Headlines
Loading...
S.N Tin Mừng Chúa Nhật Năm A

S.N Tin Mừng Chúa Nhật Năm A


CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN NĂM AHẠT GIỐNG ÂM THẦM - MÃNH LIỆT 
Đức Hồng Y Etchaygaray có lần đã phát biểu: “Người ta dễ nghe thấy tiếng cây rừng bị đốn ngã, hơn là nghe thấy tiếng của triệu hạt giống đang cố vươn mình ngoi lên mặt đất.” Câu nói ám chỉ sự sống và sự hiện diện c?a Chúa Kitô Ngôi Lời Nhập Thể vào ngày Sinh Nhật của Ngài: Những người thành thị ồn ào với tiền bạc vật chất chợ đời, đã không thấy được sự sống vô biên của Chúa trong hình hài thơ nhi nhỏ bé giữa đồng hoang Belem. Chỉ những tâm hồn khiêm hạ, đơn sơ và khó nghèo của các mục đồng mới cảm nhận được sự sống ấy và trở thành những nhân chứng đầu tiên cho Tin Mừng ngày Chúa giáng sinh. Họ giống như tiếng sinh động của hàng triệu hạt giống âm thầm, đang cố vươn lên khỏi mặt đất để đem lại niềm vui và sức sống cho đời.  
Trong Bài Tin Mừng hôm nay, người ta nhận ra một chứng nhân vĩ đại khác của Chúa Giêsu, rất khiêm tốn, nhưng đầy lòng can đảm và cương quyết: Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa. Người đó là Gioan Tiền Hô, kẻ dọn đường cho Con Thiên Chúa đến. Ông cũng mang hình ảnh âm thầm của một loại tiếng động âm vang sự sống đang cố vươn lên khỏi mặt đất để gieo niềm vui và sự sống cho đời. Từ đó, nhân loại đã nhận ra Người ông giới thiệu: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Và cũng từ đó, tính cách chứng nhân luôn phủ đầy màu sắc khiêm tốn âm thầm, nhẫn nhục, can đảm và trung kiên, nhưng tràn đầy niềm vui của Đấng là nguồn tình yêu và sự sống cho nhân loại. 
Chính niềm vui và sự sống từ Hạt Giống khởi nguồn Giêsu đã truyền sang các tâm hồn tận hiến cho Ngài. Và họ đã quên đi chính mình và cuộc đời để tiếp tục chia sẻ sự sống và niềm vui ấy cho tha nhân. Mới đây, Cha Lê Hiền ở vùng Đất Mũi Cà Mâu trong bài chia sẻ Tin Mừng Là Hạt Mưa Rơi, đã diễn tả tính cách chứng nhân ấy nơi một người phụ nữ mảnh khảnh yếu đuối thể xác, nhưng đầy nghị lực, tình yêu và sức sống tâm hồn như sau: “... Chị là một nữ tu lớp thần học ... đi truyền giáo tại Cà Mâu. Sau một tháng sống ở Đất Mũi, chị hoàn toàn lột xác vì sống tạm cùng với bà con lương dân, cùng ăn, cùng ở và cùng chia sẻ cuộc sống; chị sống trong một lều tranh chơ vơ bên bờ kênh, mong manh, tạm bợ... Ngày đêm muỗi mòng thi nhau hút máu chị. Nhưng chị không ngã xuống, vẫn ngày ngày đứng lên gieo truyền sức sống mà chị đã lãnh nhận...” Phải, các mục đồng, Gioan Tiền Hô, chị nữ tu Đất Mũi Cà Mâu hay trăm ngàn những chứng nhân khác của Chúa Kitô cũng đều đồng dạng trong sự sống âm thâm mãnh liệt, đang cố vươn lên khỏi mặt đất để gieo rắc niềm vui và sự sống cho đời. Tất cả đều tâm niệm: Tôi đã thấy, và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên  
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN NĂM ASUY TƯ CHO MÌNH 
Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu nói: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta”. (Mt 4:19) Lập tức họ theo Người. Thật là lạ lùng! Nghĩ về các tông đồ cũng gợi tôi nhớ về mình. Tôi cũng trả lời tiếng gọi theo Chúa, nhưng đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều rồi mới gật đầu. Có nhiều trường hợp sau khi cuộc đời “trầy trụa” ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh, rồi mới thấy tu là cõi phúc tình là giây oan, nhưng vẫn chưa trọn vẹn!  
Nghĩ về đời sống bên Chúa của các tông đồ, tôi thấy họ chậm chạp và tràn đầy những yếu đuối vấp ngã; nhưng khi nghĩ về mình, tôi thấy mình còn tệ hơn các ngài nhiều quá. Cái tệ hiện hữu chỉ vì nhiều khi không dám chấp nhận thật thân phận yếu đuối và giới hạn của mình. Này nhé, tôi là linh mục, và người ta ca tụng chức linh mục không tiếc lời; nhưng nghe những lời ca ngợi ấy, tôi cảm thấy ngượng ngùng, trống vắng và xấu hổ trong nội tâm tôi, bởi những lời ca tụng ấy vượt quá thân phận con người yếu đuối. Đôi khi ngược lại được nghe những lời kết án của tha nhân trên mình, hình như có gì phản kháng trong nội tâm tôi, bởi những lời đó lại cũng vượt quá cả sự kết án mà tôi có thể dành cho tôi. Có lần người ta bảo thì cứ bỏ những thư rơi rớt và đàm tiếu vào thùng rác là xong, nhưng tôi ngại ngùng, cố cầm lên để so sánh mình với những yếu đuối và giới hạn trong thân phận con người đang là phần đời của mình.  
Đôi khi người ta cũng thẳng tay áp dụng vào thân phận linh mục cái cuộc đời của những người Pharisiêu bị Chúa kết án; nhưng thực ra không phải như vậy, bởi tôi tin các tông đồ cũng như tôi đều được chiùnh Chúa Kitô thương gọi và chọn lựa để trở thành những kẻ lưới người, cho dù có yếu đuối tội lỗi đi nữa! Bởi đời phức tạp và bao la như biển cả mênh mông không đáy, nên đôi lúc tôi cũng bị cuốn hút vào những cám giỗ khôn nguôi. Chúa Kitô bảo tôi hãy coi chừng đừng ham mê vật chất và danh vọng , kẻo sẽ làm dịp cho tôi bỏ Chúa như tông đồ Giuđa ngày nào. Thực ra, tôi chỉ là người như bao người khác, chỉ khác một điều là tôi đã xin vâng muốn thành kẻ lưới người. Và thành công của tôi chỉ đạt được khi tôi thực sự sống cho Chúa và tha nhân. Cái lý tưởng lưới người đã gắn tôi vào Ngài và nhân loại. Tôi sẽ trở nên đích điểm của những nương tựa, ủi an, đỡ nâng, nhưng cũng trở nên mục tiêu của những kết án, lăng nhục, và đọa đày như chính Đấng đã gọi và biến tôi thành kẻ lưới người. Cuộc đời vẫn mãi mênh mông và phức tạp như biển cả bao la, và tôi như kẻ đang bơi ngược dòng hướng nhìn về Chúa. Xin Chúa giúp con can đảm mãi theo Ngài. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN NĂM ANHỮNG MỆNH LỆNH YÊU THƯƠNG 
Trong Phim Ben Hur, đạo diễn cố tạo ra khung cảnh vừa ngoạn mục, vừa phác họa thân phận bất lực của con người trên một ngọn đồi, để làm nổi bật Bài Giảng Trên Núi về Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giêsu. Người ta có thể từ đó đọc được ý nghĩa phó thác cậy trông nhiều hơn vào tình thương Chúa, hoặc có khi cũng được an ủi yên vui khi tin thật vào những lời hứa của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, bản chất của Tám Mối Phúc Thật, vì là hiến chương Nước Trời, nên không hề có tính cách tiêu cực, mà thực sự là những mệnh lệnh yêu thương cho cuộc sống nhân loại hướng về Nước Trời. 
Thực vậy, những lời hứa của Chúa Giêsu như Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp; hoặc tương tự như Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an... không có nghĩa tiêu cực an ủi trong thân phận và hoàn cảnh buộc phải chịu vậy, để được một điều tốt hơn, bởi suy nghĩ cho kỹ, thì một khi đã mang thân phận con người sau tội tổ tông, có ai trong đời mà không buồn đau, nghèo khó, đói khát, yếu đuối, tội lỗi và phải chịu muôn phần cơ cực... Như thế những lời hứa của Chúa Giêsu chẳng những nói lên sự thật đời người trước các hậu quả của tội tổ tông, mà còn là những con đường buộc nhân loại phải đi ngược lại cái thân phận bị ảnh hưởng trong bản năng yếu đuối và tội lỗi của mình, để có thể hưởng được ơn cứu độ của Chúa.  
Thế nên một khi sống hiền lành, là tức khắc phải từ bỏ các khuynh hướng và hành động gian ác; một khi chịu cảnh buồn đau, thì lập tức thấy rõ hơn thân phận mình, rồi phó thác vào Chúa thì sẽ được Ngài an ủi đỡ nâng; một khi khát khao điều công chính, thì dĩ nhiên phải từ bỏ con đường bất công trong đời, để nép mình theo đường lối chính trực của Chúa; một khi biết xót thương người, là chính lúc phải khắc phục bản tính ích kỷ tiềm tàng sâu kín trong nội tâm ta, mới hiểu được niềm khao khát yêu thương của tha nhân cũng là của mình; một khi muốn tâm hồn trong sạch, phải can đảm lắm trước các cám dỗ tội lỗi và các khuynh hướng xấu xa; một khi biết ăn ở thuận hòa, phải luôn chiến thắng bản tính hiếu thắng và cái tôi không chịu nhường bước trước các mối lợi cho riêng mình; và một khi chấp nhận chịu bách hại vì Chúa, thì cũng chấp nhận cái chết như Chúa Kitô. Tất cả các mối phúc thật do đó trở nên những mệnh lệnh cho đời người Kitô hữu. Những mệnh lệnh này rất lạ lùng, vì mở đầu bằng lời chúc phúc, nên không còn mang tính bắt buộc, mà là những lời mời gọi yêu thương của Chúa Giêsu, để con người có thể đi vào con đường thánh thiện trên hành trình tiến về thiên quốc. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên  
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN NĂM AVÒNG TRÒN ĐỨC TINĐời sống người Kitô hữu khởi đầu bằng ơn kêu gọi trở thành con cái Chúa và chiến sỹ của Chúa Kitô qua Bí Tích Rửa Tội. Chính ơn kêu gọi này bắt đầu vòng tròn đức tin suốt hành trình cuộc sống. Nhưng vòng tròn đức tin ấy chỉ thực sự mang lại hiệu quả, hay đúng hơn biến hóa họ trong cuộc sống mới, hoặc thêm bước nữa là giúp họ tìm thấy và sống ơn gọi mới trong vòng tròn đức tin, khi thực sự trở thành muối và ánh sáng thế gian theo yêu cầu của Đức Kitô đòi hỏi.  
Thực ra, khi nói về Vòng Tròn Đức Tin của người Kitô hữu, là trước hết xác định một con đường xem ra có vẻ cố định, được lặp lại suốt cả cuộc đời. Nó khởi đầu bằng Ơn kêu gọi trở thành con cái Chúa, và ơn kêu gọi đặc biệt trong cuộc sống riêng mình. Ơn gọi này được nâng đỡ qua đời sống gia đình, nhà trường, nhà thờ, bạn hữu và xã hội trong các môi trường sống trên thế giới này. Người Kitô hữu sẽ dần trưởng thành để đối diện với đêm tối đức tin hiện diện trong mặt trái của cuộc đời. Cuộc chiến đấu đức tin thực sự khi đối diện với bóng tối sẽ lên tới tột đỉnh khi phải chọn lựa giữa những biểu tượng của sự chết và sự sống, qua những gì họ mất đi và đạt được. Và qua giai đoạn này, họ sẽ tìm thấy ánh sáng đức tin thực sự của ơn kêu gọi khởi đầu làm con cái Chúa, vì những đau khổ đã trôi luyện họ sẽ trở thành những món quà trên hành trình thực sự của đức tin. Chính những món quà đức tin sau thử thách sẽ làm họ vững mạnh hơn để tìm ra cho mình ơn kêu mới trong đời.Từ ơn kêu gọi mới này, hay đúng hơn, ơn thánh họ nhận được sau những thử thách đêm tối đức tin, sẽ thúc đẩy họ hiểu rõ ơn gọi mà Đức Kitô đặt trong đáy sâu tâm hồn khi chịu Rửa Tội: Trở thành muối và ánh sáng thế gian. Việc thực hành giai đoạn trở thành muối và ánh sáng thế gian lại đưa họ vào một Vòng tròn đức tin mới của người Kitô hữu. Chúng ta có thể nói rằng, vòng tròn đức tin mới ấy không hẳn sẽ làm cho họ tốt hơn đời sống trong vòng tròn đức tin quá khứ một cách tự động, nhưng sẽ đưa đến một kết luận quan trọng mà chúng ta thường nghe: Đời là cuộc thử thách không ngừng. Do đó, tiến trình trở thành muối và ánh sáng thế gian không phải là những kết quả việc làm của riêng mình, mà đúng hơn là việc thực hiện ý Chúa Kitô trong đời sống, vừa có thể biến đổi chính mình, và vừa có thể biến đổi tha nhân trong môi trường sống nên tạo vật mới. Và việc làm này không hệ tại sức riêng chúng ta, nhưng sẽ bắt nguồn từ động lực chính là quyền năng Thiên Chúa trong Thánh Thần của Chúa Kitô thực hiện. Suy nghĩ và sống Vòng tròn đức tin Kitô giáo sẽ giúp chúng ta trở thành tạo vật mới thực sự của Thiên Chúa. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN NĂM A
CÁI TÔI, CÁI BẪY
  
Trong đời sống thiêng liêng, cái tôi hình như không có chỗ đứng, bởi Chúa Kitô đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Như thế, từ bỏ cái tôi chính là cách duy nhất để trở thành môn đệ Chúa Kitô và nên thánh. Tuy nhiên, ngược lại, khi từ bỏ cái tôi, không có nghĩa là hủy diệt mình khỏi sự hiện hữu, vì cũng chính cái tôi ấy sẽ là đơn vị hiện hữu và rất thực, rất căn bản để làm nên chính mình, và là khởi điểm của con đường nên thánh.Điều chúng ta suy tư về cái tôi trong đời sống thiêng liêng là biết nhận ra cái tôi của mình như cái bẫy cho chính mình. Khi cái tôi trở thành cái bẫy cho tôi, lúc đó tôi sẽ chỉ thấy mình lơn hơn tất cả mọi thứ; nó sẽ che khuất tôi khỏi thánh nhan Chúa và sự hiện diện của Người trong các tạo vật. Nó sẽ trở thành cái bóng vĩ đại che khuất tôi khỏi sự hiện diện của tha nhân quanh mình, và lập tức tôi sẽ rơi vào tình trạng kiêu căng bao trùm lên tất cả. Cái tôi ấy luôn thúc đẩy tôi sống ích kỷ và xâm lấn tha nhân. Và dĩ nhiên Satan sẽ điều khiển tôi như cái máy trong tình trạng mù quáng kiêu căng này.  
Chúa Giêsu Kitô, dù là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, đã phán rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri; Ta không đến hủy bỏ, nhưng để kiện toàn; ” cho dù chính Ngài có đủ quyền năng để làm nên một bộ luật hoàn toàn mới khác với luật cũ. Điều đó cho thấy rằng, đức bác ái trong luật mới mà Chúa Kitô kiện toàn sẽ vô cùng bao la và quảng đại như chính cuộc khổ nạn trên thập giá mà Ngài tự ý chấp nhận để cứu chuộc nhân loại. Và một khi những ai theo Chúa Kitô, nghĩa là mang trên mình danh hiệu Kitô hữu, cũng sẽ theo gương Ngài từ bỏ cái tôi ích kỷ như cái bẫy trong đời sống thiêng liêng, để có thể can đảm thứ tha và yêu thương như của lễ hy sinh mới hằng ngày trên bàn thờ. Của lễ đó không là nghi thức buồn chán, nhưng là sự đóng góp hy sinh sống động trong tiến trình từ bỏ: “Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ tại bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ”. Đòi hỏi từ bỏ cái tôi của Đức Kitô sẽ thanh tẩy tâm hồn các tín hữu nên hoàn thiện và được sống trong an bình; và trong trạng thái bình an ấy, họ sẽ dễ dàng khiêm tốn nhận ra quyền năng và tình thương Chúa trên mình, cũng như dễ dàng chia sẻ với những giới hạn và yếu đuối của tha nhân trên hành trình đức tin trong đời sống thiêng liêng vậy. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN NĂM A“YÊU KẺ THU” LÀ CHÂN LÝ TÌNH YÊU
Có lẽ đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu hôm nay đã gây rất nhiều thắc mắc và đố kỵ, nhất là đối với nhiều người không biết và không quen với tinh thần Kitô giáo, và ngay cả với các Kitô hữu không chừng. Chẳng hạn cách đây vài năm, ông tổng thống nước Iran có lần đã chê bai và lên án những người Kitô hữu là những kẻ yếu kém và nô lệ, chỉ vì tôn thờ Đức Kitô chịu đóng đinh và chết như kẻ nô lệ! Và có lẽ không một ai đã từng sống dưới chế độ cộng sản mà lại không biết hoặc không kinh nghiệm chính sách khắc nghiệt đến độ tàn bạo đối với các tôn giáo, nhất là Kitô giáo! Họ đã không thể chấp nhận được một lối sống của lý thuyết yêu thương, tha thứ ngay cả cho kẻ thù đến độ như khờ khạo và không tưởng mà Đức Kitô đã dạy và làm gương. Vì thế không lạ gì Kitô giáo loan truyền đến đâu cũng đều bị ngăn chặn, và những kẻ theo Kitô giáo thường bị bách hại.
Ngoài ra, ngay trong lòng giáo hội Công Giáo, nhiều tín hữu cũng rất hờ hững với luật yêu thương của đoạn Tin Mừng này, đó là chưa kể đa số các tín hữu đều không thể giữ trọn luật bác ái mến Chúa yêu người của Chúa Kitô trong suy nghĩ cũng như trong hành động! Câu hỏi đặt ra là phải chăng những điều Chúa Giêsu Kitô dạy trong đoạn Tin Mừng này là không tưởng, là biến người theo thành những kẻ khờ khạo, là không thể thực hiện được? v,v. . . và nếu tuân giữ những điều ấy thì được lợi ích gì?
Đây chỉ là suy tư vắn tắt mang tính suy niệm Lời Chúa, nên thiết tưởng cần cá nhân hóa những lời của Chúa Giêsu vào cuộc sống đạo, và ngay cả đời thường, sẽ thấy hiệu qủa rất phi thường của tình yêu Thiên Chúa cả trong đời sống tâm lý lẫn tinh thần và tôn giáo. Trước hết Chúa Giêsu dạy đừng chống cự với kẻ hung ác, (dĩ nhiên tuyệt đối không trả thù theo lối mắt đền mắt răng đền răng của đạo cũ theo luật Maisen) và còn quảng đại với họ bất cứ điều gì khi họ muốn, như bị tát má này, đưa luôn má kia. ... Chúng ta không hiểu vì sao Chúa Giêsu lại dạy như vậy. Tuy nhiên người ta có thể hiểu những kẻ hung ác hoặc kẻ thù vào thời của Ngài là những kẻ chiếm đóng quốc gia Do Thái, tức những quân quyền Rôma tàn bạo. Điều xảy ra trong thực tế cuộc sống con người, là bất cứ khi nào một hành động hung dữ hay xấu xa được đáp trả lại bằng tình yêu, lòng quảng đại, sự bao dung tha thứ, và nhất là bằng hành động tích cực yêu thương giúp đõ, thì kết quả vần là dập tắt được ngọn lửa hận thù, và có thể biến đổi đối phương. Người không trả thù thì không bị tình cảm thù hận hành hạ, và họ luôn sống trong an bình, họ có thể thoát được những dằn vặt đến độ biến họ thành mát' hay thành khờ. Họ là những kẻ mạnh, chứ không phải kẻ thù của họ. Nhưng nếu hàïnh động ngược lại, tức tìm trả thù, thì lập tức họ trở thành nạn nhân của sự thù hận. Chúa Giêsu đã chọn con đường yêu thương đến độ chấp nhận chết như một tội nhân, để đổi lại toàn thể những tội nhân con người thành con cái Thiên Chúa. Chân lý cứu độ của Chúa Giêsu chính là chân lý tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa đã biên đổi toàn thể nhân loại đến muôn ngàn đời. Những ai giữ lời Ngài thì hòa nhập vàp tình yêu Thiên Chúa. 
Lý do khác mà Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha chung trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên, hoặïc cho những cơn mưa xuống chung cho cả người lành lẫn kẻ dữ, cho người công chính lẫn kẻ tội lỗi. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy rất phi thường, nhưng cũng rất thức tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn đầy tình thương như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái theo hoàn cảnh của chúng. Tình thương như ánh sáng ban sự sống, và từ sự sống sẽ cảm nghiệm được tình thương của Đấng ban ánh sáng qua mặt trời sáng như vô tận. Tình thương tràn lan như nước nuôi dưỡng sự sống, và từ sự sống cũng cảm nghiệm và biết ơn Đấng ban nước qua những cơn mưa nuôi sư sống. Tất cả các con cái một khi cảm nghiệm được tình thương bao la của Cha mình, sẽ tự nhiên chia sẻ và thông cảm với nhau hơn, cũng như sẵn sàng tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau, vì chúng đang hòa nhập trong tình yêu của cha mình. Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Bác Ái, Đạo Tình Yêu, vì bản tính Thiên Chúa là Tình Yêu. Con người sẽ chỉ cảm nhận được Thiên Chúa Tình Yêu là Cha mình khi ở trong tình yêu với Ngài và trong sự hòa hợp tình yêu của mình với anh chị em nhân loại gồm mọi loại người khác nhau. Người ta không thể chấp nhận được những điều Chúa Giêsu dạy, vì người ta chưa biết Thiên Chúa. Người ta không giữ được điều Chúa Giêsu dạy, vì người ta không cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa là Cha. Điều mà Thánh Gioan thánh sử công bố: Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa, sẽ mãi mãi là chân lý giữa thế giới loài người. Một khi biết chấp nhận mọi người là anh chị em con cùng Cha trên trời, thì ranh giới tù hận từ từ sẽ biến đi. Là những Kitô hữu, chúng ta có thể bắt đầu thực hiện ngay hôm nay trong các gia đình mình, sẽ cảm nhận hạnh phúc và tự do tràn ngập tâm hồn mọi thành viên trong gia đình, vì hạnh phúc ấy đến từ Thiên Chúa tình yêu là Cha chung trên trời. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN NĂM A
TRỞ LẠI TRẬT TỰ TẠO HÓA - TẠO VẬT

Đọc xong Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, tự nhiên một câu hỏi thoáng qua tâm trí: Vật chất đến trước các lo lắng về vật chất, hay các lo lắng về vật chất có trước vật chất? Thật lẩn quẩn trong tâm trí và đời sống con người! Chẳng khác gì Thiên Chúa (dựng nên con người) có trước con người, hay con người có trước Thiên Chúa?
Trong ánh sáng đức Tin Kitô giáo thì dĩ nhiên Thiên Chúa có từ đời đời, và con người mới được Ngài dựng nên không biết từ mấy ngàn hay mấy triệu năm nay thôi? Lý luận gì đi nữa một khi chấp nhận có Đấng dựng nên vũ trụ và trái đất này cùng với các sinh vật trên đó, thì dĩ nhiên con người không thể có trước Thiên Chúa. Lại thêm một điều luẩn quẩn!
Khi con người hiện hữu, các sinh vật khác đồng thời cùng hiện hữu, và theo Sách Sáng Thế Ký của Kinh Thánh, thì các sinh vật do Thiên Chúa dựng nên là để phục vụ con người. Con người quả thật rất may mắn được Ngài ban cho quyền cai trị trên vạn vật. Sở dĩ có những lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: “Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc, chỉ bởi vì con người đã dùng tự do Thiên Chúa ban cho để đảo lộn cái trật tự thiêng liêng cao quí “làm con Thiên Chúa” để muốn tự đại “lên bằng Thiên Chúa!” Thế là từ đó họ bắt đầu lo lắng về cái mạng sống rất bấp bênh trong cái trật tự mà chính họ đã tự đảo lộn. Khổ nỗi là những đối tượng bị đảo lộn là Thiên Chúa và vạn vật lại không hề hấn gì, còn chính họ ngược lại trở thành những nạn nhân rất mong manh trong các lo lắng về vật chất đang ảnh hưởng cuộc sống và cũng đang tiêu diệt chính họ!
Để khỏi phải lo lắng cho mạng sống tìm ăn tìm mặc, Chúa Giêsu bảo trước tiên hãy trở lại trật tự vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa: “Các con không thể làm tôi hai chủ ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền tài được!” Khi làm tôi Thiên Chúa thì tự nhiên được sống trong tình Chúa, trong Nhà Chúa, trong sự chăm sóc bảo vệ của Chúa, và trong sự an bình vĩnh cửu của Ngài. Nhân loại tự nhiên trở thành con cái của Thiên Chúa khi biết dùng tự do trở về và phụng sự Thiên Chúa. Chẳng có gì xấu hổ và tự ái khi nhận mình là tạo vật của Đấng Tạo Hóa, và nhất là được Ngài yêu thương. Ngược lại khi làm tôi tiền tài vật chất, con người tự nhiên lúc nào cũng sợ mất đi cái mạng sống rất mong manh như chính vật chất vậy, bởi bản tính của vật chất là hư vô và không bao giờ tồn tại.
Thứ đến Chúa Giêsu dạy con người nếu muốn thoát khỏi lắng lo về mạng sống mong manh của mình, thì hãy biết “nhìn xem chim trời không gieo không gặt không thu vào kho lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng; hoặc hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, coi chúng mọc lên thế nào?” Và Chúa Giêsu trả lời: “Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức bằng một trong những đóa hoa đó!” Qua dòng thời gian, chim vẫn làm tổ, vẫn sinh con, vẫn nhởn nhơ vui đùa ca hót và reo vui làm vui cuộc đời. Cũng qua dòng thời gian, hoa huệ vẫn nở và trong trắng xinh đẹp lộng lẫy, cái đẹp trinh trong mà không tâm hồn nhân loại nào có thể so sánh, nếu đã không được thanh tẩy. Còn Salomon và vinh quang của ông thì đã trở thành đống tro tàn mất rồi! Chính vì thế nhân loại sẽ chỉ hiện hữu thực sự trong Thiên Chúa, mới thoát khỏi lắng lo cho kiếp sống mong manh của mình. Khi quan sát sự hiện hữu và cách sinh tồn của các tạo vật khác như Chúa Giêsu dạy, sẽ giúp con người tìm về và nhận ra Đấng Tạo Hóa dựng nên và đang an bài cho đời sống của họ. Họ cũng đồng thời tìm ra câu trả lời cho thân phận mình qua câu hỏi của Chúa Giêsu: Nào các con không hơn chúng sao? Đây là tất cả danh dự của của con người trước mặt Thiên Chúa: Họ chính là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tự hỏi: Tại sao mình lại đi xa Thiên Chúa, Đấng toàn năng và là Cha tràn đầy tình yêu thương mình, để rồi chuốc lấy lo lắng cho kiếp sống thực ra chẳng hề mong manh chút nào khi gắn bó với Ngài?
Tại sao lại để mắt mình mù lòa trước các ảo tưởng của vật chất và vinh hoa giả tạo của các tạo vật, trong khi vẫn nhắm mắt lại trước sự huy hoàng vô cùng cao cả của Đấng Tạo Hóa, mà các tạo vật chỉ phản ảnh được đôi chút vinh quang rất nhỏ xíu của Ngài?
Và nếu cứ tiếp tục đặt các câu hỏi trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa và các tạo vật, tự nhiên chúng ta sẽ biết thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự; đồng thời cũng sẽ biết trao hoàn toàn đời sống chúng ta trong sự quan phòng kỳ diệu của Ngài, để có thể sinh tồn thiên thu. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 9 THƯỜNG NIÊN NĂM A
XÂY NHÀ TRONG CHÚA
 Tiếng kêu "Lạy Chúa hay Trời ơi" thường phát xuất rất tự nhiên trên môi mọi người khi họ phản ứng trước một việc hay sự kiện bất thường, hơi qúa, hoặc hồi hộp, hay có khi kêu cứu, vv... Còn tiếng "Lạy Chúa" mà Chúa Giêsu nói trong Phúc âm hôm nay thì mang ý nghĩa khẩn cầu. Đối với Ngài, tiếng khẩn cầu ấy chỉ có hiệu nghiệm khi người cầu khẩn biết thực hiện ý Chúa trong cả cuộc đời, chứ không chờ đến những lúc họ cần kêu cứu.
Nhìn toàn diện nội dung của lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay, tiếng cầu khẩn ấy nói lên một cách sống, một sự chọn lựa dứt khoát, và một lý tưởng sống để đạt được ơn giải thoát vĩnh cửu. Sự lựa chọn và lý tưởng sống ấy được Chúa Giêsu so sánh như hình ảnh một người xây nhà mình trên đá, không phải trên cát. Nhà xây trên đá được hiểu theo nghĩa vững chắc do nền móng bằng đá. Kinh nghiệm nhân loại cho hay, một căn nhà vững chắc và kéo dài nhiều năm, thì bao giờ cũng phải dùng những vật liệu vững chắc cho nền móng, và nhất là phải tương đối hoặc chắc hơn trọng lượng của căn nhà.
Một căn nhà linh hồn muốn vững chắc cũng phải xây trên nền đá cứu độ là Chúa Kitô. Trong Chúa Kitô, linh hồn ấy có sự sống vững bền muôn đời. Được xây dựng cuộc sống trong Ngài, căn nhà linh hồn ấy sẽ không bị lay chuyển trước các giông bão của cám dỗ, tội lỗi và sức quyến rũ hủy diệt của Satan, của thế gian và ngay cả những ảo tưởng do con người tạo ra, v v . . . Linh hồn đó được xây dựng trong Chúa, nên tiếng cầu khẩn Lạy Chúa chắc chắn sẽ có hiệu qủa, vì hợp với ý Chúa mà họ đã vâng theo và chọn lựa, như lời cầu khẩn xin vâng ý Cha mà Chúa Kitô đã thực hiện trong sứ mệnh cứu chuộc nhân loại.
Điếu chúng ta suy niệm hôm nay là xét lại tình trạng căn nhà cuộc sống mình. Căn nhà ấy không phải chỉ khởi đầu xây dựng một lần là xong, nhưng phải tiếp tục xây dựng nó đến hết cuộc đời theo năm tháng trôi đi. Thời gian cuộc sống luôn là thử thách gọi đến lòng trung thành bền vững trong đức tin và tình yêu Chúa của chúng ta. Thời gian cuộc sống sẽ biểu lộ chặng đường gian truân như những giông bão cuộc đời đè nặng trên số phận đời đời của mình. Nhưng cho dù bão giông đến mấy, nếu nền móng căn nhà cuộc đời bằng đá, tức CN8TNAlà sức mạnh của Chúa, sẽ chẳng làm chúng ta chuyển lay và trôi dạt tan biến. Lời cầu khẩn Lạy Chúa của chúng ta vào lúc giông bão sẽ trở thành lời tuyên xưng đức tin và tình yêu tuyệt đối trong Chúa. Chính Chúa sẽ trở nên nguồn sống và ơn cứu độ mà chúng ta đã chọn cho căn nhà cuộc đời của mình.
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN NĂM ASỰ ĐA DẠNG CỦA GIÁO HỘI
Hình ảnh Chúa Giêsu ngồi ăn chung với những người thu thuế và tội lỗi cho chúng ta cái nhìn và cách sống trong các hoạt động của Giáo Hội qua việc chia sẻ các chức vụ khác nhau của mọi Kitô hữu. Nếu phải thẩm định chỗ đứng xác định hoạt động kitô hữu của mình, chúng ta có thể căn cứ vào Đức Kitô hiện diện và hành động trong bản tính nhân loại và Thiên Chúa của Ngài ở trần gian. Chúa Kitô không chỉ hiện hữu trong Bản tính Thiên Chúa cao sang trên núi Taborê, nhưng Ngài còn mang bản tính nhân loại với các hoạt động bình thường trong đời sống hằng ngày, để có thể hiện diện với con người, nhất là giữa những người bất hạnh và tội lỗi như những người thu thuế bị xã hội Do Thái thời đó lên án. Qua sự hiện diện và các hoạt động của Chúa Giêsu, chúng ta cũng nhìn thấy trong Giáo Hội của Ngài hôm nay đang thể hiện tính đa dạng trong các chức vụ giữa lòng thế giới.
  
Thực vậy, nếu chỉ nhìn vào một giáo xứ nhỏ mà thôi, thì sẽ thấy một tổ chức tuy nhỏ, nhưng rất đa dạng trong các hoạt động hội đoàn, các nhóm, các ban ngành khác nhau, nhất là các tổ chức lãnh đạo và điều hành quản trị trong việc chia sẻ các sinh hoạt và đời sống giáo xứ kể cả vật chất lẫn tinh thần. Mỗi giáo dân do đó đều có chỗ đứng và trách nhiệm của mình trong guồng máy một giáo xứ, để xây dựng Nước Chúa ở trần gian. Với cái nhìn bao quát đó, người ta sẽ không còn độc đoán giữ riêng cho mình danh dự hay trách nhiệm điều hành bất cứ tổ chức nào trong giáo xứ, hoặc lên án các cá nhân trong các chức vụ riêng của họ, hay trong sự thể hiện ơn kêu gọi khác nhau.   
Nhờ sự hiện diện của Chúa trong hai bản tính người và Chúa ở trần gian, Giáo Hội Chúa Kitô cũng hiện diện ở mọi cấp bậc và cuộc sống con người. Có những hoạt động cho việc phượng tự trên bàn thờ, lại có những hoạt động hiện diện trong các bệnh viện, trong các sinh hoạt lao động giữa các giai cấp thợ thuyền, nông dân, vv... Có những hoạt động trong công việc giáo dục nhà trường, lại có những công việc giúp cải thiện những người lỡ bước sa ngã tội lỗi trong xã hội. Có những thừa tác trong các Bí Tích thánh, lại có những thừa tác đang âm thầm sống thánh thiện như men muối giữa đời để hoán cải các môi trường cuộc đời,vv. Tất cả đều thể hiện sự hiện diện của Chúa Kitô trong hai bản tính người và Chúa của Ngài giữa con người. Toàn thể nhân loại đều là con Chúa, và mọi người đều mang trong mình thân phận yếu đuối tội lỗi cần Chúa thứ tha, và cần sự đỡ nâng của anh em đồng loại. Hình ảnh Chúa Giêsu giữa những người tội lỗi và thu thuế đang mời gọi chúng ta đến gần nhau để xây dựng cho Nước Chúa.
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN NĂM AMỘT TƯỞNG TƯỢNGBạn thử hướng nhìn về thế giới con người nói chung và riêng xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, và bằng tưởng tượng hãy cho một con số về số người trên thế giới cũng như trong xã hội Do Thái, sẽ nhận ra nỗi thao thức của Chúa Giêsu về việc truyền giáo cho Nước Thiên Chúa quan trọng thế nào. Chắc chắn số người trên thế giới lúc đó so với hôm nay sẽ nhỏ lắm. Thí dụ hiện nay có khoảng từ 6 đến 8 tỷ người, thì vào khoảng hơn 2000 năm trước, con số nhiều lắm là bằng 0.2 phần 8 hay 10 là cùng; và số người trong Xã hội Do thái lúc đó chỉ tính bằng con số 12 bộ lạc gọi là 12 chi tộc Israel thôi, và như thế cũng chỉ ngang bằng một thành phố nho nhỏ hiện nay. Tuy nhiên điều đó không quan trọng, vì là tưởng tượng. Điều quan trọng là thao thức truyền giáo mà Chúa Giêsu tâm sự với các môn đệ của Ngài: Hãy đưa mắt nhìn đồng lúa: Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ gặt đến cánh đồng của Người. Nỗi thao thức của Chúa Giêsu qủa thực rất chí lý, bởi Ngài vừa mới tụ tập được có một nhóm nhỏ 12 tông đồ như những cán bộ nồng cốt, nền tảng và căn bản cho Giáo hội của Người ở trần gian. Những người theo nghe Chúa Giêsu lúc đó chắc cũng khá, vì nguyên một đám đông tụ lại trong phép lạ hóa bánh ra nhiều đã tính được độ dăm ngàn không kể đàn bà và con nít. Nhưng họ mới theo mà chưa thực sự gia nhập Hội Thánh Chúa. Có thể nói Giáo Hội sơ khai gần như con số không; và lời dạy kêu gọi cầu xin của Chúa Giêsu với Chủ ruộng là Chúa Cha thật là khẩn thiết.Còn ngày nay chỉ riêng Giáo Hội Công Giáo đã có trên một tỷ mốt người rồi, ấy là chưa tính con số các Kitô hữu khác trong các Giáo Hội như Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo hoặc Công Giáo Cổ... Con số người theo Chúa xem ra tương đối trên tỷ số 6 đến 8 tỷ người trên thế giới. Vậy lời kêu gọi xin thợ gặt cho Nước Chúa có còn cần thiết nữa hay không? Có thể nói tiếng kêu cầu ấy lúc nào cũng rất ưu tiên khẩn thiết trong lịch sự nhân loại, bao lâu dù chỉ còn một người chưa nhận biết Chúa, huống chi còn cả hàng 5 hay 6 tỷ người hiện nay chưa biết Ngài, và vẫn còn xa lạ với Tin Mừng Cứu độ của Chúa Giêsu. Cứ thử xem ngay trong một giáo xứ với độ trên 10 ngàn giáo dân mà chỉ có 3 linh mục làm việc, thì đã thấy qúa vất vả cho các linh mục ấy rồi, vì không thể thỏa mãn hết các nhu cầu tinh thần và tôn giáo cho mọi giáo dân, nhất là trong một xã hội văn minh nhiều vấn đề gay cấn cho đức tin và phức tạp cho luân lý! Và điều đáng buồn là số người dâng mình cho Chúa mỗi ngày một ít đi. Do đó việc cầu xin cho có thêm thợ gặt qủa thực hết sức quan trọng, và việc nỗ lực cổ võ và đào tạo các thợ gặt càng quan trọng và khẩn thiết hơn. Bạn hãy im lặng và cầu nguyện, sẽ cảm thông được với ChúaGiêsu và thấy sẽ rất đáng hy sinh cho Nước Trời. 
Lm. Raphael Xuân NguyênCHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN NĂM ASỢ HÃI
 
Một trong những thứ bóng tối ghê sợ nhất của đời người cứ như hồn ma ám ảnh: đó là những nỗi sợ hãi có tên lẫn không tên! Có những thứ không tên gọi là sợ hãi vu vơ vô lý, như sợ ma chẳng hạn, cho dù cả đời chẳng hề thấy một bóng ma. Có những thứ sợ hãi mang tên đủ loại bao trùm cuộc sống nhân sinh từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời. Người ta không thể thoát ra khỏi những hồn ma sợ hãi có tên bao lâu vẫn còn hiện hữu. Cứ thử ngẫm nghĩ một lúc thôi, là thấy đời mình đã và đang bị bủa vây chằng chịt bởi sợ hãi. Chẳng hạn khi vừa sinh ra thì đã vang lên những tiếng khóc có vẻ bi thương thống thiết mang tình cảm sợ hãi nhiều hơn vui mừng, bởi vừa thoát mất sự che chở an toàn của lòng mẹ để đi vào hụt hững của thế giới mênh mông bao la vô định. Rồi ngày qua ngày đời người ẩn hiện niềm hy vọng cho cuộc sống, nhưng trong những niềm hy vọng dù nhỏ bé mấy, vẫn luôn giấu kín nỗi thất vọng của bóng ma sợ hãi đó đây. Từ những ước mơ cho đến những dự án hay lý tưởng cuộc đời, người ta đọc thấy nỗi sợ hãi như những sự thật cản ngăn bước tiến hoặc dập vùi ước mơ. Có lẽ dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc cảm nghiệm sợ hãi trong sự hiện hữu của mình nhiều nhất khi sống triền miên trong chiến tranh khói lửa hàng ngàn hay hàng trăm năm, cũng như chịu áp bức bởi những chế độ khắc nghiệt, hoặc trên đường trốn chạy vượt biên đối diện với tử thần. Có ai sống trên đời này mà dám tự hào cho mình không bao giờ sợ hãi cách này hay cách khác: từ chủ thể hay đối tượng, chủ quan hoạc khách quan. Có đó mà vẫn sợ mất đó! 
Chúa Giêsu khi chọn đời sống nhân loại làm đường cứu chuộc, Ngài đã dấn thân đời mình vào những nỗi sợ hãi thực sự của kiếp người ngay từ lúc chào đời, như bị người đời từ chối không cho trú ngụ, bị săn đuổi ruồng bắt, bị chống đối triền miên, bị lập mưu bắt bớ, bị đánh đập xỉ nhục vô cớ, bị kết án tử hình bất công... Với những kinh nghiệm sợ hãi của kiếp nhân sinh, Ngài dạy chúng ta một điều quan trọng trong Phúc âm hôm nay: Đừng sợ nói sự thật! Chỉ sợ duy nhất một Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Bởi tất cả những gì xảy ra cho đời người đã được Thiên Chúa quan phòng cả rồi. Vì thế chúng ta có thể nói, sợ hãi đến từ quyền lực gian dối và bóng tối, đúng hơn từ Satan và bày quỷ theo chúng. Không có ma quỷ, con người đã không sợ hãi mất Thiên Chúa, vì họ không có cảm nghiệm tội lỗi và phản bội Ngài. Bởi một lần nghe theo ma quỷ làm mất Chúa, con người sẽ sợ hãi suốt đời. Sự chết ám ảnh đời người là một nỗi sợ rất kinh hoàng, nhưng còn kinh hoàng hơn nữa nếu cuộc đời ta mất Chúa. Ngược lại, nếu lúc nào hồn ta cũng có Chúa hiện diện, thì sợ hãi sẽ biến đi, bởi Chúa chính là bảo đảm an toàn cho cuộc đời giữa những bóng ma sợ hãi này. Hãy phó thác cuộc đời cho Chúa như thánh Augustinô cảm nghiệm, ta sẽ sống bình an. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM AYÊU CHÚA
Đây câu dân ca trữ tình cứ bay xa bay mãi như chân lý của tình: Anh đi tìm em, chứ em ở nơi đâu? Là phải qua, qua bao đồi núi qua bao dòng sông sâu... Hễ ca lên là thấy bóng hình đôi tình nhân cuốn hút vào nhau, cho dù xa nhau ngàn trùng, cho dù bóng người yêu mịt mùng một góc trời quên lãng! Đó chẳng phải là hồn tương tư lang thang thất vọng, nhưng là đường tình chân thật của tình yêu trong cái ý nghĩa chân lý tình yêu. Bởi có yêu nhau chân thành và tha thiết, mới dám liều mạng lội suối băng rừng để tìm nhau. Hiểu cái khía cạnh nhiệm màu của tình yêu ấy, ta mới thấy được tính cách tuyệt đối của tình yêu trong những đòi hỏi mà Đức Kitô muốn nơi những người yêu của Ngài. Những đòi hỏi mà một người bình thường sẽ cho là không tưởng, và chỉ dành cho những người yêu nhau điên rồ hay mù quáng. Hãy thử đọc lại những đòi hỏi ấy của Đức Kitô đại để thế này: Kẻ nào yêu cha mẹ hay con cái hơn thầy thì không xứng đáng với thầy! Kẻ nào không vác thập giá theo thầy hay không chịu mất mạng sống vì thầy thì sẽ mất thầy và mất cả mạng sống...Qủa thực những đòi hỏi ấy xem ra quá sức người thường, cũng như không hợp với cuộc sống nhân sinh! Bởi có ai trên đời lại không yêu cha mẹ và con cái nhất, một thứ tình yêu thánh thiện, chân thật và tuyệt vời không vương màu tội lỗi nhất. Lại có ai sống trên đời này mà không yêu sự sống và cuộc sống mình trên hết, nếu không thì làm gì còn hạnh phúc và hiện hữu nữa, vì chẳng ai muốn sống thừa hay kéo lê cuộc đời trong lệ thuộc và nô lệ!   Vậy mà Chúa Giêsu lại đòi hỏi không được yêu những thứ thiêng liêng cao quí đó hơn Ngài, có phải là điên rồ và ngu ngốc lắm không?Sẽ không thể có câu trả lời chung cho mọi người, mà đúng hơn mỗi người sẽ hồi âm cho Chúa Giêsu những gì riêng mình cảm thấy, tùy theo mức độ tình yêu trong tim dành cho Ngài. Nếu gọi là tình yêu chân thành và tuyệt đối, thì khi yêu Chúa, ta sẽ có can đảm bỏ lại tất cả để vượt núi băng rừng tìm ngài, vì đây là thứ tình còn siêu việt và hấp dẫn cả trăm ngàn lần hơn tình nhân loại. Xét cho cùng cuộc đời, ta cũng sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là yêu Chúa, dù trên đời này đã từng đam mê yêu thương và sở hữu đủ thứ, kể cả cha mẹ, con cái, tình nhân, vợ chồng, của cải, thú vui, sở thích, tài năng... Nên yêu Chúa chẳng những là đường tự nhiên của tình yêu, mà đúng hơn là một chọn lựa tuyệt đối vừa cho tim tràn đầy hạnh phúc an bình, vừa cho hồn cuộc sống trường sinh bất tử. Cứ điên rồ yêu Chúa đi, sẽ thấy được những đòi hỏi của Ngài là đường hạnh phúc chân thật nhất cho ta.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM ABÉ MỌN, KHIÊM NHƯỜNG VÀ HIỀN LÀNHNhiều khi tò mò, chúng ta tự hỏi tại sao Chúa Giêsu Kitô thường hay đề cao các đặc tính bé mọn, khiêm tốn, hiền lành..., những đặc tính rất thường ngược lại với cách sống của con người ngay từ lúc được tạo thành! Trước hết, sự thật trái ngược này đã được sách Sáng Thế Ký thuật lại khi Tổng lãnh Lucifer thấy mình sáng láng đã phản lại Thiên Chúa, và tổ tông loài người cũng vì muốn thử bằng Thiên Chúa nên đã phạm cùng lỗi giống như Lucifer! Tất cả đều bị hình phạt tương xứng với các hành động kiêu căng của mình. Vì Thiên Chúa đã phán với dân Israel qua ông Mosê rằng: Chỉ có mình Ngài là Thiên Chúa duy nhất, và không có Chúa hay thần nào khác ngoài Ngài; và do đó chỉ được thờ phượng duy nhất một mình Ngài. 
 
Và khi Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho nhân loại, câu khởi đầu của Ngài là kêu gọi ăn năn sám hối. Điều cần sám hối trước tiên là phải từ bỏ đường lối loài người, để nhận đi vào đường của Thiên Chúa. Đó là con đường tự hạ của Chúa Kitô làm người, chịu mọi đau khổ gian truân của kiếp người, chịu bỏ vạ cáo gian, chịu lên án bất công và chịu chết tất tưởi trên thập giá, để yêu thương và đổi lại sự sống cho nhân loại đã lỡ lầm phạm tội kiêu căng chối bỏ Thiên Chúa. Như thế cái giá cứu chuộc của Chúa Kitô chính là cái giá của con đường khiêm hạ, hiền lành, nhân hậu như con chiên bi đem đi giết; và vì thế không lạ gì, Chúa Kitô luôn nhắc nhở con người cần phải học và mang lấy ách của Ngài, vì Ngài hiền lành và khiêm nhường trong lòng, nhờ đó con người mới có thể cảm thông và cảm nhận sự quí giá của ơn cứu chuộc. 
Ngoài ra, điều Chúa Giêsu cầu nguyện trong Phúc âm hôm nay xác định rõ ràng giá trị của những người bé mọn, hiền lành và khiêm nhường, vì họ được Thiên Chúa Cha yêu mến và mạc khải cho chân lý Nước Trời, nhất là chân lý sâu thẳm về Con Thiên Chúa làm Người. Những người bé mọn, khiêm nhường và hiền lành sẽ nhận ra ngay, còn những kẻ tự mãn coi mình thông thái sẽ trở nên mù tối trước những mạc khải ấy. Vì thế, chúng ta có thể nói các tông đồ của Chúa Giêsu chọn từ nhóm dân chài ít học lại được diễm phúc hơn bội phần các thầy thông luật và Pharisiêu của dân Do Thái thời Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu đã cho biết rõ khi cầu nguyện: “Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha!” Nếu chính Chúa Cha đã muốn điều đó, và Chúa Giêsu đã theo con đường khiêm hạ, bé mọn và hiền lành, thì những người theo Chúa sẽ không thể chọn lựa khác hơn khi họ thực sự muốn được ơn cứu độ và muốn làm môn đệ của Ngài.
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN NĂM ANGHE GIẢNG LỜI CHÚAÝ nghĩa sâu sắc và sứ điệp của Phúc âm qua dụ ngôn Người Gieo Giống đã được Chúa Giêsu giải thích rất rõ ràng cho các môn đệ: Hạt giống Lời Chúa khi được gieo mà rơi xuống dọc đường, tức rơi vào lòng người nghe mà không hiểu chi cả, và đã bị quỉ dữ cướp đi. Hạt giống rơi trên đá sỏi là hạt rơi vào lòng người đón nhận nông nổi nhất thời, không đâm rễ sâu vì không đủ đất sống, nên khi gặp khó khắn và bách hại, liền bị vấp ngã. Hạt giống rơi vào bụi gai là hạt rơi vào lòng người qúa lo lắng việc đời, ham mê của cải, và lời Chúa bị chết nghẹt không sinh hoa kết trái được. Chỉ có hạt rơi vào đất tốt là hạt rơi vào lòng người biết lắng nghe, hiểu, đem ra thực hành và do đó sinh hoa kết qủa gấp trăm, sáu mươi hoặc ba mươi. Thật tuyệt vời cái ý nghĩa của Dụ Ngôn Gieo Giống, vì là thực tế sống đạo sống động cho các tín hữu Kitô giáo mọi thời. 
Trong đời sống đạo thường ngày, có thể nói, việc nghe Lời Chúa chiếm đa số thời gian trong các qúa trình huấn luyện và thực hành đức tin của các tín hữu. Chẳng hạn, sau khi chịu phép Rửa Tội từ lúc tuổi thơ, cho dù chưa hiểu biết gì thì đã được cha mẹ dẫn đến Nhà Thờ để tập nghe đọc kinh, nghe hát, nghe giảng... Khi vừa có trí khôn thì liền được học giáo lý và Lời Chúa suốt quãng đời niên thiếu thật dài. Khi bắt đầu chập chững vào đời, nếu chọn lựa đời sống gia đình, thì bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng về giáo lý liên quan đến các phép bí tích , nhất là bí tích hôn nhân và giáo lý tông đồ giáo dân để có thể biết cách sống đạo và rao giảng Tin Mừng trong các môi trường sống, vv...  
Ngoài ra, một điều rất thường và được gán cho việc nghe Lời Chúa trực tiếp xảy ra trong thánh đường, nhất là trong các Thánh Lễ Chúa Nhật. Việc nghe giảng này sẽ đem lại kết quả nhiều hay ít thì tùy thuộc vào trình độ của người giảng và thái độ của người nghe. Hầu hết những người giảng đều là các linh mục đã được huấn luyện kỹ lưỡng trong các chủng viện của Giáo Hội. Còn cách thức và kinh nghiệm giảng sẽ tuỳ thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm sống thánh thiện của họ trong đời sống mục vụ. Riêng về phía người nghe, cho dù nghe giảng Lời Chúa ở nhà trường hay trong các Thánh Lễ, điều quan trọng là luôn phải để lòng mình sẵn sàng trở nên đất tốt cho Lời Chúa mọc lên và sinh hoa kết qủa. Những chướng ngại của lơ đễnh trên đường đi, đá sỏi và bụi gai cần phải được loại trừ khi nghe Lời Chúa. Nếu khi nghe mà cảm nghiệm lòng mình đang biến đổi hướng về điều thiện và Nước Trời, thì đó chính là dấu hiệu của việc sinh hoa kết trái đó.  
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM APHẬN CỎ VÀ THÂN LÚA
 
Khi còn trẻ, những điều nguyện ước của cuộc đời đều nằm trong viễn tượng của lý tưởng tương lai, nên ta thường hay nghĩ và nói về tương lai hơn là qúa khứ. Khi đã trưởng thành và từng trải cuộc đời, ta thường cho cuộc đời chỉ là giấc mơ qua mau, và hay nghĩ và nói về qúa khứ, nhất là những kỷ niệm cả khổ đau lẫn vinh quang đáng nhớ. Nhưng nếu có phút giây êm đềm trầm lắng suy nghĩ về đời sống đạo theo Chúa Kitô, ta sẽ thấy cả đời mình được chìm ngập trong đường lối quan phòng của Thiên Chúa, nhất là qua những dụ ngôn mà Chúa Giêsu Kitô giảng dạy trong Tin Mừng của Ngài. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy một loạt ba dụ ngôn Cỏ Lùng, Hạt Cải và nấm Men trong Bột. Mỗi dụ ngôn đều ẩn chứa những mầu nhiệm của Nước Trời và sự quan phòng của Thiên Chúa cho cuộc sống đạo của mọi Kitô hữu. Các môn đệ Chúa Giêsu rất nhạy bén với các dụ ngôn, vì họ là những người Do Thái sống trong bầu khí của não trạng dụ ngôn, giống như dân Việt quen với đạo lý từ các câu dân ca bình dị tuyệt vời. Các môn đệ đã đặc biệt hỏi Chúa Giêsu về ý nghĩa dụ ngôn Cỏ Lùng trong Ruộng Lúa, và đã được Ngài cắt nghĩa tỷ mỷ từng chi tiết. 
Qủa thực, nếu trầm tư suy nghĩ về cuộc sống đạo, ta sẽ thấy đời mình không chỉ có những ước mơ trần thế trong nhân sinh quan nhân loại, mà thực sự nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa qua dụ ngôn Cỏ Lùng và Lúa. Dụ ngôn này phô diễn cảnh ngày chung kết cuộc đời với hai ranh giới rõ ràng của lúa và cỏ: Lúa được thu vào kho lẫm, còn cỏ thì bị đốt đi. Tuy nhiên trước ngày chung cuộc ấy, dụ ngôn Cỏ Lùng và Lúa mạc khải sự bao la của lòng nhân hậu mà Thiên Chúa đối xử với phận cỏ, vì Ngài chờ cho cả cỏ lẫn lúa mọc lên cho tới ngày chung cuộc. Điều này mạc khải cảnh loài người sống chung diễn ra, trong đó có cả cỏ lẫn lúa, cả tốt lẫn xấu. Cái luật sinh tồn sẽ cho thấy lúa và cỏ đều phải tranh sống và phát triển, nên sự sự cọ sát tranh sống sẽ không thoát khỏi những sứt mẻ thương đau! Người trung thành theo Chúa sẽ nhìn thấy đời mình rõ ràng được Chúa cấy vào mảnh ruộng thế gian với đầy cỏ lùng của quỷ dữ gieo vãi. Họ sẽ phải phấn đấu chọn lựa không ngừng giữa các giá trị tốt xấu lẫn lộn. Nếu họ nhìn rõ các giá trị tốt của lời Chúa và bền vững đến ngày sau cùng cuộc đời, họ sẽ được các thiên thần gặt hái và xếp vào kho lẫm Nước Trời.   Chính vì thế, những thân lúa cứ vui vẻ mọc lên giữa đám cỏ lùng, cho dù đời lúa luôn bị dập vùi giữa bão táp mưa sa, giữa chen lấn quật ngã của đám cỏ lùng bên cạnh, vì chúng thấy mình sẽ tỏa ánh vinh quang vàng chói trong những bông lúa trĩu hạt. Lạ lùng thay sự quan phòng của Thiên Chúa trong tình thương tỏa xuống chan hòa trên thân lúa và phận cỏ! 
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN NĂM AGIÁ TRỊ KHO TÀNG NƯỚC TRỜI 
Những hình ảnh mà Chúa Giêsu dùng để so sánh với Nước Trời như kho tàng, viên ngọc quí hay mẻ cá vừa bắt được qủa thực rất thực tế và vừa tầm hiểu biết của con người. Chẳng những thực tế, những hình ảnh ảnh ấy còn gợi lên quyết định chọn lựa cần thiết đến nỗi không thể chối từ. Ai trong chúng ta khi biết một kho tàng ở đâu đó, lại không vội vàng tìm đến để có thể thu lượm tất cả những gì quí gía nhất mà mình có thể nghĩ đến; hoặc giả như biết viên ngọc nào giá trị nhất trên đời có thể bảo đảm cả cuộc sống, lại không tìm hết cách để sở hữu nó. Nhân loại đã làm nhiều phim ảnh, như Indiana Jones chẳng hạn, để minh họa giá trị của kho kho tàng và viên ngọc quí. Ngoài ra, hình ảnh của mẻ cá bắt được sẽ còn thực tế hơn, bởi nó gắn liền với sự sống của con người, nhất là đời sống ngư dân. Những người chuyên biệt đánh cá sẽ không dại gì dồn tất cả mọi thứ cá vào thùng chứa, nhưng sẽ chỉ lấy những loại cá tốt và có nhiều giá trị nhất trong những chuyến hải hành đánh cá. Vì thế, khi ví Nước Trời với những hình ảnh ấy, Chúa Giêsu muốn đặt con người trong những chọn lựa giá trị nhất cho cuộc đời, nhất là cho một cuộc sống duy nhất hiện hữu trong hạnh phúc bất diệt, mà nếu chọn sai thì sẽ mất nó viõnh viễn! 
Tìm hiểu thêm, thì một kho tàng là tất cả những gì quí nhất được chọn ra để tích trữ cho tương lai cuộc đời của mình, của gia đình, của giòng họ, của một triều đại hay của cả đất nước. Như thế người ta hiểu kho tàng trước tiên chính là bảo đảm an toàn của sự sống hay sự nghiệp. Nước Trời sẽ rất trừu tượng nếu không được minh họa bằng một hình ảnh thực tế như kho tàng hay viên ngọc quí, vv... Một khi hiểu sự quí giá của kho tàng Nước Trời, người ta sẽ cố gắng hết mình để có thể chiếm được nó. Hiểu theo định nghĩa của đức tin, thì có thể coi kho tàng hay viên ngọc Nước Trời là chính Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa là gia nghiệp và mục địch quí giá sau cùng cho cuộc sống con người.   Riêng hình ảnh mẻ cá gợi lên kết quả sau khi đã được chọn bởi tự do và ý muốn con người, và do quyết định của Thiên Chúa. Người ta sẽ không còn chọn lựa nào khác một khi đã trở thành cá tốt và cá xấu, nghĩa là đã nằm gọn trong tấm lưới bắt cá. Cá tốt chính là giá trị quí giá cuả Nước Trời. Ai là cá tốt sẽ được sống trong Nước Trời. Tuy nhiên, dù biết những giá trị của Nước Trời, không hẳn chúng ta tự nhiên sẽ thay đổi được tâm trí để hướng về những giá trị ấy ngay được, nhưng còn phải nhờ vào ơn Chúa thúc đẩy, mới có thể lên đường tìm kiếm, bởi trong thực tế, đa số nhân loại rất dửng dưng với Nước Trời mà Chúa Giêsu đã rao giảng và thiết lập ở trần gian này. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên  
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN NĂM ACHIỀU KÍCH YÊU THƯƠNG CỦA TRÁI TIM 
Chúng ta có một lễ rất đặc biệt để ca ngợi tình yêu vô biên của Chúa Giêsu dành cho nhân loại: đó là Lễ Thánh Tâm Chúa. Đúng ra là Lễ kính trái tim rất thánh của Chúa Giêsu. Trái tim Chúa Giêsu qúa đặc biệt với chiều kích của tình yêu, mặc dù nó được nằm trong bản tính nhân loại, nên mừng kính trái tim rất thánh ấy, vừa để ca ngợi tình yêu cao vời của Chúa, và vừa học cách thức yêu thương của Người nữa. 
Vì chiều kích yêu thương bao la của trái tim Chúa, nên trái tim ấy hết sức nhậy cảm trước nỗi thống khổ của con người. Phúc âm hôm nay tường thuật sự nhậy bén yêu thương của Chúa Giêsu khi Người thấy đoàn lũ dân chúng đói khát vì theo Người nghe giảng. Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ. Điều đầu tiên chúng ta học được từ chiều kích yêu thương của trái Chúa: đó là trái tim luôn hiện diện để đáp ứng các nhu cầu tha nhân. Trái tim như thế chính là trái tim hạnh phúc có tình đúng nghĩa và đáng sống, vì luôn biết ban phát tình thương bằng lòng quảng đại.   
Thứ đến, từ chiều kích yêu thương của trái tim Chúa, chúng ta học được chân lý tình yêu là luôn hướng về sự hoàn thiện, bởi khi ban phát tình yêu, người ta hiểu được nhu cầu khát vọng yêu thương của tha nhân cũng như của chính mình. Thiên Chúa là tình yêu, dĩ nhiên tình yêu của Ngài vô cùng hoàn thiện; nhưng vì trái tim Chúa Giêsu cũng là trái tim trong bản tính nhân loại, nên trái tim ấy sẽ mãi hướng về sự hoàn hảo trong nhu cầu ban phát. Đó chính là sự cảm thông chia sẻ những thiếu sót của trái tim nhân loại, bởi mỗi trái tim con người đều có chỗ khiếm khuyết cần được lấp đầy cho đến khi kết hiệp với tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa; vì thế nó cứ phải biến máu đen thành máu đỏ để cung cấp sự sống và tình yêu mãi mãi.
 
Sau cùng từ chiều kích yêu thương của Trái tim Chúa, chúng ta học được sự tự do trong yêu thương, bởi khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân là hoàn toàn do động lực tự do yêu thương của Người. Sự tự do của trái tim sẽ làm cho trái tim trong sạch và thánh thiện trong tình yêu. Thiếu tự do này, trái tim sẽ bị ràng buộc bởi đam mê, dục vọng, ích kỷ và tội lỗi. Trái tim liền trở nên tù ngục, và tình yêu nó ban tặng cũng là thứ tình yêu tội lỗi không hơn không kém. Nên ta hiểu sự tự do của trái tim yêu thương chính là sự thánh thiện của lòng thương xót, sẵn sàng cảm thông và chia sẻ với thân phận yếu đuối giới hạn của tha nhân, như chính Chúa Kitô hòa nhập nhịp tim Ngài với đám đông đói khát.   Có một trái tim hiện diện cho nhu cầu anh chị em, một trái tim hướng về sự thiện và một trái tim tự do để yêu, ta sẽ thấy trái tim mình đang hòa nhập trong chiều kích yêu thương của trái tim rất thánh Chúa đó. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN NĂM ALẠY THẦY, XIN CỨU CON
 
Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ kinh nghiệm trong đời cảnh Phêrô bước đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu ban đêm trên biển, nhưng cảnh ông cảm thấy sắp chìm xuống vì sợ hãi lúc gió thổi mạnh, chắc chắn xảy đến thường xuyên trong cuộc đời theo Chúa của mình. Lý do chìm xuống sẽ giống hệt với Phêrô, vì mỗi người đều mang trên mình thân phận nhân loại yếu đuối. Đời thánh Phêrô đã nếm đủ thứ yếu đuối chìm xuống, ngã xuống và phản bội, cho dù tận thâm sâu hồn ngài luôn vùng dậy một ý chí cương quyết không chịu ngã thua: Lạy Thầy, dù mọi người bỏ Thầy, con đây cũng không bỏ Thầy! Cho dù Chúa cho biết trước ngay đêm nay trước khi gà chưa gáy đến lần thứ ba, thì con đã chối Thầy ba lần! Vậy mà ông vẫn thản nhiên chối Thầy! Từ kinh nghiệm ngã xuống, chìm xuống và phản bội của Phêrô, chúng ta học được gì nơi ngài trong cuộc đời theo Chúa của mình? 
Dĩ nhiên sẽ là những kinh nghiệm sa ngã rất riêng tư mà mình cảm nhận được. Sự sa ngã chỉ có cùng mẫu số chung trong thân phận loài người yếu đuối. Phêrô cương quyết làm ngược lại sự yếu đuối của mình, nhưng vì qúa tin vào sức riêng mình, nên ông đã ngã xuống. Khi đi trên mặt nước đến với Chúa lúc ban đầu, ông còn vững tin vào lời Chúa, nhưng vài phút sau từ từ chìm xuống vì sợ hãi sóng gió, chính là kinh nghiệm yếu đuối con người của ông khi thấy mình có thể đi trên mặt nước. Sợ hãi là cái gì rất bất ngờ của sự yếu đuối có thể làm lòng tin suy yếu! Khi Phêrô chối Chúa là lúc ông cảm nghiệm sự sợ hãi nhiều hơn, không phải sợ người đầy tớ gái, mà đúng hơn là sợ mình bị bắt và sợ sẽ chết như Thầy. Sợ hãi đã làm ông mất hết tin yêu nơi Thầy. 
Điều quan trọng hơn qua kinh nghiệm yếu đuối, chúng ta biết kêu lên như Phêrô: Lạy Thầy, xin đến cứu con! Hoặc dám nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa Giêsu khi mình đã lầm lỡ sa ngã. Giây phút thấy được mình yếu đuối sa ngã là giây phút rất quan trọng để ta cảm nhận được tình thương Chúa. Nếu vừa sợ hãi và vừa thất vọng, ta sẽ rất khó trở về với Ngài. Vì thế, sự trở về vừa hình thành nhờ động lực tình thương ơn thánh Chúa, và vừa phải nhờ vào quyết tâm muốn chỗi dậy trở về của ta. Nếu bắt chước Thánh Phêrô kêu lên khi mình yếu đuối: Lạy Thầy xin đến cứu con, chắc chắn Chúa sẽ đưa bàn tay thương yêu trìu mến ôm lấy ta vào lòng nhân từ của Ngài. Hãy vững tâm trước các kinh nghiệm yếu đuối, vì mỗi sóng gió cuộc đời ta đối diện sẽ trở thành những cơ hội nhận được tình thương bao la hải hà của Chúa đó. Đừng sợ! 
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN NĂM AKIÊN NHẪN KHIÊM TỐN CẦU XIN
 
Nếu đem áp dụng sự thử thách mà Chúa Giêsu dành cho người đàn bà ngoại quốc Canaan trong Phúc âm hôm nay vào cuộc sống bình thường cho những nhu cầu vật chất, người ta sẽ dễ có thái độ bất cần Chúa, bởi những lời nói của Chúa Giêsu đụng vào tự ái con người qúa mạnh: Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó! Quan niệm Á đông sẽ không thể chấp nhận cách so sánh người với chó. Nhưng người đàn bà Canaan đã bình tĩnh khiêm tốn trả lời Chúa Giêsu: Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống. Đọc hết câu chuyện, ta sẽ nhận ra tính cách quan trọng của sự thử thách đức tin trong cuộc đời mà Chúa Kitô đòi hỏi liên quan đến ơn cứu độ nhân loại, vì Ngài đã cho các môn đệ biết rằng: Ngài chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Israel. Đó cũng là điều rất hợp lý, nhưng cũng là lý do của sự thử thách lòng tin nơi dân ngoại; vì nhờ kiên nhẫn van xin, ơn cứu độ của Chúa sẽ dần dần lan tỏa đến các dân tộc khác, cho đến tận cùng trái đất như thấy hôm nay. 
Hiểu được ơn cứu độ của Chúa Giêsu dành cho toàn thể nhân loại như Ngài mạc khải, sẽ thấy tính cách thử thách trong câu chuyện Phúc âm hôm nay không còn nặng nề về tư cách nhân bản trong cuộc sống nhân sinh, nhưng ngược lại sẽ khích lệ con người cố gắng hơn trong việc cầu xin cùng Thiên Chúa. Qủa thực hằng ngày, người ta luôn phải đối diện với rất nhiều thử thách và đau thương trong cuộc sống này, nhiều khi lại rơi vào những hoàn cảnh thê lương thảm khốc đến hầu như hoàn toàn thất vọng. Những lời cầu xin lúc đó sẽ diễn tả lòng tin và sự phó thác hết sức chân thành vào quyền năng cũng như tình thương Chúa. Người đàn bà Canaan chắc chắn đã kinh nghiệm sự thất vọng này trước cơn bệnh quỉ ám ngặt nghèo đang làm mất đi cuộc đời con gái bà. Không ai có thể chữa được, nếu không nhờ vào quyền năng Thiên Chúa. Bà đã kiên nhẫn chờ đợi giây phút ấy nơi Chúa Giêsu; và nhờ tin tưởng vững vàng vào quyền năng của Ngài, bà chẳng coi tính cách nặng nề của sự thử thách là một cản trở van xin, nhưng càng giúp bà khiêm tốn hơn trước quyền năng Thiên Chúa. Gương khiêm tốn và kiên nhẫn van xin của bà là bài học vô cùng quí giá cho chúng ta trong cuộc đời Kitô hữu. Những khi đau khổ thất vọng nhất, lại chính là những lúc đòi buộc chúng ta kiên trì và khiêm tốn cầu xin với Chúa nhiều nhất. Khi không thấy Chúa trả lời, chúng ta cần phải nhắc lại với Chúa như người đàn bà Canaan: Lạy Thầy, cả chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rớt xuống. Nhờ đức tin vững mạnh trong lúc cầu xin, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra ý Chúa muốn cho cuộc đời mình. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN NĂM A
MẪU GƯƠNG TRỞ VỀ 
Người ta sẽ nhận xét và thấy được gì nơi thánh Phêrô qua hai câu nói dễn tả hai tâm trạng và cách sống hoàn toàn khác biệt của ngài về Chúa Giêsu: (Chúa Giêsu) - Các con bảo Thầy là ai? - Phêrô đại diện thưa: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Đức tin và niềm hãnh diện như phơi phới bừng lên trong tâm hồn Phêrô khi nhận ra chân lý về Thầy mình. Nhưng ngay sau khi được Thầy mạc khải về cuộc khổ nạn của Thầy để cứu chuộc nhân loại theo ý Chúa Cha, thì cũng chính Phêrô lại đứng ra cản ngăn: Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó! Đây qủa thực là ý tốt mà, sao Thầy lại mắng mình hết sức thậm tệ: Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người...! Có phải Phêrô có hai bộ mặt? Phải chăng Phêrô thực sự không hiểu về chương trình cứu chuộc của Con Thiên Chúa? Và điều gì sẽ xảy đến cho cuộc đời ông trên đường theo Chúa sau này? 
Tất cả đều không đúng trong những ý tưởng từ các câu hỏi đó, vì thực ra chỉ có một con người Phêrô duy nhất, môn đệ của Đức Kitô. Con người duy nhất Phêrô đang bước từng bước trên đường trọn lành theo Chúa bằng những thử thách của đức tin và lòng mến yêu Thầy, Đấng mà ông tuyên xưng là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đời theo Đức Kitô của thánh Phêrô có thể nói là cuộc trở về không ngừng từ những bất toàn tiến dần đến hoàn hảo trong các thử thách đức tin. Phúc âm không hề thuật lại phản ứng thụ động nào của ngài khi bị Thầy quở mắng cả. Điều này cho thấy thánh Phêrô là con người hết sức phục thiện, cởi mở và sẵn sàng khiêm tốn học hỏi mọi điều Đức Kitô và anh em tông đồ chỉ bảo. Điều quí giá này đã được sách Công Vụ Sứ Đồ thuật lại về thái độ khiêm tốn nhường nhịn của ông qua cuộc tranh cãi cắt bì hay không cắt bì trong việc trở lại ở Công Đồng Giêrusalem đầu tiên giữa Phaolô, các kỳ mục và Phêrô. (Cv. 15: 5-12) Cũng giống như thái độ sẵn sàng đón nhận đổi mới tâm hồn của thầy cả Ananias trước khi gặp Saolô ngã ngựa, để có thể biến đổi chính mình và cả Saolô thành môn đệ Chúa, thánh Phêrô cũng là gương mẫu chấp nhận đổi mới trở về với Chúa, để có thể xứng đáng trở thành gương sáng của người đứng đầu giáo hội Chúa Kitô sau này. Đời sống thánh thiện nhờ việc trở về không ngừng của ngài đã được thể hiện trong các thư ngài viết, thí dụ như câu này: Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao. (2 Pet. 3:11) Sự cố gắng nên hoàn thiện làm cho thánh Phêrô thành môn đệ trung thành theo Đức Kitô, từ những thử thách nhân bản đến những thử thách cao điểm của đức tin và tình mến, chính là gương mẫu vô cùng sống động cho sự đổi mới tâm hồn hằng ngày trở về với Chúa của chúng ta đó. 
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN NĂM AQUÂN BÌNH ĐẠO ĐỨC
Trong đời sống Kitô hữu, làm sao có thể tìm được sự quân bình đạo đức giữa việc hưởng thụ các nhu cầu vật chất và việc từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa Kitô? Có lẽ đây cũng là câu hỏi hết sức quan trọng để ta cảm thấy an bình trong lương tâm khi hai bàn chân còn đạp đất, đầu đội trời và thế giới này hình như là tất cả trong nhãn quan thực tế hạnh phúc được đo bằng vật chất hưởng thụ. Dựa trên câu truyện Tin Mừng Matthêu Chúa Nhật tuần trước được tiếp nối tuần này trong lời tuyên xưng của Phêrô vào Đức Kitô và việc ông cản ngăn Chúa đừng đi Giêrusalem chịu chết; đồng thời qua việc Chúa xác định rõ ràng thái độ con người chọn lựa theo Người bằng việc từ bỏ mình, vác thập giá mình theo Chúa, ta học được bài học từ bỏ mình là bài học làm theo ý Chúa ở trần gian. Và để tìm được sự quân bình đạo đức giữa việc hưởng thụ vật chất, và việc từ bỏ mình, vác thập giá mình để theo Chúa, người ta không thể không đồng hóa mình với thân phận làm người yếu đuối của Phêrô, mặc dù ngài đã thực sự theo Chúa và đã trở thành môn đệ của Người.

Việc đồng hóa mình với thân phận yếu đuối ấy là khởi đầu để có thể từ bỏ chính mình. Nói khác đi, chấp nhận sự yếu đuối của mình trước các cám dỗ về đủ mọi phương diện tượng trưng qua vật chất, cũng là cách thức tự hạ để tìm ra ý Chúa trong cuộc đời và xác định được giá trị vật chất thực sự ở trần gian này. Sự khiêm tốn sẽ không đặt ta vào ảo tưởng vật chất là tất cả, hay vật chất là hạnh phúc thật không có gì có thể thay thế! Khi nhìn rõ chân lý này, ta đồng thời cũng thấy được sự bất toàn của mình và vật chất qua sự giới hạn và những kinh nghiệm đau khổ nhân loại trong cuộc đời mình.

Một khi thấy được những tương quan giữa giá trị vật chất và đau khổ nhân loại, ta sẽ tiến thêm một bước quan trọng khác là nhìn ra được ý Chúa Kitô sẵn sàng chịu chết để cứu chuộc nhân loại chính là ý Chúa Cha. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô không phải là tai nạn khủng khiếp tận diệt sự sống hay cuộc sống nhân loại trong thân xác Người, nhưng là con đường công lý đạt lại được hạnh phúc mà nhân loại đã làm mất trước Thiên Chúa và họ không làm cách nào để phục hồi được. Như thế Chúa Kitô đã mở ra một lối sống hạnh phúc ngay trong những bất toàn và giới hạn của cuộc đời này; và do đó ta hiểu được lời Người tuyên bố: ai liều mất mạng sống mình vì Ta ở đời này, sẽ nhận được sự sống đời đời. Chấp nhận ý Chúa qua cuộc đời mình trong mầu nhiệm đau khổ sẽ cho chúng ta sự quân bình đạo đức. Đây là sự an bình siêu việt và nhiệm mầu của Chúa, không phải bình an giả tạo của thế gian, tức do vật chất đem lại. Sự an bình ấy sẽ giúp ta vui tươi chấp nhận đời mình dễ dàng trong cả sự sống lẫn sự chết.
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM ASỬA LỖI NHƯ CHÚA DẠY
Hướng về tha nhân là điều tự nhiên tốt trong nhu cầu xã hội của con người. Nhưng điều đó chỉ thực sự tốt khi nằm trong nhãn quan bác ái. Ở góc cạnh thực tế nào đó của cuộc sống, việc hướng đến tha nhân rất nhiều khi đã trở thành bóng tối ẩn nấp dưới dạng phê bình, chỉ trích, kết án, vv... Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy bài học hướng về tha nhân bằng việc sửa lỗi. Sửa lỗi tha nhân theo phương pháp của Ngài trước tiên đặt trên cơ sở bác
ái, tế nhị, trừ khi họ cứng đầu cố chấp quyết đi vào con đường xấu và nhất định không nghe cả Giáo Hội, lúc đó mới đành để họ tự do làm theo ý họ muốn, và xem như họ không còn muốn thuộc về Giáo Hội nữa! Như thế sửa lỗi rất khác với phê bình, chỉ trích, kết án, vì sửa lỗi luôn mang trong tâm thức chủ thể ý muốn ngay lành thánh thiện đặt vào tâm hồn đối tượng con đường cứu thoát trở về để thực hiện ý Chúa; ngược lại phê bình, chỉ trích và kết án thường luôn mang nội dung tiêu diệt đối tượng, để phô bày lòng ích kỷ và kiêu căng của chủ thể! 
Tuy nhiên trong đời thường, dù việc sửa lỗi tha nhân có cơ sở bác ái, vẫn luôn luôn là việc đòi buộc người sửa lỗi phải rất can đảm và bao dung. Trước hết đòi buộc sự can đảm, vì ý thức rõ ràng việc sửa lỗi là hành động bác ái giúp tha nhân nhận ra chính mình, và con đường đi đang ở đâu trên hành trình sống đức tin và đức ái để xây dựng Nước Trời. Sửa lỗi như thế sẽ rất cần đến sự tế nhị trong cả lời nói lẫn hành động. Chúa Giêsu dạy muốn sửa lỗi ai, thì trước hết phải kín đáo một mình ta với họ, nghĩa là phải hết sức tế nhị để tôn trọng họ, vì họ cũng có lỗi như ta đang cần được nâng đỡ vỗ về. Tế nhị là việc cần can đảm mới làm được, vì giúp ta có thể kìm hãm chính mình. Ngoài ra, việc sửa lỗi lại cần đến lòng bao dung quảng đại trước lỗi lầm của kẻ khác. Nhìn gương Chúa Giêsu cư xử với người đàn bà bị bắt qủa tang ngoại tình, ta mới thấy mình còn qúa xa vời tình thương nhân hậu trước kẻ tội lỗi, vì cũng như những người Pharisiêu, trong ta hay có khuynh hướng tự cao thích phê bình, chỉ trích và kết án hơn là tha thứ. Chính vì thế, khi thực sự có lòng bao dung, ta mới nên can đảm sửa lỗi tha nhân, vì việc sửa lỗi lúc đó sẽ biến thành việc chia sẻ và nâng đỡ sự yếu đuối của tha nhân cũng như của chính mình. Cả chủ thể và đối tượng sẽ gặp nhau trong bản tính con người yếu đuối và cùng nhau tựa nương vào lòng thương xót Chúa. Nếu sửa lỗi là sự chia sẻ thân phận yếu đuối con người, thì chắc chắn đối tượng nghe ta chia sẻ sẽ sẵn sàng chấp nhận sự thật của mình với lòng khiêm tốn như chính tâm hồn ta khiêm tốn. Dù sao đi nữa, sửa lỗi tha nhân vẫn luôn là việc rất khó, và đặt ta trong những lời cầu nguyện thiết tha phó thác hoàn toàn cho Chúa, vì Chúa mới là ơn cứu độ cho chúng ta.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
TƯƠNG QUAN ĐẤT TRỜI 
THỂ HIỆNTRONG VIỆC SỬA LỖI
Đọc xong Bài Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, và liên kết với Hai Bài Tin Mừng Trước và sau Bài Tin Mừng này (Matt. 18:10-4 và Matt 18:21-25), chúng ta nhìn thấy rõ hơn vai trò Đấng Cứu Thế” của Chúa Giêsu với toàn thể nhân loại, cụ thể hơn được thực hiện như một Cộng Đồng cả nhỏ và lớn. Vai trò Cứu Thế của Chúa Giêsu là đến để cứu chuộc, là đưa về Nước Chúa, dù chỉ một con chiên lạc. Một trong những cách thức đưa về hoặc hoán cải là sửa lỗi kẻ lầm lạc trong tương quan tình thân và trong tương quan Nước Trời.
Trong tương quan tình thân được Chúa Giêsu diễn tả qua cách riêng tư cá nhân, giữa hai ba người, và sau cùng là bề mặt Giáo Hội (hay Cộng Đoàn) trong việc sửa chữa lỗi lầm. Nhìn chung việc sửa lỗi theo cách Chúa Giêsu dy, người ta nhận rõ tính Bác ái trong Đạo của Ngài: “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh được món lợi của người anh em mình.”” Vì Giáo Hội mà Chúa Giêsu lập là một môi trường của cả những người tốt và xấu, những người thánh thiện và tội lỗi chung sống để thể hiện tình bác ái yêu thương trong sự thứ tha, nên Giáo Hội ấy trước hết phải được quan niệm là môi trường yêu thương để tất cả mọi người, nhất là những người bé mọn, yếu đuối và tội lỗi được dịp đỡ nâng và nương tựa, nên tính cách sửa lỗi cá nhân của Chúa Giêsu nói lên sự kín đáo tế nhị, để không phơi bày sự xấu xa của kẻ lẫm lỗi; và cách thức sửa lỗi với hai ba người là để tránh những hấp tấp, võ đoán, độc đoán hay ác tâm ẩn sâu dưới dạng phê bình, chỉ trích, bôi nhọ hoặc kết án lẫn nhau. Riêng việc đưa ra với bề mặt Giáo Hội, ngay cả khi kẻ lầm lỗi không chị nghe, thì kết qủa hay hậu qủa sau cùng sẽ không do con người quyết định, mà do Thiên Chúa cho phép nó sẽ xảy ra thế nào trong ý định và quyền năng cứu độ của Ngài.
Chúng ta bước sang Tường Quan Nước Trời sẽ thấy rõ hơn ý Chúa. Ngài tiếp tục Bài Tin Mừng qua hai lời dạy: “Dưới đất, anh em cầm buộc điều gì thì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất anh em tháo gỡ điều gì thì trên trời cũng tháo gỡ”... Và lời tiếp theo: “Nếu dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy trên trời sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy giữa họ.”” Lời Chúa Giêsu cho thấy rất rõ tương quan đất trời cũng như tương quan thời gian và vĩnh cửu sự hiên diện của Thiên Chúa trong việc tháo gỡ, cầm buộc, hay đúng hơn trong việc thứ tha; nói rõ hơn là trong việc cầu xin ơn cứu độ. Vì Giáo Hội dưới đất của Chúa Giêsu lập là môi trường của lòng thương xót, nên chúng ta trước hết tin rằng ý Chúa là muốn cho tất cả mọi người đều được ơn cứu độ; do đó, việc cầm buộc và tháo gỡ chỉ có hiệu quả thực và sau cùng là ở trên trời. Giáo Hội do đó không kết án bất cứ ai ngay cả khi cầm buộc, vì sự cầm buộc chỉ là phương tiện yêu thương được thực hiện giúp kẻ lầm lỡ trở về. Còn việc trở về hay không là do tự do của kẻ lẩm lỡ.Là Kitô hữu, chúng ta trước hết cần nuôi dưỡng đức tin và tình bác ái trong việc thực hành Đạo. Nếu Đạo là tương quan tình yêu với Thiên Chúa được thể hiện qua tình bác ái với anh chị em mình, thì tất cả chúng ta mới thực sự ở trong thân mình mầu nhiệm của Chúa Giêsu, tức Giáo Hội của Người. Và như thế việc sửa lỗi anh chị em sẽ tuyệt đối không là việc tách rời họ ra khỏi thân mình mầu nhiệm của Chúa, nhưng phải là việc đỡ nâng, vỗ về, cảm thông và hướng dẫn bằng tình yêu chân thành, để ơn chữa lành của Chúa sẽ đến với tất cả Giáo Hội của Người. Chiều kích tương quan đất - trời và thời gian - vĩnh cửu đang thể hiện sự hiện diện của Chúa giữa những người tin theo Chúa, cũng như san sẻ với bất cứ ai có ý muốn đi tìm Ngài.Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM ATHA THỨ KITÔ GIÁOTha thứ là phần thực hành hết sức quan trọng của đức bác ái, và làm nên đạo Bác ái Kitô giáo. Chúa Kitô, Đấng lập Đạo đã dạy và làm gương tha thứ vô giới hạn, cho đến giây phút cuối cùng trên thập giá khi đổ ra giọt máu cuối cùng vì yêu để thứ tha tỗi lỗi con người. Căn cứ vào lời Ngài dạy trong Phúc âm hôm nay, con người chỉ nhận được sự thứ tha của Thiên Chúa, nếu biết tha thứ cho tha nhân, tức cho những người mắc nợ và xúc phạm đến mình. Như thế, có thể nói: Khi tâm hồn không có tình yêu tha thứ, thì cũng không thể yêu, và không thể làm người Kitô hữu đúng nghĩa.
Tại sao Chúa Kitô lại dạy và làm gương về sự tha thứ cho con người? Thưa nhờ vào câu chuyện Phúc âm hôm nay: tức gương chủ tha cho người đầy tớ số tiền lớn lao khi người này van xin; ngược lại hắn đã không tha cho bạn hắn chỉ một số rất nhỏ bé... chúng ta thấy được lòng Chủ bao dung thứ tha, tượng trưng cho lòng Thiên Chúa vô cùng nhân từ quảng đại; đồng thời cũng nhìn thấy sự nhỏ nhoi, hẹp hòi ích kỷ của người đầy tớ, tượng trưng cho bản tính ích kỷ hận thù của nhân loại. Như thế, khi người đầy tớ van xin thứ tha, nhưng hắn lại không chịu tha thứ, cho thấy rỏ ràng con người trong bản tính nhân loại ai cũng có tội và mắc nợ Chủ mình là Thiên Chúa. Chúa Giêsu kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ xử như thế với các ngươi, nếu các ngươi không chịu tha cho anh em mình! Điều này cho thấy rằng: Tha thứ là điều kiện quan trọng tối hậu để có thể lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó chính là sự công bằng của ơn cứu độ mà trước hết Chúa Kitô phải gánh chịu thay cho con người trên thập giá khi Người cầu xin: Xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc chúng làm; và cũng là sự công bằng cho con người với nhau nếu muốn nhận ơn tha thứ cứu độ của Thiên Chúa.
Sự tha thứ trong Đức Bác Ái Kitô giáo vượt qua mọi giới hạn trong sự hiện hữu và bản tính cũng như cuộc sống con người. Chỉ có sự tha thứ này mới làm cho nhân loại nên hiệp nhất, yêu thương và hòa bình. Nó là phần quan trọng của đức ái để diễn tả dấu chỉ của Đạo: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau. Chúng ta có thể nói: Dấu chỉ tha thứ của Đức Bác ái là dấu chỉ của môït Đạo đích thực. Nếu giả như có một thứ đạo nào, dù bề ngoài xem ra có nhiều người đang theo, nhưng lại dạy hận thù không chịu tha thứ, thì chắc chắn đạo đó là đạo của loài người làm ra, và không thể đem lại ơn cứu độ. Đạo Chúa Kitô là đạo đích thực vì là thiên đạo dạy con người yêu thuơng tha thứ cho nhau, và cho cả kẻ thù. Ai theo và thực hành đạo này sẽ nên giống Chúa Kitô luôn biết thứ tha cho anh chị em mình, và chắc chắn sẽ nhận được ơn cứu độ sau cùng của Thiên Chúa như Ngài đã hứa.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
THA THỨ: CÁCH SỐNG NHƯ CHÚATha Thứ! Hai tiếng khô khan, nặng nề, khó nuốt! Vì trái với bản tính nhân loại. Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại dạy những ai theo Đạo của Người phải tha thứ và tha thứ đến mức tuyệt đối khi phải tha cho cả kẻ thù của mình?

Chúng ta thử dành ít phút trong thinh lặng để suy nghĩ về sự tha thứ mà Chúa dạy, sẽ từ từ đổi những thái độ khô khan, nặng nề, khó nuốt thành yêu thương, nhẹ nhàng tế nhị và tràn đầy sức sống đến độ yêu đời và “cực kỳ” ham sống! Những tư tưởng căn bản dựa trên bài Tin Mừng hôm nay có thể là: Người Chủ vô cùng đại lượng, giàu lòng từ bi nhân ái sẵn sàng bỏ quên món nợ kếch xù của đầy tơ,ù được gán cho Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa thứ tha những món nợ tội lỗi được lặp đi lặp lại suốt cả cuộc đời con người, Ngài cũng mời gọi con người tham dự vào tình thương bao la của Ngài, nghĩa là con người hãy biến đổi thành những ông chủ bao dung vô bờ bến với anh chị em mình trong việc tha thứ những lỗi lầm của họ. Nếu con người thực hiện sự tha thứ như Chúa, thì lập tức lòngï ích kỷ và thù hận trong trái tim họ sẽ tan biến.

Đời sống con người được đo bằng thời gian. Mỗi ngày là một khoảnh khắc khác nhau và hoàn toàn mới. Chúng ta thường coi đó là những món qùa của sự sống. Nên mỗi ngày trở thành hồng ân vô giá của sự sống. Khi dạy tha thứ cho tha nhân, Chúa muốn mời gọi chúng ta hãy sống hồng ân của một ngày mới, bởi vì cả chúng ta lẫn kẻ xúc phạm đến chúng ta không còn hiện hữu ở trong quá khứ, nhưng đang sống trong hiện tại với con người và cách thức hiện hữu mới. Lời cầu xin trên thập gía của Chúa Giêsu “xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc chúng làm” là một minh chứng về sự hiện hữu mới trong hiện tại của những kẻ lầm lỡ. Chúa Giêsu muốn đưa tất cả quá khứ đời sống nhân loại hiện hữu trong hiện tại của sự thứ tha, để hướng về thời gian vĩnh cửu của an bình hạnh phúc trong ơn cứu độ của Người. Hãy thứ tha để có thể hưởng trọn vẹn ơn cứu độ của Chúa dành cho những tâm hồn thánh thiện và bình an.

Sau cùng nếu vì bản tình con người khó quên đi những vị cay đắng và các vết thương khổ đau do tha nhân tạo ra, như ta thường nói: Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhờ đời, chúng ta có thể dùng khả năng biến đổi mãnh liệt của sự sống để làm tăng thêm hạnh phúc của những miếng ngon, và hồng ân của những lời đau khi biết tạ ơn và tha thứ thêm một lần nữa. Đây có thể là cách thức tuyệt vời để kéo dài sự sống thể xác, và tăng thêm niềm vui cho tâm hồn. Những ai biết cười trước đau khổ và dễ dàng tha thứ, sẽ không bị áp lực đè nặng đời sống. Họ có nhiều cơ may sống lâu và hạnh phúc hơn những người mang nặng hận thù. Thực hành giới răn yêu thương trong sự thứ tha của Chúa là điều tuyệt diệu nhất của Đạo, vì làm cho con người giống Thiên Chúa hơn trong sự nhân từ bao dung và lòng thương xót.   Chúng ta hãy ca ngợi tình Chúa bao la hiện thân trong ông Chủ vô cùng quảng đại luôn tha những món nợ kếch xù tội lỗi của muôn vàn đầy tớ nhân loại xúc phạm đến Ngài.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN NĂM AĐẾM TỪNG NGÀYCó lần Cha Nguyễn Tầm Thường gặp tôi. Chúng tôi tâm sự về cuộc đời: Tất cả xem ra qua đi mau quá! Mới vào tiểu chủng viện ngày nào ở Châu Đốc, ngài nói, mà giờ đây đời tụi mình đã bắt đầu đếm từng ngày. Chúng tôi cười thoải mái. Tôi trả lời: Mình đã bắt đầu đếm từng ngày khi ở tù Cộng Sản rồi, vì trong tù hôm nay còn sống sót thì biết có hôm nay, ngày mai rao sao chỉ là bóng tối thấp thoáng của tử thần. Mình đã đếm và vẫn tiếp tục đếm từng ngày..., và sẽ đếm cho tới ngày sau cùng cuộc đời xem có xứng đáng lãnh được một đồng công như Chúa Giêsu phán trong dụ ngôn đón thợ vào làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay không!
Có lẽ ít người muốn đếm từng ngày đời mình, vì vừa mất giờ, nhưng có thể vừa bi quan vì thấy đời lúc nào cũng trôi nhanh như giấc mơ qua mau, để rồi in trên đời niềm sầu tủi yếm thế phí lý. Tôi thiết nghĩ nếu có đủ can đảm đếm từng ngày đời mình, qủa thực là một cái thú hết sức kỳ diệu, bởi từng ngày từng ngày qua trong đời luôn ẩn hiện những kỳ diệu của bàn tay an bài Thượng Đế. Càng đếm càng thấy con đường đi đời mình chẳng giống ai, chỉ riêng cho mình trong tương quan quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, ngay cả những khổ đau nhất mà đời cho là xui, lại trở thành ân huệ quí giá Thiên Chúa ban tặng. Chẳng hạn bạn thử ngồi đếm lại từng ngày đời mình lúc vượt biên và ở trại tỵ nạn. Ai cũng cho là khổ, nhưng giờ đây có muốn sống lại dù chỉ một ngày như thế cũng chẳng còn, vì cái khổ lúc đó đã dệt nên những niềm vui khôn tả cho đời mình hôm nay ở đất nước thứ ba này. Biết bao người đã thành công giàu có, hoặc đã ung dung nhìn đàn con đang hạnh phúc trong những ước mơ đã thành sự thật... 
Như thế đếm đời mình từng ngày trước hết là để ca tụng tình thương vô biên của Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng trả công bội hậu cho chúng ta như cái giá Ngài đã mặc cả để cứu chuộc nhân loại. Nếu tôi được Chúa trả một đồng công cứu độ thì đã hạnh phúc lắm rồi, vì tôi chắc chắn sẽ được Chúa rước vào Nhà hạnh phúc bất diệt của Ngài. Điều quan trọng là tôi có dám nhận làm trong vườn nho của Chúa không, cho dù tôi đã thất nghiệp lang thang cả nửa đời, hoặc ba phần tư, hoặc ngay cả lúc chỉ còn vài phút cuối ngày cuộc đời. Chúng ta hãy bắt đầu đếm đời mình đi, chắc chắn sẽ nhận ra tình thương kỳ diệu và vô biên của Chúa. Nhờ tình thương ấy, mình sẽ không còn ganh tỵ với tha nhân, dù họ bắt đầu làm vườn nho Chúa từ lúc nào không biết, nhưng tất cả sẽ ca ngợi đồng công tình thương và ơn cứu độ của Chúa vào hạnh phúc cuối ngày. Nào: Một, hai, ba: Đếm!

Lm. Raphael Xuân Nguyên 
 
LÀ CÔNG BẰNG HAY LÒNG NHÂN LÀNH!
Chúng ta chẳng hề biết thật rõ về cách ông chủ cư xử với những người làm công trong vườn nho của ông, nếu chỉ nhìn dưới khía cạnh công bằng được tính theo thời gian làm việc từ ba, sáu, chín, mười một giờ, nghĩa là bắt từ sáng sớm, từ sáu giờ, vv. . . mà tiền lương vẫn được lãnh như nhau! Thế nên họ mới thắc mắc, và chắc chắn đã không được thỏa mãn với câu trả lời của ông chủ. Với họ, xem ra ông chủ luôn luôn thiên tư, cho dù ông có giàu có, nhân từ và quảng đại.

Đến lượt chúng ta khi đọc và nghiệm lại cuộc sống của mình, cũng sẽ thắc mắc thật nhiều về cách thức Thiên Chúa đối xử xem ra không công bằng với con người, bởi vì có quá nhiều người giàu có, nhiều tài năng, nhiều may mắn; có quá nhiều quốc gia thịnh vượng xung túc, tràn đầy quyền lực, trong khi biết bao người và rất nhiều nước đang sống trong lầm than cơ cực nghèo khó, bị thống trị, vv… Bức tranh cuộc đời mình còn thê thảm hơn khi chính mình trực tiếp hỏi Chúa tại sao mình đã nhiệt tình làm việc và dùng hết thì giờ vào các cố gắng xây dựng đời sống gia đình, xã hội, vv… mà vẫn không khá hơn; ngược lại luôn gặp những rủi ro, đàn áp, bỏ vạ cáo gian, vẫn thua kém hơn những người xem ra lười biếng, nhiều chuyện và ngay cả gian ác! Sự công bằng như không hề có ở đời này. Lạy Chúa, tại sao vậy?

Đây là những trả lời chính xác của Chúa Giêsu: Vườn nho là của Chúa. Thời gian là của Chúa. Sự sống con người có là quà tặng, cho dù tính theo thời gian dài hay ngắn, nó vẫn luôn là qùa tặng quí giá nhất. Sự hiện hữu và cách thức hiện hữu dài hay ngắn theo ý Chúa đều trọn vẹn trước mặt Chúa, nên mới có canh ba, canh sáu hoặc chín... Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhìn sự hiện hữu này như những chiếc ly chứa đầy nước ở trên trời. Ly nào cũng tràn đầy cả, không thể đổ thêm dù chỉ một giọt.

Người ta quan niệm công bằng dựa trên tiền công theo giờ lao động. Nói cách khác, càng được nhiều của cải vật chất, tài năng, danh vọng ở đời này thì càng công bằng hơn. Còn Chúa Giêsu bảo sự công bằng ấy đã được định đoạt bằng giao kèo trước khi vào vườn nho làm việc. Ai cũng được trả bằng nhau. Nên cuối ngày cuộc đời, chẳng ai có quyền đòi được trả, nghĩa là chẳng ai tự mình được định đoạt cuộc sống bằng các giá trị vật chất, nhưng là sự mặc cả giá trị thiện chí làm việc đúng với thời gian mình có như ý ông Chủ muốn. Dĩ nhiên dụ ngôn không nói rõ từng người làm công được phân định làm việc gì và làm việc thế nào, nhưng chắc chắn mỗi người tuỳ theo tài năng và sức lực của mình mà ông chủ thuê vào từng thời điểm khác nhau trong ngày, để chu toàn những việc ngổn ngang trong vườn nho của ông. Sự công bằng này xác định rõ hơn điều mà Chúa Giêsu trả lời cho người làm công thắc mắc: Hãy cầm lấy tiền của bạn mà đi, tôi không làm bạn thiệt hại đâu. Hay mắt bạn ganh tị vì tôi nhân lành chăng?

Đến đây chúng ta khám phá ra ánh sáng cho sự công bằng, tức sự nhân lành của ông Chủ, Thiên Chúa vườn nho vũ trụ và vườn nho cuộc đời chính là thước đo công bằng tuyệt đối. Chính nhờ sự nhân lành của Thiên Chúa mà vũ trụ và muôn loài hiện hữu, trong đó có đời sống từng người chúng ta. Cách thức hiện hữu của vũ trụ và con người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Riêng với con người thì Ngài ban cho tự do để điều khiển và đáp lại tiếng gọi hiện hữu trong vườn nho của Ngài. Cuối ngày cuộc đời, một đồng công được trả cho chúng ta bằng sự nhân lành của Chúa, bởi vì chúng ta tự sức riêng không thể vượt qua giới hạn của sự chết để vào miền đất sống vĩnh cửu vườn nho Thiên Chúa. Vì thế tốt nhất hãy biến sự ganh tỵ hôm nay thành lòng nhiệt thành làm việc theo thánh ý Chúa. Người ta sẽ mãi mãi không thể giải đáp được bí mật sau khi chết và cách thức trả một đồng công của Thiên Chúa, bao lâu vẫn còn trên hành trình đức tin trong vườn nho của Thiên Chúa hôm nay.Chúng ta hãy học bài ca tạ ơn của muôn vàn tạo vật khi bình mình thức giấc, ca ngợi hồng ân diệu kỳ mà Thiên Chúa tặng ban cho mình, để mỗi ngày sống sẽ nối tiếp trong niềm vui nhờ lòng nhân lành bao la và vô cùng quảng đại của Thiên Chúa. Và mỗi người sẽ cảm nghiệm sự công bằng của Thiên Chúa chính là lòng nhân lành của Ngài bao phủ qua mọi biến cố cuộc đời: lúc nhàn rỗi canh ba; lúc thất vọng, lúc thất nghiệp, lúc cô đơn canh sáu; lúc đau khổ, lúc đối diện với bóng tối, lúc chơi vơi giữa giòng đời canh chín; hay lúc hầu như rã rời muốn rời xa sự hiện hữu vào giờ mười một; . . . và nhất là lúc vui mừng lãnh đồng công sau cùng cuộc đời do Thiên Chúa trao tặng trong vườn nho vĩnh cửu của Ngài. Xin tạ ơn và tạ ơn muôn đời lòng nhân lành của Thiên Chúa, Đấng có tên là Tình Yêu muôn thuở.
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN NĂM ATHỰC HÀNH Ý CHA
Người ta thường nói đứa con thứ hai trong gia đình sẽ khôn hơn đứa thứ nhất; ngược lại đứa thứ nhất (con cả) thường có trách nhiệm hơn những đứa khác. Có thể điều này rất đúng với quan niệm luân lý Á Đông trong đạo hiếu, vì con cả sẽ lãnh trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ khi các ngài đến tuổi già. Dụ ngôn Chúa Giêsu nói về người con thứ nhất lúc đầu từ chối không muốn đi làm vườn nho cho cha, nhưng sau lại đổi ý đi làm; ngược lại đứa thứ hai vui vẻ nhận lời cha đi làm ngay, nhưng rồi đã không đi làm có thể nói lên ý nghĩa gì đó về trách nhiệm đạo hiếu Á Đông áp dụng cho người con cả trong gia đình chăng. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu cắt nghĩa thì giống với lý thuyết và thực tế mà Ngài thường dạy các tông đồ: Kẻ trước hết sẽ lên sau hết; và kẻ sau kết sẽ lên trước hết trong Nước Trời, nhờ vào thái độ đón nhận Chúa và mau mắn thực hành các lời giảng dạy của các tiên tiên cũng như của chính Ngài.
Chúng ta sẽ gạt bỏ cái tư tưởng liên quan đến văn hóa hay luân lý con người áp dụng vào hai đứa con cả và thứ, cho dù thực tế có minh chứng đứa thứ hai khôn hoặc ma giáo hơn đứa thứ nhất trong tinh thần trách nhiệm, mà sẽ nhìn vào thái độ đón nhận Nước Trời của chính mình, bởi vì trong thực tế có thể nói tất cả chúng ta (nghĩa là mọi dân tộc sau dân Do Thái) đều là những người con thứ hai trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Chúng ta được hạnh phúc nghe rao giảng Tin Mừng và đã đón nhận qua giòng thời gian sớm hay muộn trong hơn hai mươi thế kỷ qua. Điều quan trọng là cho dù đã tin Chúa, nhưng rất cần phải đem Lời Chúa ra thực hành (tức thái độ chấp nhận làm vườn nho cho Chúa của người con thứ nhất) mới xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời.Trong thực tế sống đạo, có khi cả hai thái độ của người con thứ nhất và thứ hai lẫn lộn hoặc xảy ra trong đời sống mỗi cá nhân Kitô hữu, bởi khi nghe lời Chúa và luật Chúa, họ rất vui vẻ đón nhận; nhưng lại ít khi tích cực đem ra thực hành, chỉ vì qúa bận rộn với các nhu cầu khác của cuộc sống, dĩ nhiên không ai có thái độ chống đối hiển nhiên. Có thể nói mỗi Kitô hữu đều có ý ngay lành muốn đón nhận là thực hành lời Chúa, còn tự do có thực hành thật hay không thì thuộc sự cố gắng sống đạo chân thành của mỗi cá nhân mình. Chúa Giêsu nói rõ cho những người Pharisiêu và Luật Sĩ biết họ chính là những người con thứ hai không làm theo ý cha, cho dù sẵn sàng thông hiểu lời và ý cha; còn những người thu thuế và đĩ điếm (tức những người tội lỗi) lại trở thành những người thứ nhất, vì họ đã nghe, nhận ra ý Cha và đem ra thực hành. Như thế đời sống giữ đạo của người Kitô hữu chỉ quan trọng ở điểm thực hành đạo, còn kiến thức về đạo hay tài lãnh đạo trong Đạo tuy cũng quan trọng, nhưng sẽ không trở thành điểm chính yếu để được vào Nước Trời. Do đó người con ngoan của Vườn Nho Nước Trời vẫn luôn là người con biết làm theo ý Cha mình như Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn hôm nay.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
ƠN CHÚA CHO CƠ HỘI HÓAN CẢI
Dụ ngôn hai người con nằm trong một loạt ba dụ ngôn (hai người con, tá điền sát nhân và khách được mời dự tiệc cưới (Mat. 21:28-22:14)) mang dạng bút chiến giữa các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Chúa Giêsu trong thời của Ngài. Tạm bỏ qua tính cách áp dụng nhân vật trong Dụ Ngôn, và nhìn thẳng vào sứ điệp Tin Mừng của Chúa Giêsu ngay từ khởi đầu: “Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”; và con đường cứu độ của Chúa Giêsu rõ hơn khi Ngài “đến để tìm kiếm những người tội lỗi”, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thân phận của mình: những người tội lỗi biết hoán cải khi lắng nghe lời Chúa kêu mời. Nói cách khác, ơn Chúa luôn cho chúng ta cơ hội trở về với Ngài, nếu biết thưa lời xin vâng.
Qủa thực, khi suy niệm thái độ của hai người con trả lời Cha đi làm vườn nho, người ta sẵn sàng đồng ý với tâm ý của người con cả: cho dù vô lễ nói không lúc đầu, nhưng đã nghĩ lại và nói có. Điều này khác hẳn với người con thứ, vì xem ra lịch sự nói có với Cha, nhưng sau đó đã không đi làm. Hai thái độ của hai người con cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Riêng thái độ của người con cả cho chúng ta xác định rõ hơn sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu.
Những người không đồng quan điểm với Đạo Công Giáo có thể cho rằng: Chúa Giêsu khi tuyên bố “những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông” (tức các thượng tế và kỳ mục), xem ra Ngài cổ võ những kẻ tội lỗi, và do đó sẽ băng hoại xã hội con người. Điều này chắc chắn nghịch lại với sứ điệp cứu độ nhân loại của Chúa! Chúng ta những người Kitô hữu chân chính khi chọn thái độ của người con cả, sẽ hiểu biết rõ hơn thân phận của mình: Những người tội lỗi được Chúa yêu thương và cứu chuộc, khi chúng ta sẵn sàng sám hối và hoán cải. Bởi vì trước khi được cứu độ, chúng ta đã là những người tội lỗi. Và chúng ta sẽ chỉ được cứu độ sau khi đã nghe lời Chúa mời gọi, hoán cải trở về. Như thế, Chúa Giêsu không cổ võ một đời sống vô luân hay băng hoãi xã hội con người. Ngược lại, Ngài đến để cứu vớt những người tội lỗi, sa ngã, và cho họ cơ hội để làm lại cuộc đời. Ngài yêu thương con người và sẽ không bao giờ đóng cửa Nước Trời trước bất cứ ai sẵn sàng hối cải, ngay cả vào phút cuối, như người trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Ngài.
Thứ đến, chúng ta sẽ cảm nghiệm được thực tế ơn cứu độ của Chúa dành cho những kẻ tội lỗi khi họ biết khiêm tốn thực lòng trở về. Chúa Giêsu đã chứng minh điều đó khi nhắc đến việc rao giảng của Gioan Tiền Hô cho những người thu thuế và tội lỗi, và họ đã lắng nghe. Đồng thời Ngài đã kết án các thượng tế và kỳ mục bỏ qua những lời rao giảng của Gioan Tiền Hô. Điều đó cho thấy ơn cứu độ của Chúa có đó, nhưng đòi buộc kẻ tội lỗi phải cộng tác vào ơn cứu độ ấy một cách tích cực. Những thượng tế và kỳ mục đại diện cho những kẻ tự mãn, cho mình đạo đức không cần hối cải, một cách gián tiếp không cần ơn cứu độ của Chúa Giêsu, hoặc mạnh hơn nữa, là không cần Chúa, chắc chắn ơn cứu độ của Ngài không thể đến được với họ, vì họ tự đóng cửa lòng mình. Như thế, việc cảm nghiệm ơn cứu độ của Chúa chính là thái độ xin vâng trở về của kẻ tội lỗi.
Riêng thái độ của người con thứ trong dụ ngôn vẽ lên cái thực tế giả hình lừa đảo bọc trong sự lịch thiệp tử tế! Có thể nó nghĩ cha nó không biết và sẽ không bao giờ biết tâm ý thâm sâu trong lòng nó. Ở đây chúng ta cần xác quyết một chân lý tuyệt đối: Không ai có thể lừa đảo được Thiên Chúa khi tự dối lòng mình làm những điều tội lỗi gian ác, vì Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, ngay cả những điều thầm kín trong lòng. Nhưng khổ nỗi trong thực tế sống đạo, lại có rất nhiều người chọn thái độ của người con thứ. Lúc nào cũng tử tế qua việc đọc kinh xem lễ, nhưng lại không đi làm vườn nho cho Chúa khi họ luôn thủ lợi cho mình, bỏ qua công cuộc xây dựng Giáo Hội của Chúa; hoặc khi vì quyền lợi cá nhân, họ sẵn sàng hại đến anh chị em cả trong lời nói và việc làm. Nói cách khác, họ chẳng bao giờ sống đạo trong hành động, nghĩa là chẳng bao giờ thực sự đi làm vườn nho cho Chúa cả! Nếu thế, không những Chúa Giêsu đã kết án các thượng tế và kỳ mục, mà sẽ sẵn sàng kết án cả chúng ta, nếu chọn sống thái độ của người con thứ. Và trong thực tế, chính chúng ta khi chọn thái độ sống của người con thứ, cũng tự kết án chính mình.
Đến đây, tôi cũng như bạn biết sẽ phải sống đạo thế nào trong việc trả lời đi làm vườn nho cho Chúa. Tâm tình của tôi và bạn sẽ là tâm tình của người con cả, không vì những tính toán lợi lộc, nhưng là vì ý muốn yêu mến Cha mình. Chính tình yêu mến Chúa sẽ giúp tôi và bạn thưa lời xin vâng với Chúa, cho dù trước đó đã nhiều lần sa ngã phạm tội, đã nhiều lần sống trong bê tha lười biếng đến độ chuyên nghiệp trong mẫu gương thu thuế và gái điếm. Ngoài ra, cũng chính tình yêu mến ấy sẽ hướng dẫn tôi và bạn biết cảm thông và chia sẻ với anh chị em mình, nhất là những người yếu đuối tội lỗi, giúp tôi và bạn không kết án họ, như chính Chúa thương yêu, nâng đỡ và không ngừng đi tìm chúng ta trong đám những con chiên lạc. Vì ơn Chúa luôn cho tôi và bạn cơ hội trở về sống trong Nhà Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ tình yêu cứu độ của Chúa, một tình yêu mầu nhiệm siêu việt trong sự thứ tha. Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng con luôn biết mình cần đến Chúa và anh chị em chúng con; và do đó sẽ không bao giờ kết án họ, nhưng chỉ đỡ nâng, thứ tha và yêu mến họ như Chúa yêu thương chúng con.

Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN NĂM ACHUYỆN ƠN CỨU ĐỘKhi nghe câu chuyện dụ ngôn tá điền bắt giết các đầy tớ của chủ, ngay cả người con trai duy nhất của ông khi ông sai họ đến thu phần lời đã cho thuê vườn nho, chúng ta nghĩ đó chỉ là câu chuyện tưởng tượng, làm gì có thể xảy ra được. Nhưng căn cứ vào câu cuối Chúa Giêsu trích từ Thánh Kinh: “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta”, thì thực tính của câu chuyện đã được minh chứng, bởi câu chuyện này chính là chuyện được Chúa Cha (chủ vườn nho) áp dụng vào các tiên tri (tức các đầy tớ), và vào người Con duy nhất của Người (là Chúa Giêsu Kitô). Chuyện đã qua trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nhưng vì ơn cứu độ của Chúa vẫn còn tiếp tục cho đến tận thế, nên sự thật về ơn cứu độ cũng như chuyện phản bội từ các tá điền vẫn cứ xảy ra dài dài trong giòng lịch sử nhân loại.
Đúng rồi, chỉ trên căn bản cuộc sống bình thường của con người thôi, thì những chuyện phản bội, cướp bóc, đánh đập hành hạ và ngay cả giết chết những người đã từng làm ơn cho mình rất thường xảy ra. Đôi khi chúng ta cũng nghe nói sau 1975 ở VN, thừa nước đục thả câu, rất nhiều người đã lợi dụng thời thế lấn át và xâm lấn nhà cửa, ruộng đất nhà chung; hoặc chiếm đoạt tài sản và tiền bạc của rất nhiều người hiền lành vô tội... Những hành động đó không chỉ coi là chuyện bình thường, nhưng phải kể là những tội ác mà trên bình diện luật pháp quốc gia hay luân lý đạo sẽ không thể châm chế! Nếu thế, những hành động ấy đều góp vào việc giết các đầy tớ và Con Một của Thiên Chúa nữa, vì bất cứ tội lỗi nào cũng góp phần đóng đinh Con Thiên Chúa.
Trong thẳm sâu cung lòng ta sẽ luôn vang lên tiếng nói lương tâm rất rõ ràng và mãnh liệt phản đối các hành vi tội ác, nếu mình đang đối diện các cám dỗ hay đã lỡ lầm phạm tội. Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô lúc nào cũng sai các đầy tớ rao giảng Tin Mừng, cũng như hiến dâng Con Một Người là Chúa Giêsu cho chúng ta. Trong thực tế, nhất là trong thế giới tự do mà con người có quyền tự do chọn lựa theo hay không theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa, thì chỉ riêng sự thụ động chối bỏ những lời rao giảng Tin Mừng đã làm cho Chúa đau lòng rồi, chứ chưa muốn nói đến việc phạm sự thánh, tức phạm vào Mình Máu thánh Chúa Kitô. Lòng Chúa nhân từ vẫn luôn quảng đại thứ tha, nhưng khi Ngài trở lại, thì những kẻ phản bội Ngài mà nhất định không ăn năn sẽ chịu hình phạt tru diệt của dụ ngôn hôm nay. Vì thế, một lần nữa, dụ ngôn này sẽ gợi lại cho chúng ta các vấn đề quan trọng như thời gian của ơn cứu độ, hoặc tình thương và sự sự công bằng của Thiên Chúa, như một cảnh tỉnh sâu sắc giúp ta trở về.
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN NĂM ATIỆC CƯỚI CHIÊN CONNếu chúng ta nghĩ về tiệc cưới mà ông chủ đãi khách nhưng không trong Phúc âm hôm nay không phải là tiệc cưới thường được tổ chức trong các nhà hàng hay tại tư gia như thường thấy, mà nghĩ đến tiệc cưới rất đặc biệt do một ông Chủ cũng rất đặc biệt khoản đãi trong tư cách là Thượng Đế, thì thắc mắc tại sao sau khi mời mọi người vào dự tiệc, ông chủ lại đối xử tàn nhẫn với một người không mặc áo cưới sẽ được giải quyết một cách thỏa đáng. Lý do đối xử của ông chủ vừa phản ảnh lòng nhân hậu, nhưng cũng rất công bằng với mọi người khi họ dùng tự do chọn dự tiệc cưới hay không.Lòng Chủ nhân hậu vì muốn thiết đãi mọi người như nhau, ngay cả những người nghèo nhất cũng như không hề quen biết ông thì cũng được mời tham dự. Tiệc cưới con Chủ từ đó sẽ mang tính cách phổ quát sau này chúng ta thấy trong Bí Tích Thánh Thể. Mọi người không phân biệt nòi giống, tiếng nói hay tình trạng cuộc đời đều được mời đến tham dự. Tuy nhiên mỗi người đến tham dự tiệc cũng phải giữ tối thiểu nghi thức nào đó của tiệc cưới tùy theo phong tục tập quán. Tiệc của ông Chủ Thượng Đế đòi hỏi họ phải mặc chiếc áo cưới trong sạch tâm hồn, vì Con của Chủ chính là lương thực vô cùng quí giá và thánh thiện chỉ phù hợp với những tâm hồn trong sạch mà thôi. Kẻ bị bắt đày vào lửa không hề tắt vì đã không chịu mặc chiếc áo cưới trong sạch này. Nếu chúng ta nghĩ về tiệc cưới Nước Trời, thì tính cách phổ quát sẽ hết sức rộng lớn vĩ đại, bởi bao gồm toàn thể nhân loại mọi thời được mời gọi tham dự trước Chiên Con Thiên Chúa. Ngày vui mừng của ơn cứu độ khi Con Chiên chịu sát tế, và ngày sự công bình nhân loại phải đối diện trước Con Chiên sẽ được coi như một tiệc cưới vĩ đại chung cuộc, bởi sẽ có cả tuyên thưởng lẫn luận phạt sau cùng. Tiệc cưới Nước Trời sẽ trở nên vui mừng cho những ai luôn mặc áo cưới yêu thương và công lý. Còn những kẻ gian ác vi phạm luật công bình bác ái sẽ bị đẩy ra khỏi tiệc cưới và nhan thánh Chiên Con.Chúng ta đã được Chúa mời gọi vào tham dự Tiệc Cưới Chiên Con trong Bí Tích Thánh Thể hôm nay, và sẽ được tham dự Tiệc Cưới Nước Trời mai sau. Nếu sẵn sàng mặc áo cưới hôm nay trong luật pháp và các điều kiện như phong tục của các Bí Tích, chúng ta sẽ được Chúa viếng thăm và đón vào Tiệc Cưới Nước Trời vĩnh hằng với Người. Hãy nhớ rằng, Thiên Chúa rất nhân hậu, nhưng cũng hết sức công bằng. Sự công bằng của Chúa thực ra cũng chỉ phản ảnh tình thương vô biên của Người, vì qua Chúa Giêsu Kitô, Người luôn chở đợi mọi người trở về dự Tiệc Cưới của Người cho đến phút cuối cuộc sống của họ.Lm. Raphael Xuân Nguyên
SỐNG LỜI MỜI THAM DỰ TIỆC CƯỚI
Hình ảnh Nước Trời trong dụ ngôn Tiệc Cưới hôm nay thật tuyệt vời và cao cả, nhưng chứa đựng mạc khải chung cục được phân định rõ rệt ranh giới cho tất cả những ai chấp nhận và sống lời mời tham dự Tiệc Nước Trời và những kẻ phản kháng.
Tiệc Cưới do chính Thiện Chúa tổ chức cho Con Một yêu dấu của mình là Chúa Giêsu. Ngài cưới cho Con Một vị hôn thê mà Ngài cũng yêu say đắm điên cuồng là nhân loại. Tất cả mạc khải của Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước đều diễn tả tình yêu say đắm ấy bằng hai chữ Giao Ước (Covenant of love)được ký kết giữa Thiên Chúa và con người, và kết thúc trong Tiệc Cưới Nước Trời. Do đó trước hết Giao ước ấy không bao giờ là Giao ước chết và lỗi thời, bởi vì tình yêu luôn sống động cụ thể trong từng cá nhân khi họ liên kết tình yêu của mình với tình yêu Thiên Chúa trong tương quan Tôn Giáo.
Để diễn tả tình yêu, dĩ nhiên cần đến tự do. Vì thế Thiên Chúa sai các đầy tớ và ngay cả Con Một đi mời nhân loại vào tham dự. Tuy nhiên khi dùng tự do để chọn lựa điều ác, thì lập tức sẽ nhận lấy tất cả những hậu quả của các điều ác đó. Những người dùng tự do để từ chối lời mời của Thiên Chúa được Chúa Giêsu mô tả là thờ ơ và phản kháng. Họ thờ ơ vì bận rộn các nhu cầu trần thế. Họ phản kháng khinh miệt vì kiêu căng hận thù, nên đã sỉ nhục và giết các đầy tớ của Thiên Chúa. Hậu quả dành cho những kẻ phản kháng được hiểu gần nhất là giới lãnh đạo tôn giáo và dân tộc Do Thái: Kể từ năm 70, biến cố Đền Thánh Giêrusalem bị tiêu hủy trở nên lằn phân cách và đoạn tuyệt giữa Kitô giáo tiên khởi và Do Thái Giáo.
Dụ Ngôn Tiệc Cưới này được Chúa Giêsu loan báo rất gần với biến cố tử nạn của Người. Người đã bị giới chức tôn giáo Do Thái kết án tử trong thầm lặng và trong bong tối. Nó không chỉ là biến cố bi thảm của qúa khứ, nhưng đúng hơn sẽ luôn mang tính thời sự nóng bỏng qua việc hờ hững từ chối tình yêu Thiên Chúa trong lòng các tín hữu hôm nay. Hãy coi, Tiệc Cưới của Thiên Chúa không chỉ được tổ chức một lần, nhưng cách long trọng hàng tuần vào các Ngày của Ngài gọi là Chúa Nhật. Và sự từ chối của không biết bao con người lại diễn ra. Họ thờ ơ lấy lý do bận rộn cả tuần, chỉ còn một ngày thôi phải tận hưởng cuộc đời chứ. Cần phải ở nhà nghỉ với vợ con, cần phải ăn nhậu với bạn bè để thắt chặt tình thân hữu, cần phải đi nhảy đầm để thư giản những căng thẳng do việc làm đem lại, cần phải kiếm thêm tiền để sống thoải mái hơn, vv… Và ngay khi mang được thân xác đến Tiệc Cưới cuối tuần cũng chưa chắc trọn vẹn tình yêu với Đấng yêu thương mời gọi mình.
Hãy thử suy nghĩ về những người nhận lời mời tham dự Tiệc Cưới. Những người nhận lời mời tham dự Tiệc Cưới của Thiên Chúa là điều thật tốt đẹp. Tuy nhiên vào dự Tiệc Cưới mới chỉ là khởi đầu cho Tiệc Cưới. Hành trình của Tiệc Cưới đòi hỏi giữ nhiều Lễ Nghi trịnh trọng, vì đây là Tiệc cưới của Thiên Chúa tổ chức cho HoàngTử. Trước nhất theo phong tục Do Thái, ai cũng phải mặc áo cưới, nếu không có thì Chủ sẽ phát cho. Tiệc Cưới này của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nên ít nhất khi vào tham dự cũng phải mặc áo cưới. Áo cưới này được gọi là cửa Nước Trời tức Bí Tích Rửa Tội, nghĩa là khởi đầu của tiến trình trở nên người mới.
Một người không mặc áo cưới bị ông Chủ phạt nặng nề được xem như những cám dỗ khước từ sống sự công chính của Nước Trời. Nó còn là những cám dỗ tự mãn hay ỉ nại hoặc buông xuôi vào lòng yêu thương bao la của Thiên Chúa nữa. Vì thế không tích cực sống đạo, hoặc có thực hiện thì chỉ qua lần chiếu lệ, mà không có chút gì nồng ấm của tình yêu trong tương quan tôn giáo, tức tương quan tình yêu giữa con người và Thiên Chúa. Tệ hơn nữa là từ chối sống sự công chính, tức công bằng, tình yêu và chân lý của Nước Trời.
Chúng ta có thể coi tiến trình Tiệc Cưới Nước Trời là tiến trình sống sự công chính này. Việc thực hành Đạo như vậy mới nói lên ý nghĩa đích thực của một người Kitô hữu. Họ trở nên con cái Thiên Chúa và giống như Ngài. Họ giống như Ngài vì họ đang sống tình yêu của Ngài. Tình yêu này cũng là sự thánh thiện, là chân lý, là bản tính của Thiên Chúa. Chúng ta khi nhận sống lời mời gọi tham dự tiệc cưới Nước Trời cũng đồng thời tự định đoạt cho mình ranh giới thiện ác, tốt xấu, bất hạnh và hạnh phúc thiên thu ngay trong cuộc sống hôm nay.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM ATRẢ CHO XÊ-DA, TRẢ CHO CHÚAVới một lương tâm ngay lành, người ta sẽ dễ dàng phân biệt được những gì cần phải trả cho Thiên Chúa, và những gì cần phải trả cho Xê-da. Trong thực tế cuộc đời, hầu như ranh giới ấy đều bị lẫn lộn vì lương tâm không còn trong suốt hình ảnh chân lý thuộc về Thiên Chúa. Có thể tùy theo cá nhân mà cuộc chiến đấu giữa tốt và xấu, thiện và ác, lành và dữ có phần khác nhau, nhưng ai cũng phải nhận mình ít nhiều đã bị suy thoái vì tội lỗi do bản tính nhân loại yếu đuối sau tội tổ tông! Đây là điểm cốt tủy để từ đó con người biết nương tựa vào Chúa làm cho lương tâm mình ngay thẳng hơn trong hình ảnh Thiên Chúa, và có thể trả lại cho Ngài những gì thuộc Ngài.Nếu bình tâm công bằng nhìn lại cuộc sống, người ta đã trả cho Xê-da nhiều gấp bội những gì người ta phải trả cho Thiên Chúa. Tỷ như một ngày có hai mươi bốn giờ đồng hồ, thì có bao nhiêu phút Thiên Chúa được nhân loại trả cho Ngài qua việc thờ phượng và mến yêu hết lòng? Có bao nhiêu việc tốt người ta đã thực hiện vì lòng yêu mến Chúa? Có bao nhiêu việc hiến dâng như chút hy sinh góp phần cứu độ vào cây thánh giá Chúa Kitô? Có bao nhiêu việc thiện nguyện phát xuất từ tình thương chân thành của lòng người vì yêu tha nhân?   Ngay cả trong những công việc ấy, có thực sự người ta đã trả cho Chúa với tâm hồn ngay lành hay ngược lại chỉ vì bản thân họ? Nếu nhân lên một tuần, một năm và cả một đời những việc người ta phải trả cho Thiên Chúa và Xê-da, thì phần của Xê-da sẽ cao như núi ngất trời, còn phần của Chúa sẽ chỉ lè tè mặt đất! Đó mới là một tỷ dụ không hơn không kém.
 
Khi có một lương tâm ngay lành, người ta sẽ nhận ra tính cách nghiêm trọng của luật Chúa truyền: đó là thờ phượng và yêu mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu mến tha nhân như chính mình. Chỉ cần căn cứ vào luật này, mỗi ngày con người sẽ biết mình phải trả bao nhiêu cho Thiên Chúa và tha nhân để xứng đáng đứng vào hàng ngũ những công dân Nước Trời. Theo quan niệm của Thánh Phaolô, thì mọi sự đều trở nên tốt cho kẻ có lòng mến Chúa, nghĩa là trong mọi hành động, như khi ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc hay giải trí,v v... nếu làm vì yêu mến Chúa, thì đều có giá trị trả cho Chúa cả. Vì thế, lòng mến Chúa trong việc làm chính là thước đo giá trị các hành động trần thế của con người muốn thực sự trả lại cho Thiên Chúa. Và chỉ khác nhau có thế để giúp lương tâm được ngay lành giữa gian trần đầy hỏa mù tốt - xấu và thiện - ác. Lời Chúa Giêsu hôm nay: “Hãy trả cho Xê-da những gì của Xê-da, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” qủa thật là kim chỉ nam hướng nhân loại biết tìm về quê Trời, nếu họ muốn thực hiện điều đó.Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN NĂM ASỰ DUY NHẤT CỦA LUẬT MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Có thể nói gia đình là nơi lý tưởng nhất của cuộc sống, vì từ nơi đó sự sống con người bắt đầu hiện hữu, và cũng từ nơi đó cuộc đời nhân loại từng bước hình thành những giai đoạn cuộc đời, để tỏa ra muôn hướng cuộc sống làm nên những xã hội khác nhau của con người, và sự duy nhất trong bản tính con người của toàn thể nhân loại. Gia đình lý tưởng chỉ hiện hữu nhờ vào tình yêu phản ảnh gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi; ngược lại thiếu vắng điều đó, gia đình lập tức tan rã để nhường chỗ cho những ốc đảo cô đơn không chút liên hệ.   Luật mến Chúa yêu người mà Chúa Giêsu nêu lên trong Tin Mừng hôm nay là luật quan trọng duy nhất làm cho các cá nhân trong gia đình nhân loại có thể nối kết lại với nhau. Cả hai vế mến Chúa - yêu người chỉ là một hành động của đức bác ái trong Đạo Bác Ái Kitô giáo.
Vì là một hành động duy nhất, nên trước hết các tác động phản ảnh việc tôn thờ Chúa luôn liên hệ tới việc yêu tha nhân. Thí dụ việc tôn thờ Chúa trong thánh đường là việc tôn thờ rất hiển nhiên của mọi kitô hữu. Vào đó, ai cũng nghiêm trang kính cẩn và giục lòng tôn thờ yêu mến Chúa. Mỗi người đều hướng nhìn lên cung thánh và bàn thờ, và hình như không ai muốn để ý đến ai bên cạnh! Quan sát thế, người ta tưởng việc tôn thờ Chúa không có chút gì liên hệ đến việc yêu tha nhân, bởi ai cũng lo thờ Chúa hết lòng. Thực ra sự liên hệ của tình yêu Chúa và tha nhân không hệ tại thái độ hay tư thế của việc thờ phượng, nhưng nằm trong việc diễn tả, tức hành động của việc thờ phượng. Khi một kitô hữu đến tham dự Thánh Lễ, là người đó tham dự trực tiếp vào việc cứu độ nhân loại của Chúa Kitô. Việc tham dự này có tính cách cứu độ chỉ nhờ sống mầu nhiệm cứu chuộc với Chúa Kitô, chứ hành động tôn thờ cá nhân mà thôi sẽ không đem lại hiệu qủa ơn cứu độ. Nhưng điểm quan trọng hơn vẫn là sống mầu nhiệm cứu độ của Thánh Lễ sau khi ra khỏi thánh đường, nghĩa là cuộc đời người kitô hữu trở nên một Thánh Lễ nối dài trong cuộc sống để diễn tả tình yêu Chúa và tha nhân
 
Thứ đến, một hành động bác ái cá nhân nào dù âm thầm hay công khai cũng đều diễn tả việc thờ phượng và yêu mến Thiên Chúa cả. Chúa Giêsu dạy mỗi người chúng ta là chi thể của Ngài. Như thế khi giúp đỡ tha nhân tức là giúp đỡ chính thân thể của Ngài. Việc giúp đỡ này rất hiển nhiên và quan trọng nói nên việc thờ phượng Chúa hết lòng. Nên chúng ta không thể tách rời Thiên Chúa ra khỏi tha nhân hoặc ngược lại, vì Chúa Giêsu đã nói toàn thể Luật Chúa tóm tắt trong việc mến Chúa yêu người. Luật này biến nhân loại thành một gia đình tình yêu lý tưởng trong Thiên Chúa.Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN NĂM ACHA, THẦY VÀ NGƯỜI CHỈ ĐẠO
Nhân dịp quan sát các luật sĩ với hàng trăm luật lệ tỷ mỉ nhưng không mấy thực tế lợi ích cho đời sống tinh thần của dân Do Thái, Chúa Giêsu nhận ra ngay sự giả hình của các luật sĩ ấy khi họ chỉ biết đặt trên vai dân chúng sự nặng nề của luật, còn mình thì tự do khỏi những điều luật đã làm! Chúa đã xác định một chân lý của đời sống tinh thần, đúng hơn là đời sống Đạo trong tương quan với Thiên Chúa: Các ngươi chỉ có một Thầy, một người chỉ đạo là Đức Kitô, và chỉ có một Cha là Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời. Chân lý này hướng con người về sự thật: quê hương hay nhà chúng ta ở trên trời. Mọi chân lý cũng như luật lệ chân thực đều phát sinh từ đó.
Có nhiều người đã bàn về đoạn Tin Mừng này, hiểu theo nghĩa đen của chữ, rồi áp dụng vào hàng ngũ các vị lãnh đạo tôn giáo khi phủ nhận danh xưng “cha” dành cho họ. Điều này qủa thực không quan trọng đối với họ, và nhất là không có lợi gì cho đời sống đạo trong tương quan cộng đồng huynh đệ Kitô giáo. Có thể danh xưng cha sẽ không xứng đáng đối với một số người lãnh đạo tôn giáo không có đời sống xứng đáng gương mẫu, vì họ bị Chúa Giêsu xếp vào hàng những người luật sĩ Do Thái. Nhưng điều chúng ta suy niệm về danh xưng Cha, Thầy và người chỉ đạo của Tin Mừng là để hướng mình về với Thiên Chúa. Giữa thế giới hỏa mù lẫn lộn tốt xấu, thiện ác, con người rất cần một vị Thầy dạy chân lý chân thật, một vị lãnh đạo chỉ dạy con đường chân thật về trời, và nhất là cần một người Cha yêu thương ta tha thiết, chỉ biết nâng đỡ con cái trên hành trình gian truân thế gian muôn hướng và bể khổ khôn nguôi.Và Chúa Giêsu đã xác nhận vị Thầy và người chỉ đạo ấy chính là Ngài, Con Một Thiên Chúa. Tin Mừng Ngài rao giảng là Tin Mừng từ Trời, nên không lý thuyết nào của trần gian có thể so sánh với các chân lý ấy. Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng của tình yêu và cứu rỗi giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của Satan, tội lỗi và sự chết. Ngài chính là vị Thầy duy nhất chúng ta tuyên xưng hôm nay và mãi mãi về sau. Cũng từ Tin Mừng ấy kèm theo những phép lạ diệu huyền, và nhất là qua cuộc khổ nạn, chết đi, sống lại và lên trời, Ngài đã chứng tỏ khả năng chỉ đạo duy nhất cho nhân loại con đường về trời qua đường con người, tức đường Nhập Thể. Và cũng từ Ngài, con người nhận biết mạc khải về Cha mình là Thiên Chúa Cha, cũng là Cha Ngài. Gia đình nhân loại vô cùng hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha. Vì thế, không ai ở trần gian sẽ xứng đáng với danh xưng Thầy, người chỉ đạo và Cha theo ý nghĩa này được. Cùng lắm là chúng ta kính trọng họ trong chức vụ qua hành động ngay chính, bác ái, cảm thông, chia sẻ những mảnh vụn họ nhận được trong biển cả bao la chân lý của Chúa Kitô cho chúng ta, và từ đó cùng cộng tác với nhau để xây dựng Nước Cha mình.Lm. Raphael Xuân Nguyên
THẦY, CHA VÀ NGƯỜI CHỈ ĐẠO DUY NHẤT
Có quá nhiều những bài suy niệm Phúc âm Chúa Nhật 31 Thường Niên năm A hướng về việc nhắn nhủ các nhà lãnh đạo tôn giáo, cụ thể là các linh mục giảng dạy trong các Thánh Lễ Chúa Nhật: Hãy Thực Hành Điều mình giảng! Hay Tôi muốn thấy Bài Giảng! dựa vào chỉ một câu nói của Chúa Giêsu: Họ nói mà không làm! Thực ra chúng ta hiểu thế nào về toàn thể Bài Tin Mừng hôm nay cho đúng ý nghĩa của Chúa Giêsu khi Người nói với những những Biệt Phái?
Có thể nói sau khi Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy vào năm 70, thì những người Pharisiêu là nhóm duy nhất còn sót lại và được tổ chức chặt chẽ để lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Thánh Matthêô viết Tin Mừng vào khoảng thời gian này, và chắc chắn những công kích Biệt Phái đã lắng xuống theo giòng thời gian (vì một số trong họ đã lên án tử Chúa Giêsu), nên Matthêô hé mở cho thấy rõ thái độ của Chúa Giêsu với những người Biệt Phái hết sức công bằng, khi Ngài giúp chúng ta nhìn nhận quyền bính tuyệt đối của Thiên Chúa là Thầy, là Cha và là người Lãnh Đạo.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu công nhận quyền hợp pháp của những người Biệt Phái trên Lề Luật: Các Kinh Sư và người Pharisiêu ngồi trên tòa ông Maisen giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm. Chỉ tránh một điều, đó là: Nhưng đừng theo hành động của họ, vì họ nói mà không làm! Tại sao vậy? Thưa bởi vì những người này hướng dẫn và áp dụng luật lệ tôn giáo vào các tập tục và nghi thức bên ngoài, thay vì giúp biến đổi tâm hồn các tín hữu để họ hướng về Chúa. Vì thế hậu qủa là họ chiếm đoạt các tín hữu, thay vì hướng các tín hữu tìm thấy Thiên Chúa. Vì thế, xin đừng trích dẫn những lời Tin Mừng này để làm bình phong ngụy biện cho thái độ sống và giữ đạo của chúng ta, khi thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo hoặc các Kitô hữu khác sống bữa bãi, phạm tội hay bê bối! Quan trọng là: chính tôi có thực hiện điều Chúa dạy tôi không.
Liên quan đến thái độ cư xử công bằng với những người Biệt Phái, Chúa Giêsu vẫn theo và áp dụng tập tục Do Thái như họ. Thí dụ khi Người nhắc đến việc mang hôp kinh và tua áo đứng cầu nguyện ở những nơi công cộng của những người Biệt Phái, không có nghĩa Chúa đả kích tập tục cầu nguyện hay quyền bính tôn giáo, vì những thói quen đó phát xuất từ Cựu Ước trong các sách Xuất Hành 13:9 (Hộp Kinh) và Dân số 15:37-39 (Tua áo), nhưng chỉ vì những người Biệt Phái lợi dụng các tập tục đó để phô bày lòng đạo đức hay quyền bính của mình. Chính Chúa Giêsu cũng mang áo có tua như những người Biệt Phái. (đọc thấy ở Mat. 9:12 và 14:36).
Và trong ý nghĩa đích thực và quan trọng của việc gọi Thiên Chúa là Thầy, lả Cha và là người Lãnh đạo, chúng ta sẽ khám phá ra quan niệm đứng đắn trong thái độ sống đạo của mình, không phải sự phụ thuộc các các danh từ Thầy, Cha và lãnh đạo, đặc biệt đem áp dụng khiếm diện vào những người lãnh đạo nói chung, và dành cho những người lãnh đạo tôn giáo nói riêng.
Mở đầu Chúa Giêsu nói: Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là Thầy (Rabbi). Chúa nhấn mạnh đến vai trò người Kitô hữu: phần anh em. Mỗi Kitô hữu, dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, đều ý thức đừng dành cho mình những đặc quyền tôn giáo hay giáo dục để bắt kẻ khác phải lệ thuộc hay tùng phục mình. Thật là ngạo nghễ và kiêu căng! Bởi vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Và điều này dẫn chúng ta đến chân lý tuyệt đối:Chỉ có một mình Thiên Chúa là Thầy dạy chân lý tuyệt đối duy nhất. Không một ai trên trần thế có thể nắm giữ hay là chân lý ấy, cùng lắm là nhờ ơn Chúa, họ chỉ có thể đến gần được chân lý mà thôi.
Cũng tương tự khi Chúa Giêsu day: Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì anh em chỉ có một cha trên trời. Trước hết chúng ta học được mạc khải của Chúa cho biết mình có Cha trên trời, và hạnh phúc tuyệt vời cho chúng ta là được gọi và đến gần người Cha ấy. Đây là sự bình đằng của tình yêu Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, dù họ theo bất cứ tôn giáo nào. Không ai có thể tự cho mình độc quyền nhận lấy người Cha ấy trong tôn giáo riêng của họ. Nhất là không nên áp dụng danh xưng cha cho một số vị lãnh đạo tôn giáo trong ý nghĩa nắm giữ trọn vẹn chân lý và đặc quyền tôn giáo; tốt hơn theo thói quen tốt lành dành danh dự cha trong ý nghĩa phục vụ; và như vậy sẽ tránh được những tranh cãi một cách ấu trĩ.
Riêng về ý nghĩa người Lãnh Đạo mà Chúa Giêsu nhắc đến: Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô. Chúa Giêsu xác định rõ ràng chỉ có Đức Kitô là người lãnh đạo duy nhất hướng dẫn nhân loại về với Thiên Chúa mà thôi. Các vai trò lãnh đạo khác từ con người do đó phải bị tự hủy trước Đức Kitô. Nghĩa là nếu tôi được hân hãnh hướng dẫn tha nhân trong việc giảng dạy Tin Mừng, trong việc cắt nghĩa hay dạy giáo lý trong cộng đoàn, trong việc giáo dục đức tin cho con cái hay những nhóm sinh hoạt tôn giáo, thì chính tôi phải biết rằng: Mình chỉ “thành công” khi hướng dẫn tha nhân về được với Đức Kitô và tự họ có thể gặp được Người. Nếu họ dừng lại ở tôi, thì vai trò lãnh đạo sẽ mất hết ý nghĩa, bởi vì họ sẽ không đạt được chân lý tuyệt đối duy nht là Đức Kitô và qua Người nhận ra được Thiên Chúa là Cha.
Trong việc tìm hiểu ý nghĩa sâu xa lời Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta sẽ cảm nhận một sự thật rất thật của bản tính nhân loại yếu đuối và giới hạn, vì không có Thầy các con không làm gì được. Ước chi lời Chúa hôm nay nâng đỡ đời sống đạo và hướng dẫn những bước chân Kitô hữu của chúng ta trong việc rao giảng Tin Mừng, để có thể khiêm tốn giới thiệu Chúa là Thầy, là Cha và là vị lãnh đạo duy nhất của toàn thể nhân loại.
Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM AKHÔN NGOAN-TỈNH THỨC ĐỢI CHỜ 

Một Đám Cưới, nhưng Đám Cưới không bình thường, vì luật lệ và phong tục tập quán qúa khác biệt với đám cưới nhân gian. Chỉ nguyên thời gian đêm tối cùng với con số mười trinh nữ đi đón một chàng rể thôi đã thấy khác biệt lắm rồi. Các yếu tố ấy sẽ thấp thoáng gợi lên đó đây trong tâm trí mơ hồ: Đêm tối đồng hóa với tình yêu hay tội lỗi? Các trinh nữ là quà quí báu Trời ban cho nhân gian, nhưng sao một chàng rể lại phải cần tới mười nàng trinh nữ đi đón? Họ là ai, là những phù dâu hay các cô dâu được chọn về nhà chồng? Qủa thực Đám Cưới rất lạ! Nhưng vẫn chưa lạ bằng luật lệ Đám Cưới trong Đêm đòi các cô phải tỉnh thức với đèn sẵn dầu để thắp lên bất cứ lúc nào chàng rể đến. Hình như các cô không được thông báo giờ giấc đến của chàng rể đặc biệt này. Thôi đành đoán vậy. Nhưng sẽ rất hồi hộp trong đêm tối kiên nhẫn đợi chờ. Thế là có chuyện xảy ra.
 
Chuyện xảy ra cũng ngộ và lạ, vì lúc chàng rể đến chỉ có năm cô trinh nữ được vào phòng cưới với chàng, còn năm cô thì không! Năm cô được vào vì đã tỉnh thức đợi chờ và đem đủ dầu để đèn sáng mãi, gọi là những trinh nữ khôn ngoan. Còn năm cô không được vào, vì thiếp ngủ quên, và đèn lại cạn sạch hết dầu, gọi là những trinh nữ dại khờ! Người ta chẳng biết được gì hơn xảy ra quanh Đám Cưới này, ngoại trừ sự kiện mười cô trinh nữ và một chàng rể, cùng với việc được nhận và loại trừ khỏi phòng cưới của số phận các trinh nữ. Nhưng thế cũng đủ cho một đời người. Những đời người được đón nhận và bị loại trừ, cho dù mang tên trinh nữ nhưng lại thiếu khôn ngoan. 
Xem ra cuộc đời thấp thoáng chỉ là thời gian vắn vỏi qua mau của đêm tối đợi chờ. Những chờ đợi của mộng mơ ước vọng. Những đợi chờ của hy vọng và niềm vui. Những chờ đợi của tương lai và hạnh phúc. Những đợi chờ của thành công và nghỉ ngơi. Những chờ đợi và đợi chờ! Góp hết những chờ đợi đời người, chỉ còn lại một thoáng mây bay trên nền trời nhạt mờ, hay vệt sáng yếu ớt vụt loé trong đêm đen mênh mang vô tận. Và đợi chờ đã khiến những nàng trinh nữ dại khờ ngủ quên. Chờ đợi và ngủ quên như gắn liền với đời người. Khổ nỗi Chàng Rể lại thích chọn những khoảnh khắc bất ngờ của đêm đen để xuất hiện. Chàng là hiện thân của tình yêu và quyền lực hạnh phúc tối cao. Sự khôn ngoan và khờ dại chỉ xảy ra trong gang tấc để quyết định cho số phận thiên thu đời người. Riêng sự khôn ngoan tỉnh thức sẽ lên tiếng cho công lý trong nước tình yêu và hạnh phúc ngàn trùng của Chàng Rể này. Chẳng những Chàng nhận năm cô trinh nữ, nhưng sẽ còn đón nhận toàn thể nhân loại mang tâm hồn trinh nữ khôn ngoan, tỉnh thức, đợi chờ giữa đêm đen miên man vào dự Tiệc Cưới thiên thu với Chàng, khi cánh cửa mỗi cuộc đời đã khép lại.
 
 
Lm. Raphael Xuân Nguyên 
TÔN GIÁO TÌNH YÊU VÀ TỰ DO CON NGƯỜI
Những chữ nổi bật trong Bài Tin Mừng hôm nay: Chú Rể - Cô Dâu, Chờ Đợi - Thiếp Ngủ, Nửa Đêm - Vào Phòng, Đóng Cửa - Không Biết đang diễn tả tính cách nghiêm trọng của Tôn Giáo Thiên Chúa và Tự do cũa con người; hay đúng hơn đang đưa nhân loại đến chung cục thế giới được phân định ranh giới mỗi cá nhân qua việc sử dụng tự do của mình để đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Qủa thực, Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại Nước Trời mà Người rao giảng bằng hình ảnh Tiệc Cưới nhiều lần. Tiệc Cưới hữu hình ở trần thế chính là Giáo Hội của Người; cũng có thể hiểu cụ thể và bao quát hơn trong ý nghĩa Tôn Giáo mà Người thiết lập: Đó là chính là tôn giáo Tình Yêu phản ảnh bản tính Thiên Chúa. Trong tôn giáo tình yêu ấy cần phải có chú rể và cô dâu, bởi vì tiệc cưới không có chú rể và cô dâu thì không thể gọi là tiệc cưới! Chú Rể là Con Thiên Chúa mang tên Giêsu, và cô dâu là toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa muốn cưới cho Con của Ngài. Vì thế tôn giáo mang tên Tình Yêu vừa có tính phổ quát, nhưng cũng rất cá biệt trong tương quan tình yêu của mỗi con người với Chàng Rể Giêsu mà họ yêu mến. Kết qủa tình yêu ấy cần được đo bằng thời gian qua sự chung thủy trong hành động yêu đương của tôn giáo, để có thể phản ảnh sự trung thực của tình yêu hay không.
Người ta nhìn thấy trong dụ ngôn các trinh nữ khôn và khờ dự tiệc cưới hôm nay tính cách văn hóa Do Thái, tức tiệc cưới trong Đêm, vì họ bắt đầu tiệc cưới vào lúc 6 giờ chiều. Đêm càng về khuya càng đưa dần con người vào giấc ngủ. Chờ lâu nên tất cả các trinh nữ đều thiếp đi rồi ngủ cả! Ở đây tính cách tôn giáo tình yêu đang phản ảnh bản tính nhân loại qua việc chờ đợi chàng rể đến. Hầu như ít có người còn tỉnh thức. Cứ thử ngẫm nghĩ xem có ai trong thời gian đời người đợi chờ Chàng Rể Giêsu mà không có lúc thiếp đi rồi ngủ vùi quên lãng. Thức lâu chầu mỏi mà! Chẳng lạ gì các thú vui trần thế, các đam mê xác thịt và gian trần, những dục vọng và lười biếng cứ thi nhau tấn công, cám dỗ làm nhân loại mòn mỏi lãng quân ngủ vùi. Thế nhưng trong thực tế vẫn còn biết bao người khi nghe tiếng Chúa, họ có thể tỉnh giấc thắp đèn đón Người. Đó là những trinh nữ khôn của dụ ngôn Tin Mừng hôm nay.
Những trinh nhữ khôn cùng được Vào Phòng cưới với chàng Rể và Cửa Đóng lại. Sự tỉnh thức đợi chờ, cho dù có thiếp đi chút ít, vẫn mạnh mẽ vang dội trong tâm thức tình yêu của họ, khiến họ đứng lên quay đầu lầm lỡ trở về. Chính tình yêu sâu thẳm trong trái tim họ là thước đo tương quan tình yêu nói lên sự trung thành trong tình yêu với Đấng mà họ yêu thương trong tôn giáo tình yêu này. Nửa đêm hay những bất ngời đời người không thể ngăn cách họ với chàng Rể Giêsu yêu dấu. Tiệc Cưới Nước Trời hôm nay vẫn tiếp tục trong Tiệc Cưới Nước Trời hằng sống.
Chỉ khốn khổ cho các trinh nữ khờ! Họ ngủ vùi không phải chỉ vì khờ khạo trong bản tính tự nhiên con người, bởi vì thời gian đời người đủ dài để có thể chứng tỏ tình yêu với chàng rể, và họ đã nhất quyết dùng tự do của họ để cố tình ngủ vùi, cố tình lơ đễnh không mang chút dầu yêu đương trong trái tim mình! Nét khờ khạo của họ do đó đã trở thành tâm thức phản kháng của những kẻ điên chống Thiên Chúa (Tv 14,1) hoặc ngu si mù quáng chối từ Ngài (Mt 7,24). Đây là hậu qủa của tự do chối từ tin Thiên Chúa, chối từ tình yêu của Ngài, nên hai tiếng Không Biết khô khan vọng ra từ căn phòng đóng cửa, chính là hậu qủa chung cục của đời người khờ khạo bê tha!
Tôn Giáo tình yêu của Thiên Chúa hôm nay vẫn lan tỏa trên các tâm hồn nhân loại, bởi vì tiệc cưới Nước Trời hữu hình luôn mở rộng trong Giáo Hội của Ngài. Chúng ta cảm tạ Chúa vì tình yêu bao la của Ngài cho chính mình, và xin Ngài luôn ban ơn giúp chúng ta sống trong thức tỉnh của tình yêu, luôn biết xa tránh những thú vui trần thế, luôn biết chối từ những đam mê xác thít, và những quyến dũ mời gọi của thế gian, để có thể không bao giờ thiếp đi, nhất là sẽ không bao giờ ngủ vùi trong phản kháng giữa đêm đen cuộc đời, vì ngủ vùi phản kháng chính là chối từ tình yêu Chúa!
Lm. Raphael Xuân Nguyên

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN NĂM ATRẢ NỢ ĐỜI
T
hánh Phaolô có lời khuyên chí lý: “Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoại trừ tình thân ái;” Hoặc “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1Cor 4:7) Tóm lại là nợ! Mà đã gọi là nợ phải có văn bản sổ sách rõ ràng, đàng này nợ tình kiểu Thánh Phaolô làm gì có biên giới giới hạn, vì nợ tình thì khắc ghi trong tim, và chỉ hoàn trả hết khi con tim ngừng đập. Trả và quịt nợ tình sẽ rất dễ dàng, nhưng cũng day dứt khôn nguôi! Vậy còn nợ gì ta phải trả cho đời? Có chứ, có nhiều lắm. Ngay chữ ĐỜI thôi đã xác nhận món nợ to lớn khắc ghi trong ta như cuốn sổ nợ có một không hai và không ai có thể thay thế để trả được. Vậy nợ đời là nợ gì và nợ ai?Căn cứ vào dụ ngôn trong Phúc âm hôm nay, thì nợ đời là món nợ chính cuộc đời ta đang có. Nó gồm có sự sống, thời gian sống, các khả năng của sự sống, các phương tiện cho sự sống, và các tương quan trong cuộc sống, gọi chung là đời sống. Và người mà ta phải trả món nợ này chính là ông Chủ Thượng Đế đã ban cho ta cuộc đời, vừa là nợ mà cũng vừa là món quà quí giá có một không hai, và chẳng giống ai. Cách trả nợ sẽ căn cứ vào lời khuyên của Thánh Phaolô: Nợ tình thì cách duy nhất là trả bằng tình. Món quà cuộc đời ông Chủ Thượng Đế ban cho là do bởi tình yêu nhưng không của Ngài. Do đó cũng phải dùng tình để báo đáp. Nhưng vì Ngài là nguồn của tình yêu, cho dù ta có trả nhiều bao nhiêu cũng chẳng làm cho Ngài thêm phong phú hay hạnh phúc hơn. Tốt hơn là làm theo ý Ngài.Ý của Ngài trong dụ ngôn là hãy sinh lợi gấp đôi những gì ta đã nhận được. Xem ra cũng dễ, bởi trước sau ta đều có lợi. Trả nợ lại trở thành nhận lợi tức, và cuộc đời ta thêm tốt hơn. Làm tăng gấp đôi cuộc đời có nghĩa là làm cho sự sống và cuộc sống tăng lên mãi. Ý nghĩa tăng trưởng giống với lời chúc của Thượng Đế trong Sách Khởi Nguyên khi dựng nên loài người. Nếu hiểu đúng ý nghĩa này, con người phải tuân hành ý Chúa qua luật và giáo huấn của Ngài. Nên nếu có một cuộc đời thì cần phải sinh ra hai ba cuộc đời khác, có năm hoặc hai tài năng thì phải làm ra năm và hai tài năng khác, vv... Điều này có nghĩa là làm cho đời ta và đời tha nhân, cũng như đời sống toàn thể nhân loại mỗi ngày nên tốt hơn, để nhờ đó giúp nhân loại đến gần với chân thiện mỹ của Thiên Chúa hơn. Như thế cách trả nợ Thiên Chúa cũng chính là cách con người hưởng dùng những gì Chúa ban để làm sáng danh và yêu mến Ngài. Đây là cách trả nợ tình yêu tự nhiên mà Ngài đã khắc ghi trong tim loài người. Đừng phí cuộc đời như kẻ khờ chôn giấu nén bạc, nhưng hãy tận hưởng nó theo ý Chúa để thoát nợ đời và hưởng đời hạnh phúc bất tận trong Thiên Chúa.Lm. Raphael Xuân Nguyên
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN NĂM A: CHÚA KITÔ VUAVUA GIÊSU KITÔ
Có những lý do rất tỏ tường ghi khắc trong Thánh Kinh để chúng ta vẫn mãi mãi tôn vinh Đức Kitô làm Vua mình, hôm nay và trên Nước hằng sống. Những lý do ấy xem ra hết sức tự nhiên trong trật tự gia đình nhân loại nói chúng, cũng như trong trật tự các triều vua chúa nói riêng. Trong gia đình, người đầu, tức đại diện cho gia đình, gia tộc, thường là người được sinh ra đầu, gọi là trưởng nam, trưởng gia tộc, trưởng tộc, vv... Trong triều vua chúa, người đầu làm vua kế nghiệp phải là thái tử thứ nhất, được vua cha cho nối ngôi. Đức Kitô Vua có cả hai yếu tố đó trong chức phẩm làm Vua của Ngài, cả trong bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính nhân loại. Tuy nhiên, khác với các triều vua nhân loại qua mau, triều đại Vua của Ngài sẽ vĩnh viễn muôn đời, vì Ngài là vua duy nhất tự chết đi để cho con dân Ngài mọi đời và mọi thời được sống muôn đời. Ngài trở nên Vua tình yêu ngự trị trong mọi con tim nhân loại.
Phải, chính Đức Kitô đã được mạc khải là Ngôi Lời có từ trước muôn đời, và Ngôi Lời ấy là Con Thiên Chúa, và Ngôi Lời ấy cũng chính là Thiên Chúa. (Jn. 1:1-4) Hai lần chính Đức Kitô tỏ ra bản tính Thiên Chúa của Ngài: Các tông đồ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến trên núi Taborê (Mt. 17:1-8) và lúc Gioan Tiền hô làm phép rửa cho Ngài trên giòng sông Giođan. (Mt 3:13-17) Cả hai lần Thiên Chúa Cha đều phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Đức Kitô là Con duy nhất yêu dấu của Thiên Chúa. Ngài làm Vua trên các thần thánh thiên quốc. Thánh Phaolô gọi Ngài là trưởng tử các loài thọ sinh (Rm 8:30), được Thiên Chúa tôn vinh trên mọi danh hiệu (Pl 2:8-9). Ngài chính là vua của kẻ sống lẫn kẻ chết.Riêng là Vua kẻ sống, Đức Kitô đã một lần sinh ra trên thế giới này trong bản tính nhân loại của Ngài. Tiên tri Isaia gọi Ngài là Vua thái bình. Các thiên thần ca hát Ngài là vua bình an cho nhân gian. Trong gia đình, Ngài là con một duy nhất nói lên địa vị trưởng tử các loài thọ sinh. Địa vị này được chính Ngài chứng minh bằng cuộc khổ nạn của mình: Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Cha Ta. Vì người đương thời không hiểu được ý nghĩa Vua yêu thương qua công cuộc cứu rỗi này, nên Ngài đã từ chối địa vị Vua khi họ muốn tôn Ngài làm vua theo ý họ. Còn Pontius Pilate, kẻ kết án tử cho Ngài, lại khù khờ trước ý nghĩa Vua mà Ngài xác định. Và Đức Kitô đã tuyên bố: Phải, tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Nước của Đức Kitô là Nước Trời, quyền cai trị của Ngài là tình yêu và công lý muôn đời, dân của Ngài là toàn thể nhân loại được cứu rỗi trong máu của Ngài. Ta hãy thờ lạy và vang lừng tung hô Vua tình yêu Giêsu Kitô của lòng mình, và hãy trung thành theo Ngài lên Nước hằng sống bằng con đường tình yêu trong cây thập giá đời mình.Lm. Raphael Xuân Nguyên