
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Bổn mạng Hội Thánh Việt Nam
Lễ Trọng
VÁC THẬP GIÁ MỖI NGÀY
Người ta nói có cái chết “nặng tựa Thái Sơn”, nhưng cũng có cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái chết của các thánh tử đạo tại Việt Nam đối với người đời chẳng những “nặng tựa Thái Sơn”, mà còn nặng hơn Thái Sơn nữa, bởi vì thường thì người ta chết vì bệnh hoạn hoặc tai nạn; những người tự tử như diễn viên điện ảnh Lê Công Tuấn Anh, hay các ngôi sao Hàn Quốc, người ta cũng muốn chết một cách nhẹ nhàng, êm đẹp. Còn cái chết của các thánh tử đạo tại Việt Nam thì thật khủng khiếp. Có người bị chém đầu, mà chém bằng cây đao lục, nên người ta phải khứa tới khứa lui nhiều lần; có người bị thiêu sống; có người bị chặt tay chặt chân trước khi đem đi chém đầu… Nhưng đối với các thánh Tử Đạo tại Việt Nam cha ông của chúng ta, thì cái chết của các ngài nhẹ tựa lông hồng. Sở dĩ các ngài đón nhận cái chết nhẹ nhàng như vậy là bởi vì các ngài biết mình tin vào ai, mình chết vì điều gì và chết cho ai. Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam, khi đọc các bài đọc lời Chúa và nhìn vào tấm gương của một số vị, tôi thấy Kitô hữu nói chung và các thánh tử đạo nói riêng, nếu chấp nhận“gieo trong lệ sầu” thì sẽ “gặt trong vui sướng”. Nếu biết tin tưởng, phó thác vào Đức Giêsu Kitô, thì sống chết đối với kitô hữu không thành vấn đề; giả dụ có chết, thì cái chết đó cũng nhẹ tựa lông hồng.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: 2 Mcb 7, 1. 20 – 23 . 27b - 29
Câu chuyện về bảy anh em bị bắt chung với người mẹ của mình trong bài đọc I hôm nay là một câu chuyện đẹp về những con người dám hy sinh vì đức tin. Đồng thời cũng là một tấm gương sáng ngời cho những bậc làm cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái. Vua Antiôkhô bắt họ phải ăn thịt heo nhưng họ một mực từ chối vi phạm luật Môsê. Vì vậy nhà vua đã tra tấn họ một cách dã man: lột da, chặt tay, chặt chân, cắt lưỡi… sau cùng đã giết chết họ ngay trước mặt người mẹ. Người mẹ dù rất đau lòng nhưng cũng vẫn can đảm chịu đựng và khuyên răn con cái mình hãy giữ vững đức tin. Sở dĩ họ chấp nhận cái chết đau đớn như vậy là bởi vì họ tin vào sự sống đời sau mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ. Hay nói cách khác họ chấp nhận “gieo trong lệ sầu” để được “gặt trong vui sướng”.
2. Bài Đọc II: Rm 8, 31b-39
Thánh Phalô trong thư gửi tín hữu Rôma đã cảnh báo họ về những điều có thể tách họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là: gian truân, khốn khổ, đói rách, bắt bớ… Để rồi cuối cùng thánh nhân khẳng định như một lệnh truyền cho con cái của ngài: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi ĐGK”. Lệnh truyền đó của thánh Phaolô có ý khuyên các tín hữu của mình phải chấp nhận những gian truân, khốn khổ, đói rách, bắt bớ trong đời sống đạo như đang gieo trong lệ sầu, để rồi họ sẽ gặt trong vui sướng, là chính tình yêu của Thiên Chúa nơi ĐGK.
3. Tin Mừng: Lc 9, 23-26
Bài Tin Mừng hôm nay là lời của CG nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đây không phải là những lời tâm sự, hoặc mong muốn của CG, nhưng là điều kiện để theo Chúa. Vì vậy những ai chưa vác thập giá trong cuộc sống thì chưa phải là môn đệ của CG. Và chúng ta, những Kitô hữu, nếu chưa vác thập giá mình hằng ngày, thì chúng ta chỉ mang danh hiệu Kitô hữu mà thôi, chứ chưa phải là người có Đức Kitô
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay làm nỗi bật lên một điểm mà các thánh Tử Đạo tại Việt Nam đã thực hiện, đó là vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Chúa. Tuy nhiên không phải vác thập giá để bước xuống vực thẳm, nhưng vác thập giá để bước tới vinh quang là hạnh phúc thiên đàng. Hay nói cách khác có chấp nhận gieo trong lệ sầu thì mới có thể gặt trong vui sướng được.
II. CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VÁC THẬP GIÁ
Thập giá của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam cha ông chúng ta chính là lòng hoán cải và sự trung thành đối với Thiên Chúa.
1. Lòng hoán cải vì Tin Mừng:
Các nhà tu đức nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ”. Các thánh Tử Đạo tại Việt Nam cũng là những con người bình thường như bao nhiêu con người khác. Họ cũng có những yếu đuối, những tội lỗi, những bất toàn của kiếp người… Nhưng điều quan trọng là họ đã biết nhìn ra những sai lỗi của mình để sửa đổi cuộc đời cho phù hợp tư cách là Kitô hữu. Khi họ biết sửa đổi cuộc đời chính là lúc họ vác thập giá mà theo Chúa, để rồi khi đứng trước cây thập giá thực sự, là sự bắt bớ và giết chóc thì họ dễ dàng vượt qua, vì họ đã từng vượt qua những tính hư nết xấu của mình vì ĐGK.
Đó là trường hợp của thánh Luca Thìn, một quan chánh tổng. Ông ta có vợ bé, rồi thờ ơ với việc đạo. Nhưng khi nghe lời khuyên của người thân và các linh mục, ông đã hoán cải trở về với Chúa. Cuối cùng đã dùng chính cái chết để làm chứng cho Chúa. Hay như thánh Micae Hy, ông này ăn chơi cũng ăn chơi tráng táng, và có tới 3 đứa con ngoại hôn, nhưng sau đó ông đã hoán cải quay trở lại với Chúa và giữ đạo đàng hoàng. Khi người ta bắt bớ đạo, ông đã dám mạnh dạn xưng mình là Kitô hữu để rồi bị bắt và chịu tử hình vì chính đạo.
2. Sự trung thành với Thiên Chúa
Các thánh tử đạo tại Việt nam còn vác thập giá qua việc trung thành với Thiên Chúa. Sự trung thành đó được thể hiện qua việc yêu mến thánh giá. Vua quan ngày xưa đã dùng cây thập giá để xem người ta có bỏ đạo hay trung thành với đạo qua việc bước qua thập giá. Họ đặt thập giá giữa những nén vàng và cây gươm để những ai bước qua thập giá thì sẽ có ngay những nén vàng, còn nếu không chịu bước qua thì sẽ lãnh ngay một nhát gươm. Cha ông chúng ta đã trung thành với Chúa qua việc một mực từ chối bước qua thập giá. Thánh Têphanô Ven, một linh mục mới 31 tuổi đã nói: “Cả đời tôi rao giảng về thập giá thì lẽ nào tôi lại giẫm lên thập giá”. Sau khi đã thuyết phục nhưng không thành công, lính đã bắt Thánh Antôn Nguyễn Đích, một gia trưởng gương mẫu trong gia đình có 4 vị thánh tử đạo khiêng qua cây thập giá để ép buộc ông giẫm lên thập giá, nhưng thánh nhân đã cố gắng để co chân lên cho khỏi giẫm lên thập giá. Có những vị đã vì sợ hãi mà bước qua thập giá, nhưng sau đó đã hối hận và quay trở lại để xin chịu chết vì thập giá ĐK, ví dụ như thánh Đaminh Đinh Đạt.
III. THẬP GIÁ CỦA CHÚNG TA
Theo lời Chúa dạy và theo gương cha ông, chúng ta cũng phải vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa. Thập giá của chúng ta cũng chính là lòng hoán cải và sự trung thành với Thiên Chúa.
1. Lòng hoán cải:
Là một con người ai cũng có những yếu đuối, những tội lỗi của mình, điều quan trọng là chúng ta phải biết hoán cải, sửa đổi cuộc sống. Mỗi khi đi đám tiệc hay đi lễ, hoặc xuất hiện trước công chúng, chúng ta dành nhiều thời gian để làm đẹp mình. Mỗi một ngày người ta tốn bao nhiêu giờ để lo cho thân xác? Chắc cũng nhiều lắm! Nhưng tại sao chúng ta không dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống, nhìn lại tâm hồn của mình? Nhìn lại để thấy mình có những sai lỗi nào, những tính hư nết xấu nào mà lo sửa đổi. Để thể hiện lòng hoán cải, mỗi ngày chúng ta phải dành thời gian để xét mình, tốt nhất là trước khi đi ngủ, về mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm trong ngày sống. Phải thường xuyên lãnh nhận bí tích giải tội, nhất là những khi phạm tội trọng. Không ai chê cười khi thấy chúng ta ăn năn sám hối và sửa đổi cuộc đời đâu, nhưng đáng chê cười những người không thấy những sai lỗi của mình, và đáng chê cười hơn đối với những người thấy mình sai mà không chịu sửa.
2. Sự trung thành với Chúa:
Thập giá kế tiếp mà chúng ta phải vác là sự trung thành với Chúa. Sự trung thành đòi hỏi chúng ta một sự can đảm như các thánh tử đạo tại Việt Nam để tuyên xưng đức tin của mình. Ngày hôm nay việc trung thành với Thiên Chúa không còn là dừng bước trước thập giá như cha ông chúng ta ngày xưa, nhưng phải là bước qua chính bản thân mình để đến với Thiên Chúa. Mỗi khi tôi vượt thắng được sự lười biếng, ham chơi để đến với Chúa ngày Chúa Nhật; mỗi khi tôi từ bỏ những lo toan vật chất để giữ ngày Chúa Nhật; mỗi khi tôi chối từ những lôi kéo sai trái của bạn bè để giữ luật Chúa… là những lúc tôi thể hiện sự trung thành với Thiên Chúa. Còn nhiều, nhiều những hình thức bước qua chính bản thân mình để thể hiện sự trung thành với Chúa.
Tóm lại, lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam cho chúng thấy được những con người biết vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, thể hiện qua việc hoán cải cuộc sống và trung thành với Chúa. Là con cháu được thừa hưởng gia tài đức tin từ cha ông, chúng ta cũng phải biết vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa, thể hiện qua việc biết từ bỏ những yếu đuối, tội lỗi, sửa đổi cuộc sống, và trung thành với Chúa. Xin ơn Chúa giúp nhờ lời cầu bầu của các thánh tử đạo tại Việt Nam, ban thêm đức tin cho Giáo hội Việt nam, cho Giáo Phận Cần Thơ, cho họ đạo chúng ta và từng người chúng ta, nhất là trong dịp kết thúc Năm Đức Tin này, để chúng ta dám mạnh dạn vác thập giá mỗi ngày qua việc hoán cải và trung thành với Chúa.
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Ngày khai sinh của Giáo Hội Việt Nam vinh dự không kém ngày Sinh Nhật của Giáo Hội Mẹ Roma, vì cả hai đều được sinh ra trong máu của người tin Chúa Giê-su suốt 300 năm. Ở Việt Nam, cuộc bách hại bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, và khốc liệt nhất vào thế kỷ thứ 19.
Ngày 19/06/1988, Đức Gio-an Phao-lô II đã phong hiển thánh cho 117 vị, trong số 130.000 người Tử Đạo tại Việt Nam, gồm có: 8 Giám mục ; 50 Linh mục ; 14 thầy giảng ; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có 10 vị người Pháp, 11 vị người Tân Ban Nha, còn lại là người Việt.
Các thánh trên đã Tử Đạo bởi 5 triều đại vua sau đây:
ò Trịnh Nguyễn (1745-1773): 4 vị.
ò Cảnh Thịnh (1798) : 2 vị.
ò Minh Mạng (1820-1840): 50 vị.
ò Thiệu Trị (1841-1847) : 3 vị.
ò Tự Đức (1848-1883) : 58 vị.
Các ngài chịu đủ mọi cực hình :
- Bá đao (mỗi người bị cắt 100 miếng thịt): 1 vị.
- Lăng trì (chặt chân tay trước khi chém đầu): 4 vị.
- Thiêu sống: 6 vị.
- Chém đầu: 75 vị.
- Xử giảo (quấn dây vòng cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết: 22 vị.
- Rũ tù: 9 vị.
Người cao tuổi nhất như cha Loan 84 tuổi ; trẻ nhất như Tô-ma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử Đạo chỉ có một phụ nữ là bà A-nê Lê Thị Thành (thánh Đê.)
Các vị trên đủ mọi thành phần trong đạo-đời, quan có, lính có, dân có ; nhưng đa số là giáo sĩ trong Hội Thánh: Giám mục, Linh mục, chủng sinh. Số người trẻ từ 18 đến 40 tuổi chiếm 1/3 trong 117 vị Tử Đạo.
Ngày 15/10/1989, Hội Đồng Giám mục Việt Nam xin Tòa Thánh ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới: ngày 24/11 là ngày kính các thánh Tử Đạo, nhằm kỷ niệm ngày thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1958, và được Bộ Phượng Tự chấp thuận ngày 14/02/1990, và đặc biệt được kính trọng thể vào Chúa nhật 33, áp Chúa nhật 34, lễ Chúa Ki-tô Vua, với hàm ý: 117 vị thánh Tử Đạo tại VN đã phần nào diễn tả chiến thắng của Vua vũ trụ.
VINH QUANG CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO Ở ĐIỂM NÀO?
Đối với các thánh Tử Đạo, giá trị của các ngài hệ tại ở chỗ minh chứng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, chỉ vì :
1/ TIN VÀO GIÁ TRỊ PHỤC SINH. Niềm tin này đã được mạc khải trong sách Macabê: Bà mẹ động viên bảy người con đừng sợ những khổ hình do vua Antiokho ra lệnh dùng roi và gân bò đánh cho chết, nếu không ăn thịt heo! Bà nói: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình." (2Mcb7,1.20-23: Bài đọc I).
2/ TIN VÀO ĐỨC GIÊSU LÀ CON MỘT THIÊN CHÚA CHA BAN TẶNG ĐỂ CỨU THẾ GIAN, ngoài Ngài không có thần thánh nào biến dữ ra lành cho con người để sống hạnh phúc dồi dào muôn đời (x Cv 4,12). Thánh Phao-lô nói: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban cho chúng ta tất cả làm một với Ngài? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính ? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Bởi thế không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,31b-39: Bài đọc II).
3/ ĐỨC TIN CÔNG GIÁO PHẢI THỂ HIỆN BẰNG VIỆC LÀM. Đức Giê-su dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24: Tin Mừng). Khi Đức Giê-su vác thánh giá chính là lúc Ngài dâng Lễ, nên Ngài dạy: “Ai muốn theo tôi, thì hãy vác thập giá của mình hằng ngày mà theo”, có nghĩa là hằng ngày ta phải đấu tranh với mọi nghịch cảnh, để có giờ cùng hiệp dâng Thánh Lễ với Ngài. Có thế mới cứu được mạng sống mình, và như vậy đi dự Lễ càng phải trả giá đắt, đến nỗi mất mạng như các thánh Tử Đạo, càng bày tỏ lòng mến cao, thì càng được nhiều ơn. Đấy mới thực là ý nghĩa và giá trị Chúa dạy ta phải vác thập giá mình mà theo Ngài mỗi ngày, chứ không phải là Ngài nhắm dạy ta: Phải chịu khó làm việc bổn phận thì thu tích được nhiều tiền của ! Nếu ta chỉ chú ý cần cù làm việc để đạtthành công trong xã hội, đó chỉ là nhân bản, chẳng cần đến Chúa nào dạy, người vô thần họ vẫn dạy nhau: “tất cả cho sản xuất để được giàu mạnh”, và chứng minh được “lao động là vinh quang”, nhưng vẫn thua kiếp trâu ngựa ! Người Công Giáo dựa trên Đức Tin, ai cũng phải xác tín rằng: dù có cần cù chịu khó làm việc, đạt thành công đời này, mà không kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể, thì phải nhớ Lời Chúa Giê-su dạy: “Được lời cả thế gian mà mất sự sống mình thì nào có ích gì” (Lc 9,25: Tin Mừng).
Nhờ kết hợp nên một với Chúa Giê-su Phục Sinh, chúng ta sẽ được:
a- Ngài cộng tác trong mọi việc lành ta làm, có thế mới tôn vinh Thiên Chúa (x Rm 11,36). Bởi vì mọi việc con người làm ngoài Chúa Giê-su, trước sau sẽ ra tro bụi, nhưng nếu được làm trong Chúa Giê-su, thì việc ấy có giá trị cứu độ, và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu không ai có thể cướp mất! (x Cv 5,38-39) Chính vì vậy mà Đức Giê-su khẳng định: “Ngoài Ta, các ngươi không thể làm được việc gì” (Ga 15,5b)
b- Ngài ban cho chúng ta nghị lực đối đầu với nghịch cảnh để làm chứng cho Ngài, đến nỗi:
o Bằng lòng mất hết lợi nhuận đời này, như người mẹ động viên đứa con út trong bảy người con sắp lãnh án tử chỉ vì muốn trung thành với giáo lý của Chúa: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ." (2Mcb 7,27-29: Bài đọc I).
Vua Duy Tân hỏi các quan:
- Tay dơ lấy gì rửa?
- Thưa lấy nước rửa.
- Nước dơ lấy gì rửa?
Không ai đáp. Vua nói tiếp :
- Lấy máu rửa nước Việt Nam.
Nhưng đối với các thánh Tử Đạo không vì lời ấy mà làm cho các ngài hoảng sợ đến chối bỏ Đức Tin, bởi vì :
§ Kẻ nhút nhát thì sợ thần chết!
§ Đứa tuyệt vọng thì tìm cái chết!
§ Tên hưởng thụ thì chẳng nghĩ chết!
§ Người anh hùng thì liều mạng chết!
§ Đấng Khôn Ngoan thì chuẩn bị chết!
Tác giả sách Khôn ngoan nói: “Nhìn thấy khổ hình như thế, bọn ngu si coi họ như đã chết, cho là gặp tai họa, bị tiêu diệt, nhưng thực ra họ đang hưởng bình an, chứa chan hy vọng, trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ được hưởng ân huệ lớn lao, họ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy, họ có quyền xét xử muôn dân, thống trị muôn nước” (Kn 3,2-8a).
Ông Pascal nói: “Giá trị con người hơn cả vũ trụ cộng lại. Vì chỉ con người ai cũng biết mình phải chết. Con người hơn nhau ở chỗ cuộc đời biết chuẩn bị cho cái chết của mình theo ý Chúa”.
o Bằng lòng mất mạng để giữ vững Đức Tin, sau này Chúa trả lại vẹn toàn thân xác bất tử, như Lời Đức Giê-su đã hứa với các môn đệ: “Ai từ bỏ mọi sự mà theo Ta sẽ được lãnh gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh chị em, cha mẹ và con cái cùng ruộng vườn, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sau hết” (Mc 10,30).
Thánh Gioan đã nhìn thấy thị kiến về sự chiến thắng của những người đã chết để làm chứng cho Tin Mừng: “Một đoàn người đông vô kể thuộc mọi dân, mọi ngôn ngữ. Họ trải qua thử thách lớn lao, họ giặt và tẩy sạch áo mình trong Máu Con Chiên, không còn đói khát, không bị nắng thiêu đốt, chính Con Chiên dẫn họ tới nguồn nước trường sinh, họ mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế tung hô: “Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, xin chúc tụng vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh đến muôn đời” (Kh 7,9-17).
o Bằng lòng mất đạo hiếu với cha mẹ trần thế vì phải hiếu với Cha trên trời, tức là kiên trì bảo vệ chân lý. Đan cử: Vua Sao-lê đã hứa truyền ngôi cho con trai là Gionathan, thế nhưng Gionathan thấy vua cha tìm mưu tính kế để diệt Đavid, chỉ vì Đavid được toàn dân tung hô: ông mạnh gấp mười vua Sao-lê, vì ông thành công trên mọi chiến trường để bảo vệ bình an cho dân tộc và giữ vững vương quyền Sao-lê, nên Gionathan tìm hết cách để Đavid khỏi sa vào lưới vua cha. Ông sống như thế chắc chắn bị người đời kết án là bất hiếu. Vì “ăn cây nào rào cây đó”, và “một giọt máu đào hơn ao nước lã” (x 1Sm 20).
Vì thế mà Đức Giê-su nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Nhưng “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126/125,5: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Ông Tertuliano nói: “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”. Vì “người ta càng áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đảo bành trướng ra, khiến thiên hạ phải run khiếp” (Xh 1,12)
ĐỌC THÊM:
TRÍCH BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIO-AN PHAO-LÔ II
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔ-MA NGÀY 19/06/1988
“Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Ki-tô Tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống đức tin Chúa Ki-tô.
Làm sao kể lại cho hết ? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ nữ là thánh A-nê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc !
Để lấy một ví dụ: Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiên phong có thánh Vinh-sơn Liêm, dòng Đa-minh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1773. rồi tới Linh mục An-rê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa. “Những người chết vì đức tin, ngài nói – thì lên Thiên đàng thẳng rẵng ; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền ; thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo cho phải hơn không ?” Thực ra vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21/12/1839.
Một lần nữa, hỡi Giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng: máu các thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Ki-tô.
Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia. (x 1Pr 2,13-17)
Do đó công ích của quốc gia vẫn là thời điểm người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng: và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân.”
(Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)