Chúa Nhật 18 Quanh Năm Năm C
(Phần II)
Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XVIII Quanh Năm C ngày 4.8. 2013
CHÚA NHẬT XVIII QUANH NĂM C
Sách Giảng Viên 1.2; 2, 21-23; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôssê 3.1-5.9-11
và Phúc Âm Thánh Luca 12. 13-21
I. Giáo Huấn P.Â.:
Mạng sống không bảo đảm nhờ của cải: Tiền của dư dả không làm con người ta sống lâu, sống an toàn hay sống hạnh phúc.
Thiên Chúa là chủ cả của cải vật chất và mạng sống con người:
Của cải được ban cho để làm giàu trước mặt Thiên chúa tức phải dùng của cải làm việc từ thiện bác ái và lập công phúc trước mặt Chúa.
II. Vấn nạn P.Â.
1) Vấn đề chia gia tài trong Kinh Thánh Cựu Ước như thế nào?
Trong sách Đệ Nhị Luật chương 21 từ câu 15-17 nói về quyền trưởng nam trong việc phân chia gia tài như thế nầy:
15 Khi một người đàn ông có hai vợ, một vợ được yêu, một vợ không được yêu, và cả người được yêu lẫn người không được yêu đều sinh con cho người ấy, mà con trai trưởng lại là con của người không được yêu,
16 thì khi chia gia tài cho các con, người đàn ông ấy không được dành quyền trưởng nam cho đứa con của người vợ mình yêu, khiến đứa con của người vợ không được yêu, là con trai trưởng, bị thiệt.
17 Trái lại người đàn ông ấy phải nhìn nhận đứa con của người vợ không được yêu là trưởng nam, mà chia cho nó hai phần sản nghiệp: nó là hoa quả đầu đời trai tráng của người ấy, nên nó được quyền trưởng nam.
Như vậy theo Kinh Thánh Cựu Ước, con trưởng nam không thừa hưởng toàn bộ sản nghiệp nhưng là gấp đôi so với những đứa con trai khác. Thí dụ, nếu gia đình có bốn con trai, con trai trưởng nam được hưởng 40% gia sản, ba con trai còn lại mỗi người được 20%.
Người ta cho rằng không công bình. Nhưng đó là luật chia gia tài được qui định trong Đệ Nhị Luật. Xét về mặt đời sống, trưởng nam là người cao tuổi nhất. Người cao tuổi nhất bình thường là người chết trước. Nên thời gian hưởng gia tài không dài bằng những đứa em của mình. Do đó, phần nào hợp lý khi anh con trưởng nam được hưởng nhiều gấp đôi so với người khác.
Phúc Âm Thánh Luca tường thuật: Có người trong đám đông yêu cầu “Thưa thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi!” Chúa không thoả đáp yêu cầu vì “ai đã đặt tôi làm người xử kiện và chia gia tài!” Nhân yêu cầu làm người xử kiện trong việc chia gia tài, Chúa dạy rằng:
Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam.
Phải biết giá trị đích thật của tiền của:
Tiền của không làm con người sống thọ
Tiền của không làm con người hạnh phúc.
Thiên Chúa là chủ của tiền của và cũng là chủ của mạng sống.
Vì Chúa Giêsu chỉ mượn việc yêu cầu chia gia tài để nói về giá trị của tiền của. Nên chúng ta không giải đáp được vấn nạn: Tại sao “người trong đám đông” nầy lại yêu cầu Chúa phân xử chuyện chia gia tài? Anh ta được chia hay không được chia? Hay anh ta được chia, nhưng không hài lòng chăng? Những vấn nạn không có giải đáp. Vì Phúc Âm cho một giải đáp ở bình diện siêu nhiêu: Tiền của tạm bợ chóng qua và không đem hạnh phúc vĩnh cửu. Cũng có thể qua lời giảng và dụ ngôn người phú hộ toan tính xây thêm nhà kho mà Chúa muốn trả lời cho người yêu cầu làm quan xét chia của là: Bỏ quách đi! Không sống lâu đâu! Tranh phần hơn thua chút ít mà làm gì!
2) Chúa dựng nên con người và cho con người có lòng ước muốn hay ham muốn có nhiều của cái vật chất, cũng như ai là con người cũng có ước muốn tự nhiên thoả mãn đòi hỏi tình dục. Sao Chúa lại bảo “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam”?
Tham lam (Latinh: Avaritia hay Cupiditas) khác với ước muốn tự nhiên và bình thường (desiderium hay votum) của con người.
Ước muốn được định nghĩa là: ao ước, mong mỏi, cầu mong cho có điều mình muốn hay yêu cầu mong thoả đáp. Cách chung ước muốn là khát vọng tự nhiên và mang ý nghĩa tích cực.
Thí dụ: Thiên Chúa muốn có ánh sáng tức thì liền có ánh sáng. Chúa có ước muốn và Chúa luôn có ước muốn tốt vì bản tính Chúa là tốt tuyệt đối, là hoàn hảo. Nên Chúa không thể có ước ước muốn xấu. Nói khác đi Chúa không thể có tính tham lam.
Thí dụ khác: Ai cũng có ước muốn sống thọ và hạnh phúc. Tuy nhiên, con người không có bản tính tốt tuyệt đối. Nên thường đi xa hơn ước muốn tốt tự nhiên để sang bình diện tham lam, được liệt kê trong tam độc của Phật Giáo: Tham Sân Si
Ước muốn thường tự nhiên và tốt: Ước muốn thoả mãn đòi hỏi bản năng tính dục hay ước muốn có đời sống vật chất sung túc và thoải mái. Ước muốn về tình dục trong bậc sống mình chọn là điều tốt. Thí dụ người chồng ước muốn giao hợp với vợ mình vừa là điều tốt, vừa là quyền lợi và bổn phận.
Có người tự khoe rằng: Tôi ghét nhìn phụ nữ đẹp hay Phụ nữ đẹp không gây trong tôi một ấn tượng gì cả! Đó là nói dối hay đó là người đàn ông bất bình thường.
Ước muốn sống thọ và cuộc sống hạnh phúc. Đây là những ước muốn hay khát vọng chính đáng và được khuyến khích để thực hiện.
Kinh Thánh cho chúng ta định nghĩa thế nào là tham lam như thế nầy:
Người tham lam là người luôn bị ám ảnh để thu tích của cải vật chất. Điều nầy được nói trong Phúc Âm Luca 12.15, tức Phúc Âm hôm nay.
Người tham lam là người đánh giá của cải vật chất hơn Chúa hay hơn những giá trị tinh thần. Được đề cập trong sách Tiên Tri Isaia 56.11
Người tham lam là người sẵn sàng lừa đảo, gian dối hay phương tiện bất chính để đạt của cải vật chất. Phúc Âm Luca 11. 39 và Cách Ngôn 21.25
Người tham lam là người không bao giờ bằng lòng hay thoả mãn với những gì mình có. Người Việt Nam nói: túi tham không đáy là vậy.
Hệ quả xấu của người mang tính tham lam sẽ là: Dối trá - Phàm ăn - Dâm đảng – trần tục vật chất và lười biếng. Điều nầy được Thánh Phaolô đề cập nhiều trong thư gửi Giáo Đoàn Rôma chương 7.
Avaritia hay cupiditas chính là lòng dục được đề cập trong lý thuyết nhà Phật. Thường chúng ta hiều rằng, thuyết diệt dục của nhà Phật có nghĩa là từ chối hay dẹp bỏ những ước muốn tự nhiên và chính đáng. Không phải thế, thuyết diệt dục của Phật giáo chính là “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” mà Chúa nói trong Phúc Âm hôm nay. Tham lam là một trong những Tam Độc được Hoà Thượng Thích Tam Từ trong website Phật Tử Việt Nam phân tích nhu sau:
Tam độc là ba thứ ác độc mang đau khổ đến cho con người, phá hoại mọi hạnh phúc an vui của con người. Theo thứ tự thông thường của nó là Tham, Sân, Si; song đặt đúng trật tự từ gốc ra ngọn phải nói Si, Tham, Sân.
Si: Si là si mê. Không biết đúng lẽ thật giả, không nhận ra phải trái, không thấy được tà chánh, ngu tối mờ mịt là tướng trạng của Si. Cái si mê căn bản nhất là nhận lầm thân giả dối làm cái ta chân thật, tâm sanh diệt làm cái ta vĩnh cửu. Nơi ta đã nhận lầm thì đối tất cả đều lầm, phát sanh bao nhiêu thứ tội lỗi về sau đều gốc từ cái lầm này mà ra.
Tham: Do chấp thân là thật nên khởi tham lam mọi nhu cầu vật chất cho thân. Lòng tham là cái hang không cùng, cái túi không đáy, cho nên không biết đến đâu là đủ. Không có, tham lam muốn có; đã có, tham lam muốn thật nhiều, càng được lại càng tham. Tham mà không toại nguyện liền nổi sân. Quả thật tham là nhân đau khổ vô hạn, con người đến khi sắp tắt thở vẫn chưa thỏa mãn lòng tham.
Sân: Sân là nóng giận. Do tham lam mà không toại nguyện, hoặc bị ngăn trở liền nổi sân.Một khi nổi sân thì mọi tội ác nào cũng dám làm, mọi khổ đau nào cũng dám tạo. Tất cả sự hung tợn dữ dằn ác độc đều do sân mà phát sanh. Sân có loại bộc phát, có loại thầm kín.
3) Tại sao Ông nhà giàu dự tính xây thêm nhà kho chứa thóc lúa và bị quở mắng là “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”
Thường chúng ta hiểu người ngốc nghếch hay ngu dốt là người không có đủ trí khôn, hay đần độn không biết ứng xử hợp tình hợp lý. Nhưng Ông Phú Hộ trong Phúc Âm xem chừng không ngốc nghếch và đần độn chút nào: Ông biết làm cho có của cải vật chất dư dả và Ông biết huy hoạch để lưu trữ dài hạn và hậu bị cho cuộc sống an nhàn tương lai. Tại sao ông lại bị quở mắng là ngu ngốc.
Ông ngu ngốc vì lầm tưởng rằng: Của cải vật chất là cùng đích và Ông làm chủ hoàn toàn của cải và mạng sống mình. Nhưng kỳ thực, Chúa là chủ của của cải vật chất và làm chủ cả mạng sống con người. Cái ngu ngốc của Ông nhà giàu là không biết mình là ai và mình được ban của cải vật chất để làm gì?
Giáo Lý Công Giáo dạy rằng: Ta sống ở đời này để tìm hạnh phúc, và hạnh phúc thật là được hiệp thông với Thiên Chúa. Hạnh phúc ấy chỉ có nơi Thiên Chúa, Vì ta được Thiên Chúa tạo dựng, nên khao khát hiệp thông với Người, như lời Thánh Augustinô nói: "Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, và lòng con những khắc khoải cho tới khi được an nghỉ trong Chúa". (Giáo Lý Công Giáo Chương I, số 27-49)
Không có hạnh phúc thật và trọn vẹn trong cuộc sống trần gian. Ai tưởng rằng của cải vật chất trần gian là hạnh phúc trọn vẹn của thiên quốc là đồ ngốc như Ông Phú Hộ trong dụ ngôn hôm nay. Thật sự chúng ta không làm chủ của cải vật chất, nhưng quản lý những của cải Chúa ban để nuôi sống bản thân và phân phát cho những ai cần. Điều nầy được tìm thấy trong nhiều chương, đoạn trong Kinh Thánh.
Phúc Âm Matthêô 25.15-30, dụ ngôn về những nén bạc. Chúng ta là những người được nhận những của cải vật chất để sinh lời cho Chúa. Phúc Âm Matthêô 6. 20, đề cập đến kho tàng không hư mất trên thiên đàng. Người khôn là người dùng những gì hay hư mất, tức của cải trần gian để mua lấy của cải không hư mất trên thiên đàng. Phúc Âm Luca 10. 30-37 nói về dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Anh ta biết dùng những gì mình có để giúp người lâm nạn cần giúp đỡ.
Ai nghĩ mình làm chủ hoàn toàn trên của cải vật chất, sống ích kỷ chỉ biết lo cho bản thân mình và không biết chia sẻ với người chung quanh giống như Ông nhà giàu trong dụ ngôn là người ngu ngốc. Trong thực tế không thiếu người ngu ngốc như Ông nhà giàu trong Phúc Âm hôm nay vì lầm tưởng rằng:
Mình giàu có, dư dật của cải vật chất là hoàn toàn do tài kinh bang tế thế của mình. Mình có quyền xử dụng của cải vật chất cho bất cứ mục đích nào mình muốn, dù là tội lỗi hay bất nhân. Nhiều người ngu ngốc không nghĩ là mình có thể chết bất cứ lúc nào, vì “đêm nay, mạng sống người sẽ bị đòi lại!”. Ai đòi? Ai cho thì người ấy đòi. Chúa ban cho sự sống và Chúa là người có thể kết thúc hay “đòi lại mạng sống người ngay đêm nay!”
Nên Ông nhà giàu trong dụ ngôn bị mắng ngu ngốc vì: tưởng rằng của cải vật chất là lẽ sống và là cùng đích đời sống. Vì những tưởng rằng mình làm chủ hoàn toàn trên của cải và mạng sống. Vì tiêu pha cả đời, thu tích nhiều của cải vật chất để rồi bỏ lại cho người khác hưởng. Vì không lo làm giàu trước mặt Chúa tức không chia sẻ cho người cùng khổ đang cần.
III. Thực Hành P.Â.
1. Việt Nam phô bày rõ rệt hai giai cấp giàu nghèo.
Ngồi ăn sáng trong một nhà hàng bên đường phố Sàigòn cho tôi cơ hội chứng kiến tận mắt cảnh giàu nghèo. Một cán bộ nhà nước chỉ chừng bốn mươi tuổi, mặt veston, rời khỏi xe hơi, tháp tùng bởi ba người khác. Tất cả, béo tốt, trịnh trọng bước vào quán. Bồi bàn đon đã cúi mọp chào lễ phép và kéo ghế mời “quan lớn” ngồi. Thức ăn đã chuẩn bị trước, chỉ chừng đôi ba phút sau, bàn dành riêng đã đầy thức ăn ngon bốc khói. Những thực khách sang trọng bắt đầu ăn uống thật hùng hồn như sắp vào trận chiến. Những tiếng húp nước hủ tiếu xì sụp, những âm thanh nhai nhóc nhách nghe rõ mồn một. Họ thật giàu sang nhưng xem chừng chưa hề học cách ăn uống sao cho có lịch sự. Họ là những người giàu có, nhiều tiền lắm của và đang tìm cách để phân tán tài sản nhằm tìm một bảo đảm cho tương lai lâu dài.
Anh tài xế cho quan lớn thật tội nghiệp. Thân gầy teo, nhưng Quan lớn không cho bước vào trong quán. Anh ngồi chồm hổm bên lể đường trông chừng chiếc xe hơi bóng láng của Ông chủ. Thỉnh thoảng anh lấy giẻ lau những chỗ bám bụi. Gần với anh tài xế làm công nầy là vài người ăn xin, đang xoè tay xin tiền thực khách. Những người ăn xin tự động bưng húp những tô hủ tiếu khách ăn bỏ dỡ. Những người ăn xin tự nhiên chụp lấy và nhai ngấu nghiến những xương heo, những cù lẵng mà thực khách đã ăn và bỏ lại trong tô.
Tôi buồn vô hạn khi chứng kiến cảnh đời đầy trớ trêu và cay đắng giữ giàu và nghèo nầy. Tại sao anh cán bộ chính phủ kia lại giàu có, ăn uống thừa mứa, đi xe hơi có tài xế và mặt mày kênh kiệu coi thường mọi người? Tại sao anh kia lại phải làm tài xế, trông chừng xe cho chủ ăn sáng. Tại sao lại có cảnh ăn xin quá thương tâm thế nầy?
Tôi thầm kêu trách Chúa: Chúa có thấy cảnh thưong tâm nầy không? Ai tạo nên cảnh bất công nầy? Chắc chắn là Chúa không tạo nên. Tất cả là con cái Chúa thì làm sao Chúa đối xử thiên vị với con cái mình, cho đứa thật giàu và cho đứa thật nghèo. Không! Bất công do con người gây ra, do tham sân si, do con người ngu ngốc nghĩ rằng: Mình làm chủ hoàn toàn trên của cải vật chất, mình tiêu xài hay xử dụng như thế nào tuỳ ý và quên chia sớt cho người đói khổ. Anh cán bộ chính phủ kia đáng để bị mắng “ngu ngốc” vì đã không biết tích chứa cho mình của cải đời sau hay làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Trông người mà nghĩ đến ta. Tôi cũng ngu ngốc khi quên rằng mình có ngày chết và cứ mong sao cho đủ tiền để hưu trí. Không chừng ngay đêm nay, Chúa sẽ bào tôi “Ta sẽ đòi mạng người”! Chương trình hưu trí tương lai sụp đỗ!
2. Đời sống đơn sơ: gương Cha Louis Viel
Đức Cha tôi hay nói về một simple life, về đời sống đơn sơ như thế nầy: Một chiếc xe tốt đôi ba chục ngàn, chạy lâu dài, bền bỉ, một văn phòng ngăn nắp thứ tự, một căn hộ tiện nghi và thoải mái, chỉ mua sắm những thứ gì cần xài hay cần cho công việc và phải có giờ dâng lễ và cầu nguyện.
Đối với Đức Cha tôi: đơn giản hay đơn sơ sẽ cho mình thoải mái và nhiều giờ tự do hơn. Nhờ được tự do và thoải mái, mình sẽ có giờ học hỏi hay làm việc hiệu quả hơn. Người sống đơn sơ sẽ ít lo âu và sống thọ hơn. Thí dụ: Nuôi chó và mèo trong phòng hay trong nhà không có gì xấu cả, tuy nhiên chó mèo tạo thêm công việc cho mình. Mình phải chăm sóc, đi mua thức ăn, cho ăn và đôi khi phải mang đi thú y. Linh mục thật không có giờ để dành cho chuyện nuôi chó mèo.
Cha Louis Viel trong địa phận tôi là mẫu gương của một người có nếp sống đơn sơ. Cha sinh năm 1923, chịu chức linh mục năm 1951, lúc mà tiền lương tháng linh mục chỉ có $25. Cha Louis làm việc tận tuỵ và có nếp sống rất đơn sơ: Ăn sáng, một quả trứng và hai mìếng bánh mì. Những đồ vật cá nhân cũng rất tương đối, không bao giờ nghe Ngài trách phiền hay cằn nhằn về những khó khăn trong đời sống hay gây phiền hà cho người chung quanh.
Ngài chết ngày 19.1.2009 và sau đó tôi nhận được giấy báo của luật sư cho biết là Cha Louis Viel đã để lại cho quỹ hưu trí linh mục địa phận số tiền là bốn trăm ngàn. Tôi sửng sờ và suy nghĩ thật nhiều về con người Cha Louis Viel: Sống đơn sơ và dành cả đời chuẩn bị cho mình của cải không hư mất. Cha thực sự đã làm giàu trước mặt Chúa bằng những hy sinh bác ái trong đời mình. Đáng khâm phục và đáng bắt chước!
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên
Tags:
PHỤNG VỤ