh từ Mùa Vọng đúng về ý nghĩa, nhưng cần giải thích. Nôm na mà gọi thì đây là "Mùa Chúa Ðến" (bởi chữ Adventus, advenire là đến). Danh từ này, các tín hữu ngày xưa có lẽ đã mượn của dân ngoại. Thời đó ở Tây phương (cũng giống như ở Việt Nam) và lúc Ðông chí hay sang Xuân, dân ngoại có thói quen rước thần hoàng. Ðó là ngày thần đến ở với dân làng trong suốt năm. Nhưng Chúa chúng ta không chỉ đến để ở giữa chúng ta, như một Ðấng "Emmanuel", mà còn để cứu chuộc chúng ta. Thế nên Mùa Vọng không phải là thời gian sắm sửa trang hoàng cho một ngày đại lễ, nhưng là muà khát khao ơn cứu độ.

Người ta có thể tưởng Phụng vụ muốn đồng hóa mùa này với thời gian dân Israel ngày xưa trông chờ Ðấng Cứu Thế. Cao độ của việc mong đợi này thể hiện trong giai đoạn lưu đày. Thế nên Phụng vụ mượn các bài đọc Cựu Ước mùa này trong sách Isaia, quyển II. Nhưng phải cẩn thận! Không được đồng hóa Mùa Vọng với lịch sử Israel gần ngày Chúa đến. Phụng vụ không diễn xuất, không đóng kịch. Chúng ta không giả vờ sống lại tâm tình của Dân Chúa ngày xưa. Nhìn về Ngày Chúa "sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết", chúng ta thật sự phải trở thành những người chờ đợi Ngày Chúa đến cứu Dân Người. Chúng ta mượn lại những lời sách Isaia để hướng dẫn, kích thích những tâm tình thật sự chúng ta phải có để sống đúng giai đoạn hiện tại. Như lời thánh Phaolô nói Cựu Ước đóng vai trò "quản giáo" hay mẫu giáo, cần cho tuổi lớn lên, ta phải sống nhờ Tân Ước.

Các lời thư thánh Phaolô trong các bài đọc II sẽ nhắn nhủ ta những thái độ Kitô giáo trong thời gian trông chờ Ngày Chúa quang lâm. Chính thánh Tông đồ cũng chỉ rút ra những bài học đó từ Mạc khải của Chúa Giêsu mà các bản Tin Mừng còn làm vọng lại. Chúng ta sẽ được nghe những đoạn Tin Mừng về Gioan Tẩy Giả và về Ðức Maria trước ngày sinh con. Như vậy các bài đọc III cũng rõ rệt muốn cho chúng ta đào sâu mầu nhiệm chờ Ngày Chúa đến. Isaia, Gioan Tẩy Giả, Ðức Maria sẽ hướng dẫn chúng ta trong mùa này. Và ta sẽ được sức mạnh để sửa soạn ngày Chúa đến như các ngài, nhờ ở chính thần lực Thánh Thể mà ta được chịu lấy mỗi khi tham dự thánh lễ.

Như vậy, ta tạm coi ngày Chúa nhật I như để nghe tiếng nói của Isaia, giới thiệu ý nghĩa sâu xa của Mùa Vọng, cũng như để nói lên thái độ tổng quát của tâm hồn người tín hữu trong khi chờ mong Chúa đến.

Chúa nhật II và III cũng còn vọng tiếng nói của Isaia, nhưng nơi Gioan Tẩy Giả, vị Thần sứ đến trước Chúa cho ta thấy những sửa soạn cụ thể và khẩn trương hơn vì kìa "Con Thiên Chúa gánh tội thiên hạ đã đến".

Chúa nhật IV dọn dẹp chính nơi Chúa ngự đến trong lòng Trinh nữ Maria. Ðó là chuẩn bị cuối cùng và mật thiết, đưa ta vào mầu nhiệm đón nhận Chúa Kitô như là bằng chứng của tình yêu nơi Thiên Chúa: Người đã yêu thương ta đến nỗi đã ban chính Con Một Người đến cứu chuộc chúng ta, để ai đón nhận Người Con ấy cũng sẽ yêu mến Cha trên trời như Ngài và bắt chước Ngài trong việc thi hành ý Cha trên trời là cứu độ trần gian về cho Người. Bốn Chúa nhật Mùa Vọng đưa ta đến nếp sống đạo chân thực mến Chúa-yêu người vậy.






Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật I Mùa Vọng, Năm A
Bài đọc: Isa 2:1-5; Rom 13:11-14; Mt 24:37-44.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải học mới biết cách cư xử đúng đắn.

Trong xã hội hiện đại, ai cũng biết để trở thành những nhà chuyên môn như bác sĩ, kỹ sư, luật sư... họ phải học và phải qua các kỳ khảo hạch trước khi có thể được chứng nhận và hành nghề. Trong lãnh vực tôn giáo cũng thế, để được ơn cứu độ hay vào Thiên Đàng, con người cần biết và thực hành những gì Chúa dạy. Thái độ vô cùng nguy hiểm của các tín hữu là chỉ cần tin và Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, mà không cần học hỏi để biết và thực hành những gì Ngài dạy dỗ. Nhưng đức tin không hành động là đức tin chết; và như thế nào mới được gọi là ăn ngay ở lành? Một thái độ nguy hiểm khác nữa là con người tự cho mình đã biết đủ rồi, không cần phải học hành gì nữa! Đây chỉ là điều ảo tưởng, và rất nhiều lần con người phải trả giá đắt cho những quyết định nông nổi của mình vì không biết. Để biết cách quyết định khôn ngoan, con người phải biết học nơi Thiên Chúa, Đấng dựng nên, cai quản, và hướng dẫn con người về một mục đích nhất định. Thiên Chúa không dùng áp lực để bắt con người làm theo những gì Ngài muốn, vì Ngài dựng nên con người như những chủ thể có tự do. Ngài muốn hướng dẫn con người, để con người biết dùng khôn ngoan và tự do của mình làm những gì sinh ích lợi cho con người.

Các Bài Đọc hôm nay nêu bật nhu cầu con người cần biết học hỏi với Thiên Chúa để biết cách cư xử đúng đắn. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah thấy trước ngày toàn thể nhân loại sẽ hướng về Jerusalem và Judah để học hỏi và được Thiên Chúa hướng dẫn. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu cần biết sáng suốt nhận định thời cuộc và phải biết cư xử thích ứng với hoàn cảnh. Trong Phúc Âm, nếu con người không biết tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, khi Ngày của Thiên Chúa đến, họ sẽ bị tiêu diệt như tất cả mọi người trong thời Lụt Hồng Thủy, trừ gia đình của Noah là những người biết cách chuẩn bị.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ.

1.1/ Con người cần được Thiên Chúa dạy dỗ cho biết sự thật: Con người bị bao quanh bởi
những điều giả trá của thế gian; ví dụ, câu nói: "Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh." Ý họ muốn nói: Nếu dân chúng muốn ấm no hạnh phúc, quốc gia cần phải có lực lượng quân sự mạnh để đánh chiếm và thu thập tài nguyên của các nước khác, hay ít nhất làm cho họ sợ để đừng tính chuyện xâm lấn nước mình. Vì thế, họ dùng mọi thủ đoạn để chinh phục các nước láng giềng. Họ quên một điều là ai cũng cần sống; một khi đã bị dồn vào chân tường, đối phương sẽ phản ứng lại để dành quyền sống. Chiến tranh và hận thù sẽ tiếp tục lan tràn và kéo dài từ thời này sang thời kia. Vì thế, vũ lực không phải là cách thức để có bình an và hạnh phúc.
Làm thế nào để có hòa bình thực sự: Con người cần được Thiên Chúa dạy dỗ cho biết sự thật. Thị kiến của ngôn sứ Isaiah cho biết trước những gì sẽ xảy ra cho Judah và Jerusalem: "Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Jacob, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ. Vì từ Sion, thánh luật ban xuống, từ Jerusalem, lời Đức Chúa phán truyền.''"

1.2/ Hậu quả của việc biết cách sinh sống và cư xử: Tiên-tri Isaiah mặc khải cho con người biết một sự thật: Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền trên mọi dân tộc: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc." Lịch sử thế giới đã nhiều lần chứng minh: không một cường quốc nào đối xử tàn bạo với các quốc gia khác mà còn tồn tại. Nhiều lần các ngôn sứ của Cựu Ước đã chứng minh: Bình an và hạnh phúc thực sự không đến nhờ vũ lực; nhưng chỉ đến với quốc gia nào biết kính sợ Thiên Chúa và cư xử công chính với mọi người. Khi đã biết cách để kiến tạo và hòa bình, vũ khí dùng để tiêu diệt con người trong chiến tranh sẽ không còn cần thiết nữa, và sẽ được con người sáng chế thành những khí cụ lợi ích cho cuộc sống hơn, như Isaiah diễn tả: "Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến."

2/ Bài đọc II: Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.

Con người không chỉ phải đối diện với chiến tranh bên ngoài, nhưng còn phải đương đầu với cuộc chiến nội tâm bên trong. Thánh Phaolô muốn các tín hữu ý thức về cuộc chiến nội tâm này và biết cách để đối phó.

2.1/ Phải biết chúng ta đang sống trong thời nào: Trước khi biết cách đối phó, các tín hữu cần phải nhận định tình hình: "Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu." Cuộc đời con người trên trần gian làm sao cho được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngài chỉ cho con người sống một thời gian cố định để làm điều này; mỗi ngày qua đi là mỗi ngày con người gần với ngày chết hơn. Vì thế con người phải biết nắm lấy mọi cơ hội để làm sao cho họ được hưởng ơn cứu độ. Ảo tưởng của nhiều người là ngày chết còn lâu mới đến, vì thế họ cứ việc ăn chơi thả dàn. Đến khi lâm bệnh hay biết ngày đời của mình sắp tận, bấy giờ họ mới hốt hoảng lo ăn năn và chuẩn bị; nhưng hỡi ôi, đã quá muộn màng!

2.2/ Phải biết cách xử sự: Khi đã nhận định được tình hình của mình, con người phải ra tay hành động ngay. Thánh Phaolô không lý thuyết suông, ngài đưa ra những việc làm rất cụ thể:
(1) Những việc người tín hữu cần tránh:

- Không chè chén, say sưa: Ăn quá nhiều làm con người ra nặng nề, làm con người buồn ngủ, và con người không có nghị lực để làm những điều mình muốn. Uống quá nhiều làm con người say xỉn, trí khôn u mê, không còn biết nhận ra điều phải nên làm và điều ác nên tránh. Câu tục ngữ "một tinh thần lành mạnh trong một thân thể tráng kiện" nói lên sự liên hệ giữa việc ăn uống, tập thể dục, và giữ cho tâm hồn lành mạnh.

- Không chơi bời, dâm đãng: Con người cần có nghị lực và thời gian để làm việc, để học hỏi, và để giúp đỡ tha nhân. Khi một người hoang phí thời gian và sức lực vào những chuyện dâm đãng, họ sẽ không còn nghị lực và thời gian để mở mang Nước Chúa, tập luyện nhân đức, và giúp đỡ tha nhân. Ấy là chưa kể những bệnh tật họ phải lãnh nhận do sự hoang dâm vô độ.

- Không cãi cọ, ghen tương: Người tín hữu phải tỏ lòng yêu thương tha nhân và xây dựng hòa bình. Những chi li, tính toán, và ham muốn thế gian làm con người dễ ích kỷ, ghen tỵ, và vơ vét mọi sự cho mình.

- Đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng: Điều này mở rộng tới những tội khác hơn là tội tình dục như: tham lam của cải, ham hố danh vọng, chức quyền... Thánh Gioan cắt nghĩa rõ hơn: "Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi" (I Jn 2:15-17).

(2) Hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô: Thánh Phaolô nhiều lần cắt nghĩa: khi con người được Rửa Tội là họ cởi bỏ con người cũ cùng với mọi dục vọng xấu xa, và mặc lấy con người mới là Đức Kitô. Vì thế, người tín hữu phải tập luyện để biết sống như Đức Kitô. Trong Thư Colosse, Phaolô liệt kê các đức tính con người cần tập luyện để sống như Ngài: "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo" (Col 3:10-14).

3/ Phúc Âm: Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.

3.1/ Phải biết rút tỉa kinh nghiệm: Tiếp tục tư tưởng của những ngày cuối năm, Thiên Chúa muốn nhắc nhở cho con người hai điều quan trọng: Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ đến, và đến một cách bất ngờ. Trình thuật hôm nay nêu ra những biến cố lịch sử và kinh nghiệm đời để con người biết rút tỉa kinh nghiệm.

(1) Nạn Lụt Hồng Thủy: Chúa Giêsu dẫn chứng: "Quả thế, thời ông Noah thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noah vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.'' Chỉ có gia đình Noah tin và làm theo những lời Thiên Chúa nói, và họ được thoát nạn.

(2) Kinh nghiệm đời sống: Chúa Giêsu nói: "Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến." Kẻ trộm trước khi hành động, họ thường điều nghiên kỹ càng để biết lúc nào chủ nhà vắng mặt hay lơ là không coi sóc. Đa số những vụ trộm thường xảy ra ban đêm hay khi về sáng, lúc mà con người đang say ngủ.

3.2/ Phải biết canh thức và chuẩn bị sẵn sàng: Nhiều người nghĩ làm sao Thiên Chúa có thể phân biệt người lành hay kẻ dữ trong số bao nhiêu con người của thế gian này; nhưng Lời Chúa hôm nay cho con người thấy sự chính xác khi nhận ra ai là người lành hay kẻ dữ: "Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần biết đúng trước khi có thể làm đúng. Hiểu biết sự thật giúp chúng ta nhận ra và tránh được những gian manh và sai lầm của thế gian.

- Để hiểu biết sự thật, chúng ta cần tìm đến và học hỏi nơi Đức Kitô, vì Ngài là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng dựng nên, cai quản, và hướng dẫn tất cả về một mục đích nhất định.

- Chúng ta không chỉ cần biết sự thật; nhưng còn phải thi hành sự thật thì mới đem lại ích lợi cho đời sống. Một điều tối quan trọng trong cuộc đời là chúng ta phải biết sẵn sàng và chuẩn bị cho Ngày Chúa quang lâm.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP