ĐỨC GIÊSU CHỮA MỘT NGƯỜI PHONG HỦI
Bài Tin Mừng đề ra cho các độ giả một số bài học: tin tưởng ký thác vào
Thiên Chúa; kín đáo phục vụ; bày tỏ tâm tình tri ân…
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi
hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế
nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc
5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi
tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần
học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối
cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu
đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh
phong hủi.
II. BỐ CỤC
Bản văn này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);
3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng
bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm,
cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta
không nói “chữa lành” nhưng là “được thanh tẩy (làm cho
sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ
trên hai từ Híp-ri nâga‛ (“nó đánh”) và nega‛ (“đòn đánh”;
“vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5;
2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).
Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong
hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người 3
đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ
nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.
Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được
dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân
biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã
lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ
thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).
Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ
có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi
một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có
ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như
Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-
14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong
hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia
(x. Mt 11,5)?
- Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis,
partic. aorist của động từ splanchnizomai do từ ta
splanchna, lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong
lòng”.
- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một
cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi
phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong
sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT) (43): Động từ Hy
Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ do
cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng
Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai,
ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người “đuổi”
anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của 4
Người. Động từ embrimaomai không có từ tương đương
trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s’irritant; BJ: en le
rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away
with the stern warning).
- để làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng trước
mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này
nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour
l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản
văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện
tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-
32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh
từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều
được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị
tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế,
Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực
hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong
hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu
đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Chữa lành người phong hủi (40-42)
Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để
kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới
tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một
chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người
bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta
gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời
khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử
sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và
thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động
như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy 5
được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức
khắc.
* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)
Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị
này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại
trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ
cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em
mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm
người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.
* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu,
anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do
đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và
tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng
từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền
lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là
có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi
đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa,
thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi
người có thể tin vào Người.
D Kết luận
Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc
nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên
Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu
độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân,
trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa
đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết
thương cảm.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Như người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý:
không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp
chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày
tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài
định liệu : “Nếu Ngài muốn”.
2. “Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời
khuyên rất tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý
muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin vào sự tốt
lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh
tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng
thời khẳng định đức tin của anh… Nếu đức tin yếu, đức tin
trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức tin mới cho
thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành
tâm hồn và than xác.
Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: “Người
đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)… Đức tin
tinh tuyền, được sống trong tình yêu, được duy trì nhờ sự
nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách
khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy
trọng kính trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong
những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn
cảnh được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’” (Thánh
Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).
3. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục
vụ. Như Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì
lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của anh chị
em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người Kitô
hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì
thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của người khác).
4. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ
mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên
Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho
chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang
nhận được những ân huệ lớn lao nào.
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
"Sạch" và "dơ" (Mc 1, 40)
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy
có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa; có khi
chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao? Lời Chúa
hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta
hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng
ta sống theo lời Ngài dạy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
• Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không
xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm
sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.
• Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng
những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu
chuyện khiếm nhã.
• Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống
ích kỷ và giận hờn ganh ghét.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Lv 13, 1-2. 45-46)
Ðoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên
gọi là "Luật về sự tinh sạch". Ðoạn này đề cập riêng về
bệnh cùi. Nhưng quan niệm về "bệnh cùi" không giống với
quan niệm ngày nay:
Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu
hoặc bóng láng) đều bị gọi là "cùi". Người ta còn nghĩ rằng
bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc
bệnh ấy phải ở riêng.
Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn
giáo: trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của
tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho
kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu
bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này "nếu" khỏi
bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là
một chữ "nếu" to tướng, vì người ta đều coi cùi là một
chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa
ra tay cứu chữa.
Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và
Ðức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do
Thiên Chúa ban.
2. Ðáp ca (Tv 31)
Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của
người được tha thứ.
3. Bài đọc II (1 Cr 10, 31--11, 1)
Ðoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng
chung một vấn đề, đó là "sạch và dơ". Người Do Thái thời
thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn "sạch" và
thức ăn "dơ". Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Ðiều
quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay 9
dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì
khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
4. Tin Mừng (Mc 1, 40-45)
Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người Do Thái
coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa
khỏi; b/ chứng bệnh rất hay lây; c/ có liên hệ đến tội lỗi.
Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Ðức Giêsu "Nếu
Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðiều này
chứng tỏ anh tin rằng Ðức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy: chứng tỏ Ngài không
sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.
Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng:
chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Thứ bệnh "cùi" nguy hiểm hơn
Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn
quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.
Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc
biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả: Ðó là
một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế,
lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi
người xa lánh.
Tội "cùi" ấy là gì? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan
truyền những ý nghĩ xấu ấy.
Ebba de Pauli trong quyển "Vị ẩn sĩ" đã mô tả một người
cùi như thế: Ðó là một bà trung lưu và có thể nói là "đạo
đức". Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều
giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để
tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không
hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người
đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng
dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa
xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ.
Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận:
- Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn
độc!
- Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc?
- Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như
nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan...
Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn
xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn.
- Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao.
Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao
tiếp:
- từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành;
khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt
lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.
Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.
* 2. Những "con hủi"
Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng
hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và
hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh
không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ
anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.
Có nhiều người tuy không "cùi" nhưng vẫn bị coi là "con
hủi" do bị mọi người khinh tởm tránh xa.
Nhưng Ðức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi
với những "con hủi" ấy, chẳng hạn những người thu thuế,
đĩ điếm, trộm cắp v. v.
* 3. Nỗi khổ bị xua đuổi
Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không
khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ
lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi
khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn
phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.
Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn
thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ
khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất
không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó
đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.
Người cùi đến với Ðức Giêsu trong bài Tin Mừng này là
một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung
với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho
người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người
cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm
mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.
Ðiểm hay trong chuyện này không phải là việc Ðức Giêsu
chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với
anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi,
nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng
vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Ðức
Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ
hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và
nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa
bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.
Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có
lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người
khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói
thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v. v. Ðó là những mũi
kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor
Mc Carthy)
* 4. Bệnh phong cùi
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi
chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng.
Người ta nói với mẹ cậu: "Thằng Glenn của chị sắp thành
kẻ tàn phế suốt đời đấy".
Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ
cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa.
Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là
chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh
ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá
là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn
phá kỷ lục Olympic về môn này.
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng
chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy
nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên
Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống
trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Ðối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như
Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham
dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải
sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên "ô uế" để mọi
người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong
hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng
quyền năng của Ðức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin:
"Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch" (Mc. 1,
40).
Thấy lòng tin của anh, Ðức Giêsu động lòng thương, giơ
tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh"
(Mc. 1, 41). Chạm đến người phong cùi, Ðức Giêsu đã
phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi
những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Ðức Giêsu,
con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được
nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà
bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M. Carré có nói: "Sống trong một thế giới đầy đau khổ
trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của
niềm tin tưởng cậy trông". Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng
nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong
lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính
trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn
toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn
phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế Ðức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của
Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là
cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết:
"Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ".
Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên
đồng tiền của họ, đó là câu: "In God we trust" (Chúng tôi tin
vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói: "Chúng ta
sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta
còn gắn chặt vào Thiên Chúa".
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin
tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng
đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi
Người; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của
Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi
bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như
Thầy đã yêu")
* 5. Chạm vào
Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác. Thà cho
người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm
tới mình. Ðức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không
ngại chạm vào. Ngài chạm vào những người cùi, những
người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người
chết. Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang
lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui
mừng sung sướng.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu
dàng. (Flor Mc Carthy)
* 6. Chúa chạm vào
Người phong cùi nói với Ðức Giêsu: "Thưa Ngài, nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Ðức Giêsu
chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo "Tôi
muốn, anh hãy được sạch"
Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng:
Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều "cùi" vì ai cũng có
tội. "Nếu Ngài muốn": Ðức Giêsu có muốn cho chúng ta hết
"cùi" thiêng liêng không? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì
Ðức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài
người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi: "Tôi muốn"
Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Ðức Giêsu
đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Ðức
Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ
thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.
7. Ý nghĩa việc làm của Ðức Giêsu
Các sách Tin Mừng trình bày Ðức Giêsu luôn làm hai việc:
chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không
riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói
cách khác, Ðức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao
giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao
giảng. Ta cũng có thể nói: chữa bệnh là một cách rao giảng
Tin Mừng.
Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được
chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng
những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ
loan báo Tin Mừng: "Ði khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao
và loan truyền tin đó... và người ta từ khắp nơi tuôn đến
cùng Người".
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
HÃY ĐƯỢC LÀNH
Chủ đề: "Dù tình trạng bi đát đến mức nào, Chúa Giêsu vẫn có thể hoán
chuyển thành tốt hơn, miễn là ta biết tin vào Ngài"
Lm. Mark Link, SJ
Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người anh, Peter Cropper được
mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hoà nhạc đặc biệt. Vì
lòng ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc
hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là
Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử
dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này
mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari.
Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn
bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du
dương. Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn
ác mộng khinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi
bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã
xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! thế là
Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một
người chuyên sửa đàn dày dạn Kinh nghiệm tên là Charler
Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho
Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn
vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các
mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước.
Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín
thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc
vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp
cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có
mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những
âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem
ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!
Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi
trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm 18
mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang
lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ đám thính
giả.
Câu chuyện về chiếc vĩ cầm trên là một hỉnh ảnh tuyệt hảo
diễn ý những gì đã xảy ra cho người bị phong cùi trong bài
Phúc Âm hôm nay. Thời xưa, không hình ảnh nào ghê tởm
bằng hình ảnh người bệnh cùi. Ai ai cũng sợ bị anh ta lây
bệnh. Đời sống của người bệnh cùi chẳng khác gì cuộc
sống địa ngục. Người khác lấy làm gớm ghiếc anh ta đã
dành, mà chính anh ta cũng kinh tởm chính mình nữa.
Thánh vịnh 31 đã mô tả tình trạng thê thảm của anh như
sau; "Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi, trông thấy tôi
ngoài đường là họ lánh xa… Tôi chả khác nào đồ vật phế
thải" (Tv 31: 11-12). Thế mà đối với người phung cùi bị đát
như vậy, Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài
chạm vào và chữa cho anh ta lành bệnh.
Câu chuyện người phung cùi và câu chuyện chiếc vĩ cầm
chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với tất cả chúng ta.
Chúng cho ta thấy những điều vẫn thường xuyên xảy đến
trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hạn một biến cố cực kỳ bi
đát nào đó như; một người thân mình qua đời, bạn bè phản
bội mình, tại nạn xẩy tới làm con mình tàn tật, cha mình
mất sở làm, mẹ mình nghiện rượu… khi sự bất hạnh ấy
chụp lên đầu chúng ta, lòng chúng ta đầy đớn đau, lo lắng,
giống như người bệnh cùi lúc bị vướng bệnh, chúng ta cảm
thấy cõi lòng tan nát, và giống như Peter khi đánh vỡ chiếc
vĩ cầm, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng hết sức khủng
hoảng.
Vậy hai câu chuyện trên dạy chúng ta điều gì khi lâm phải
những hoàn cảnh bi đát tương tự như thế? Chúng cho ta
thấy không có hoàn cảnh bi đát nào khủng khiếp đến mức 19
ta không thể vượt qua được. Không một tai hoạ nào tàn
khốc đến mức không thể phục hồi được. Dầu cho rủi ro tàn
phá đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhặt lên
những mãnh vụn và bắt đầu khiến tạo lại thành một hình
dạng mới. Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng đời mình kể
như vĩnh viễn tàn lụi, hư hỏng, chúng ta chỉ cần quay nhìn
về Chúa Giêsu, Ngài có thể chữa lành cuộc đời tan vỡ
chúng ta, giống như người sửa đàn tài hoa đã sửa chữa
chiếc vĩ cầm bể nát nọ. Và Chúa Giêsu còn làm được hơn
thế. Ngài có thể biến một cuộc đời tan nát thành tốt hơn,
đẹp hơn trước đó nữa.
Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi
bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần
phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: "Chị
nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp
sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!" thế mà hai năm sau,
cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được,
cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm,
những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn
vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn
chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho
thấy thiên hạ đã lầm, mà chẳng là vì cậu có năng khiếu về
môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân
thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic
động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ
lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại
phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.
Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân,
nay đã trở thành vận động viên chạy chay nhanh nhất thế
giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở
nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra. 20
Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc
hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau:
"Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh
thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng.
Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không
bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã
lòng" (2 Cr 4: 8-9, 16).
Và trong thư gởi tín hữu Roma thánh Phaolô có nói;
"Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên tốt
đẹp cho những kẻ yêu mến Ngài" (Rm 8:28)
Đây chính là "Tin Mừng" ẩn chứa trong các bài đọc Thánh
Kinh hôm nay. Những bài đọc này dạy ta biết rằng dù ta có
gặp tai nạn thảm khốc đến mức nào, chúng ta cũng vẫn có
thể được chữa lành- giống như trường hợp chiếc vĩ cầm
quí giá nọ. Những bài đọc dạy ta rằng bất cứ bệnh tật nào
dù thê lương đến đâu xảy đến cho chúng ta như bệnh cùi
chẳng hạn, chúng ta vẫn có thể được chữa lành dù sự kiện
bi đát nào ụp xuống trên ta giống trường hợp xảy đến cho
Glenn, chúng ta cũng vẫn có thể hoàn toàn phục hồi như
cậu ta. Những bài đọc còn dạy chúng ta thêm điều này. Dù
Chúa Giêsu có thể không chọn phương cách phục hồi toàn
vẹn đời sống cho chúng ta, Ngài vẫn có thể dùng nghịch
cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn
trước.
Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện được tìm thấy
trong túi một chiến binh tử trận.
"Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ
đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những
điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh
phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn
ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng
để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu
cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…
Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận
được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời
lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế
tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc
nhiều nhất"…
Lm. Mark Link, SJ
CHÚA CHỮA NGƯỜI PHONG CÙI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Xưa nay, bệnh phong cùi vẫn làm cho người khác e sợ,
lánh xa.Dù rằng, ngày nay y khoa không còn bó tay trước
bệnh phong cùi mà lúc xưa nhân loại xếp vào loại bệnh nan
y…Bệnh phong vào thời Chúa Giêsu vẫn bị xếp vào loại
bệnh bất trị, ai cũng phải tránh xa người bị phong cùi và
người mắc bệnh phong đi đâu cũng phải la to lên:” Ô uế ! Ô
uế “ ( Lv 13, 45-46 ).
Bệnh phong cùi xem ra là một hình phạt của Thiên Chúa
theo quan niệm của người Do Thai. Vâng, người Do Thái
cho rằng những người mắc bệnh phong cùi là những người
bị Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại trừ. Họ bị liệt vào
thành phần tội lỗi và không được tham dự bất cứ nghi lễ gì
trong các hội đường. Họ phải sống xa xã hội và sống thành
từng nhóm nơi các mồ mả,nơi thâm sâu cùng cốc. Họ phải
la lên “nhơ bẩn, nhơ bẩn “ để mọi người nghe mà tránh xa.
Do đó, chúng ta thấy hoàn cảnh của một người bị bệnh
phong hủi hôm nay trong Tin Mừng của thánh Marcô. Vâng,
người bị bệnh phong cùi trong Tin Mừng hôm nay có tư
cách khá đặc biệt. Anh không mặc cảm, không la to như
mọi khi, nhưng anh tự ý đến gặp Chúa Giêsu, và khi đến
trước mặt Ngài, anh ta quỳ xuống van xin rằng :” Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ ( Mc 1, 40 ). Anh
cùi nại vào lòng thương xót của Chúa. Anh ta không dám
xin, nhưng để quyền tự do của Chúa, chữa hay không chữa
tùy ý Ngài…Anh phó thác hoàn toàn vào Chúa. Anh tin
tưởng và hết sức muốn Chúa chữa bệnh cho anh. Nên,
chính sự đơn sơ, phó thác và tin mãnh liệt vào Chúa đã
khiến Chúa chạnh lòng thương, cứu vớt, chữa lành cho
anh. Lòng tin đã giúp anh :” Tôi muốn, anh sạch đi “ ( Mc
1,42 ). Phép Chúa Giêsu làm cho anh phong cùi phát xuất
từ lòng tin của anh và từ quyền năng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã chạm vào người phong, một cử chỉ không
được phép vì phạm luật. Nhưng Chúa vẫn làm bất chấp
luật lệ Do Thái. Chúa Giêsu muốn đánh đổ những lệch lạc
của người Do Thái liên quan đến lề luật. Chúa đặt tay trên
người cùi khiến họ được tiếp xúc với Con- Người- Chúa-
của- Chúa, nhờ đó con người được lãnh nhận ân sủng từ
nơi Người. Do đó, bệnh phong biến mất và anh ta được
lành sạch.
Người phong cùi trong lúc thất vọng vì mang một căn bệnh
quái ác, nan y, trong khi anh bị xã hội khinh chê, loại trừ và 45
ghép vào loại tội lỗi công khai. Anh đã tin tưởng, phó thác
nơi Chúa, nên anh đã được Chúa yêu thương, cứu chữa.
Chúa Giêsu vừa tự do với lề luật, vừa lệ thuộc lề luật. Ngài
bảo người phong cùi được lành sạch đi trình diện tư tế và
dâng của lễ theo luật Môsê. Người phong cùi giờ đây được
tự do hoàn toàn, anh được nhập với xã hội đời thường,
được chung sống với cộng đoàn và được hiệp thông với
Thiên Chúa. Anh được trả lại phẩm giá con người, phẩm
giá anh bị mất khi anh bị mang căn bệnh nan y này. Giờ
anh được tự do và được vui sống. Anh mang theo mình
một niềm vui khôn tả. Anh đi loan báo khắp nơi về một
Đấng đã chữa lành anh là Đức Giêsu. Anh phong cùi được
lành sạch đã có thể vào thành tự do, còn Đức Giêsu thì
phải ở ngoài thành và đi vào nơi hoang vắng.
Bệnh phong ngày nay không còn là bệnh nan y, bất trị nữa
vì y học đã tìm ra vi trùng Hansen. Nhưng những người bị
bệnh phong cùi được điều trị khỏi bệnh nhưng hòa nhập tự
nhiên vào xã hội bình thường như mọi người vẫn là chuyện
khó. Ở đời, còn có nhiều loại bệnh, nhiều loại người chúng
ta vẫn khó tới gần hay họ cũng rất khó tới với chúng ta
được. Chúng ta hãy có lòng nhân từ như Chúa bởi vì
chúng ta không bị bệnh phong nhưng một cách nào đó tội
lỗi vẫn làm cho chúng ta giống như một loại bệnh cùi khiến
chúng ta xa cách Chúa và con người.
Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng
con vững mạng đón nhận anh em chúng con dẫu họ có bị
bệnh nan y trong cuộc đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Bệnh phong cùi đối với xã hội Do Thái xưa như thế
nào? 46
2. Người mắc bệnh phong cùi phải làm gì khi di chuyển?
3. Người phong cùi phải sống làm sao?
4. Luật Lê Vi qui định thế nào về bệnh phong cùi?
5. Ai đã tìm ra vi trùng phong cùi?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
HỦI NGOÀI DA, HỦI TÂM HỒN
Lm. Anmai, CSsR
"Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò" (thơ Hàn Mạc Tử)
"Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
Lầu ông Hoàng đó thuở nào trăng Hàn Mặc Tử đã qua Ánh trăng treo
nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng Tiếng chim kêu đau
thương, như nức nở dưới trời sương Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ
bước chân người tìm về giữa đêm buồn
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến Tình yêu vừa
chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân Tiếc thay cho thân
trai, một nửa đời chưa qua hết Trách thay cho tơ duyên chưa thắm
nồng đã vội tan Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tang
thương, mà khổ đau niềm riêng. Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân
nơi nhà hoang
Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi Tình đã lỡ
xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi Còn gì nữa thân tàn xin để một
mình mình đơn côi. Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân
chàng đến Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết
hoa Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ Khóc thương
thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia Trơì đất như điên cuồng khi
hồn phách vút lên cao Mặc Tử nay còn đâu? Trăng vàng ngọc, trăng
ân tình chưa phỉ Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi chăng..."
Đó là bài ca về thi nhân Hàn Mạc Tử, do nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh sáng tác do nguồn cảm hứng từ những áng thơ bất
hủ và chuyện tình thương tâm của nhà thơ nàỵ.
Ít nhiều gì chúng ta hơn một lần nghe nói về chàng thi sĩ tài
hoa vắn số này. Thơ của chàng rất hay nhưng cung mệnh
đời của chàng quá vắn. Chàng nằm xuống để rồi không biết
bao nhiêu người đã nuối tiếc cho con người “tài hoa bạc
mệnh này”.
Hàn Mặc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo
một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà
thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục
đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ
trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam . Thơ của Hàn Mạc Tử
là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn
thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa
một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ.
Bài Thánh Nữ Đồng trinh trứ danh của Hàn Mạc Tử đã diễn
đạt lại ý tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công
giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:
… Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giầu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng hai hàng lệ
…Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm .
Nhà thơ Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, cũng
như không biết bao nhiêu người mang trong mình chứng
bệnh phong khắc nghiệt này rất đau khổ. Chưa nói đến
chuyện người ta phải cách ly, thì những người bệnh phong
này phải tự tìm cách cách ly với những người lành sạch.
Nguyễn Trọng Trí chưa cần đợi người ta xua đuổi, cách ly,
đã tìm đến ngôi nhà hoang để dấu mình trong những ngày
cuối đời khi mang trong mình chứng bệnh quái ác này. 48
Hàn Mặc Tử, cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo
phi thường là đau khổ không dìm sâu họ xuống bùn đen mà
đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế
Ở Hàn Mặc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn thì
thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp
vào trí tưởng của thi nhân.
Hàn Mặc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đã tự ví
mình: khi xưa ta là chim phượng hoàng, Vỗ cánh bay chín
tầng trời cao ngất"; ý tứ mình "cao cường hơn ngọn núi";
hồn mình "chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây"
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, ai trong chúng ta cũng
biết tác hại của bệnh phong là như thế nào. Chẳng ai trong
chúng ta muốn cho mình bị chứng bệnh ấy. Những bệnh
nhân phong rất tội nghiệp, chân tay của họ không lành lặn
như những người bình thường. Họ làm việc gì cũng khó cả
vì chân tay của họ cứ teo dần teo dần. Nghiệt một cái là
bệnh phong thuộc dạng lây lan để rồi từ ngàn xưa người ta
vẫn thường kỳ thị những ai mang chứng bệnh này. Người
ta sợ đến độ phải cách ly những ai mang bệnh phong để
giữ gìn cho những người sạch không nhiễm bệnh.
Phải đọc kỹ đoạn sách Lê-vi nói về bệnh phong chúng ta sẽ
rõ quy định như thế nào về những người bệnh phong.
Môsê và Aharon được Đức Chúa phán rất rõ ràng về
chứng bệnh này. Có hai loại phong: phong hủi và phong hủi
kinh niên.
Người bệnh phong hủi là: “Khi trên da thịt người nào phát
ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương
phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-haron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương 49
đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào
da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế
sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Nếu là đốm trắng trên da thịt,
mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang
màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong
vòng bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu
chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan
ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày
nữa. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết
thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên
bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra
thanh sạch. Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người
ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì
nó phải được tư tế tái khám. Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan
ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh
phong hủi.” (Lv 13, 2-8).
Còn người bị phong hủi kinh niên là: “Khi trên người nào có
vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. Tư tế
sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho
lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm
sùi ra, thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế
sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô
uế. Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất
cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu
mắt tư tế nhìn thấy, thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ
tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch:
nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. Nhưng
ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô
uế; tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy
là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi. Hoặc khi
thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư
tế; tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu
trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy
thanh sạch.” (Lv 13, 9-17).
Sách Lê-vi quy định rất rõ ràng về người nào mắc chứng
bệnh này cũng như quy định khi nào người mắc bệnh này
được lành sạch.
Ngày hôm nay, khoa học tiến bộ nên số người bị phong cùi
đã giảm hẳn vì người ta đã tìm cách khống chế căn bệnh
mang tính di truyền này. Thế nhưng, chưa phải căn bệnh
này đã chấm dứt. Đâu đó vẫn còn những trại phong quy tụ
bệnh nhân lại để nuôi dưỡng, để chăm sóc, để nâng đỡ họ
trong những ngày cuối đời. Chúng ta vẫn nghe đâu đó
những trại phong Quả Cảm, Thanh Bình, Bến Sắn, Phước
Tân, … Ai nào đó một lần đến và tiếp xúc trực tiếp với
người bị bệnh phong cùi sẽ thấy họ thiệt thòi, họ đau khổ
như thế nào.
Bệnh nào cũng vậy chứ không riêng gì bệnh phong cùi. Ai
đã mang trong mình mầm bệnh thì đều mong được chữa
lành. Với người bệnh cùi, được chữa lành quả là điều vô
cùng hạnh phúc vì họ được hội nhập với cộng đồng, không
còn bị cách ly, không còn bị miệt thị, không còn bị phân biệt
đối xử nữa.
Người hạnh phúc mà chúng ta vừa được nghe thánh
Máccô thuật lại trong trang Tin mừng hôm nay đó không ai
khác là anh chàng bị phong hủi. Anh ta nghe tiếng tăm đồn
đãi về Chúa Giêsu và tìm đến với Chúa Giêsu để xin Ngài
chữa cho anh được lành bệnh. Anh tin vào Chúa Giêsu và
anh lành bệnh. Chúa cũng truyền cho anh đi trình diện cho
các vị tư tế theo luật Môsê truyền dạy.
Quan niệm của người Do Thái rất buồn cười, cách riêng là 51
những người Biệt Phái và Pharisêu. Họ cho rằng tất cả
những ai bệnh hoạn tật nguyền là do người đó phạm tội
nên bị trừng phạt. Họ không cho những người bệnh hoạn
tật nguyền là những người kém may mắn hơn họ nhưng họ
kết luận rằng vì những người đó phạm tội trong tâm hồn
nên mới bị bệnh như vậy. Chẳng hiểu họ dựa vào đâu,
chứng cứ nào để kết luận điều ấy.
Chúng ta còn nhớ cái anh què được Chúa chữa lành vác
chõng mà về. Với người Do Thái, anh què chính là do tội lỗi
của anh chứ người ta không công nhận đó là những khiếm
khuyết về thể xác của con người.
Những người Do Thái trong đó có Pharisêu, Biệt Phái và cả
chúng ta nữa, đều có cái nhìn, quan niệm khác với Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu nhìn bên trong tâm hồn còn chúng ta,
chúng ta vẫn mang trong mình thói quen nhìn bề ngoài.
Thật ra, bệnh ngoài da cũng sợ nhưng sợ hơn là bệnh
trong tâm hồn. Có những người bề ngoài trông rất sạch sẽ,
thơm tho nhưng bên trong lại quá ư là phong hủi. Mà cũng
lạ ! Những người mang chứng phong trong tâm hồn thì lại
sơn phết cho mình cái mã bên ngoài cực kỳ đẹp. Chúng ta
còn nhớ, hơn một lần Chúa nói với Pharisêu và Biệt Phái là
“Đồ thứ mồ mả tô vôi ! Bên ngoài trông đẹp nhưng bên
trong là một dúm xương khô !”.
Thế đấy ! Nhiều người bên trong mang chứng bệnh phong
hủi kinh khủng nhưng bên ngoài vẫn cố che đậy và đi khinh
chê những người bệnh ngoài da.
Như Hàn Mạc Tử, anh mang trong mình chứng bệnh phong
hủi, chứ tâm hồn anh quá đẹp, qúa thơ mộng. Anh đã để lại
cho đời nhiều bài thơ bất hủ. Hàn Mạc Tử chắc có lẽ là
người con yêu của Đức Mẹ nên Hàn Mạc Tử có những bài
thơ về Đức Mẹ thật tuyệt vời. Bề ngoài thì anh bệnh nhưng
trong tâm của anh thật sạch.
Chuyện cần, đó là chữa tâm hồn, chữa lòng mình cho sạch
chứ không phải là chuyện bên ngoài. Chưa chắc bệnh
ngoài da là xấu, bệnh trong lòng xấu mới là điều đáng sợ.
Đừng đánh giá bề ngoài vì bề ngoài đôi khi là bóng bẩy
nhưng bên trong thối hoắc. Đôi khi bên ngoài nó sần sùi,
nham nhám chút nhưng bên trong cả là một tâm hồn cao
thượng, một tâm hồn trong sạch. Những người phong cùi
bề ngoài đấy nhưng trong lòng họ còn sạch hơn những
người sạch bên ngoài mà bên trong thì hôi thối.
Hôm nay, Chúa chữa chàng thanh niên bị phung hủi nghĩa
là Chúa đã giải thoát được cho anh cả chứng bệnh ngoài
da và chứng bệnh tâm hồn vì như đã nói người Do Thái
cho rằng anh bệnh hoạn tâm hồn nên anh mới bị ngoài da.
Chúng ta, may mắn hơn anh ta là chúng ta không bị phong
hủi ngoài da, nhưng chắc hẳn trong tâm hồn mỗi người
chúng ta còn lợn cợn điều gì đó trong tâm hồn và chúng ta
chạy đến Chúa để xin Chúa chữa cho chúng ta những cái
lợn cợn trong tâm hồn để tâm hồn để chúng ta được thanh
sạch hơn, được thơm tho hơn để đón mời Chúa đến và
ngự lại trong lòng chúng ta.
Lm. Anmai, CSsR
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN B
Lm. Ignatio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay cùng có chung một chủ đề:
quan niệm về sự thanh sạch và sự ô uế.
Lv 13: 1-2, 45-46
Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy rằng bệnh phong hủi làm cho con người
trở nên ô uế trầm trọng. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác
nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên.
Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.
1Cr 10: 31-11: 1
Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ
cho thấy làm thế nào sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề
thanh sạch và ô uế về những lệnh cấm thức ăn, thức uống. Bởi lẽ Chúa
Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.
Mc 1: 40-45
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su không ngại chạm đến người
phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử theo cùng một cách như
vậy đối với những tội nhân. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi. 60
BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 45-46).
Sách Lê-vi là một trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ
Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư. Bộ Ngũ Thư cấu tạo nên
Luật và theo truyền thống, nguồn gợi hứng của chúng lên
đến tận ông Mô-sê.
Sách nầy là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì
những tư tế đều phải thuộc bộ tộc Lê-vi. Xưa kia, con cái
lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau,
sau nầy, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục
vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia
giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy
lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, được gọi các thầy
trợ tế lê-vi như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sama-ri tốt lành (Lc 10: 31-32).
1. Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:
Bộ luật tư tế nầy dâng hiến một chương dài cho “luật thanh
sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng bệnh
phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là
những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố,
làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai.
Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp
xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới,
đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!”
để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.
2. Nỗi khốn cùng về phương diện tâm linh:
Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn
giáo xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẽ với ý tưởng
thánh thiêng. Ở Ít-ra-en, cộng đoàn cốt yếu là một cộng
đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế61
không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng
vụ.
Bệnh phong hủi gợi ra không chỉ sự ghê tởm về mặt thể lý;
một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là
dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong
hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ
có những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy luật
đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có
những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy
đến với thầy tư tế”.
Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, là “đồ bỏ đi”, là
“kẻ bị khai trừ”, là người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai
thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, Người Tôi Trung
của Đức Chúa được mô tả như một người phong hủi, vì
Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người: “Người bị người
đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm
mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không
nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53: 3).
Đó là thân phận bi thương của những người phong hủi
được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn
không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da
thịt mình, nhưng cả về mặt tinh thần: vì là chứng bệnh
truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; và vì là tội
lỗi, họ bị loại trừ ra khỏi đời sống phụng vụ và không được
hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)
Đoạn trích Thánh Phao-lô nầy làm chứng một cuộc cách
mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân
từ Do thái giáo rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa
thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn 62
Thiên Chúa, dù ăn hay uống bất cứ điều gì. Vả lại, không
có bất kỳ hành động vô tình nào. Tất cả những gì chúng ta
làm là để tôn vinh Thiên Chúa.
1. Quy luật về thức ăn thức uống:
Sách Lê-vi trình bày nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân
Chúa chọn phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những
người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không
còn bận lòng về vấn đề nầy nữa. Tuy nhiên có một vấn đề
khác được đặt ra cho họ nhưng cũng cho những người Kitô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt cúng mà lương dân dùng để dâng cúng các thần linh của họ
không?
2. Giải pháp của thánh Phao-lô:
Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời
cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi
sáng.
“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật,
người Ki tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn và
thức uống nào, nên họ có thể gây nên gương xấu. Vì thế,
cần phải thận trọng trong khi ăn trong khi uống.
Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này,
chúng ta biết rằng thánh nhân thường có thói quen đẩy
cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những bận lòng.
Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư
tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì
Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ,
nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).
Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh
nhân triển khai lời dạy của mình một cách tinh tế như sau: 63
nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả
những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề
lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em:
“Đây là của cúng” thì anh em đừng ăn, để tránh gây gương
xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối
với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng
đừng gây gương xấu cho người ấy.
Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với một
bận lòng duy nhất, đó là “cứu độ tha nhân”. Đây là luật
vàng của Đức Ái.
TIN MỪNG (Mc 1: 40-45).
Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ của Đức Giê-
su ở Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” đi kèm theo,
đặc biệt việc chữa lành bệnh tật. Trong đoạn văn nầy, Chúa
Giê-su chữa lành một người phong hủi.
Bài đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương
mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong
đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật
vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người
phong hủi bày tỏ tấm lòng nhạy bén của Ngài, đồng thời
quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.
1. Vượt qua Lề Luật:
Trước một con người bị xem là đồ ô uế và bị cách ly
khỏi đám đông, không ai dám đến gần, Đức Giê-su đã
“động lòng thương”, một diễn ngữ Tân Ước được dùng để
diễn tả sự đồng cảm sâu sắc dâng lên tận đáy lòng đến nỗi
Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn được.
Vả lại, nhiều lần Ngài để lộ nỗi bận lòng của Ngài đối với
những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi 64
như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với
những người được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các
ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt
thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người
phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn
đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương
trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước
Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu,
làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch
bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành
một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).
Đức Giê-su không ngại đi ngược lại tập tục và quy chế lề
luật về người phong hủi bị cách ly khỏi đời sống xã hội
và đời sống tâm linh: Ngài giơ tay chạm đến người phong
hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra rằng điều làm
cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài nhưng từ
những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới
thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).
2. Tuân thủ Lề Luật:
Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ
Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì
anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê
đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ
vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống
cộng đoàn khi chứng thực rằng anh ta khỏi bệnh và đã chu
toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định.
Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo nghiêm khắc: “Coi
chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta gặp lại ở nơi
Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự
cuồng nhiệt của đám đông làm tổn hại đến sứ mạng của
Ngài. Tuy nhiên, người phong hủi đã không tuân giữ lệnh 65
im lặng nầy nên “Đức Giê-su không thể công khai vào
thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài
thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế được niềm vui
tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?
3. Bệnh phong hủi của tâm hồn:
Quả thật, Đức Giê-su cư xử người phong hủi đáng
thương này như thế nào, thì Ngài cũng cư xử những người
tội lỗi khác cũng như vậy. Ngài không ngại tiếp xúc họ.
Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ
tai tiếng chạm đến mình, và thậm chí Ngài còn đồng bàn
với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi. Như vậy,
Ngài muốn bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội
lỗi của chúng ta. Ngài không muốn khai trừ chúng ta,
nhưng ngược lại là đàng khác khi Ngài công bố: “Người
khẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”
(Mt 9: 12; Mc 2: 17).
Chỉ qua nhân tính của Đức Giê-su, tội nhân mới có thể tiếp
xúc với Thiên Chúa.
Lm. Ignatio Hồ Thông
LOẠI TRỪ VÀ NÂNG ĐỞ
Học Viện Đaminh
“Ngày 28.9.2011, hàng trăm người dân thuộc khu tái định
cư Kho Lào (Hòa Hiệp 3, tổ 14, phường Hòa Hiệp Nam ,
quận Liên Chiểu, Đà Nẵng) đã kéo nhau đến đập phá, ngăn
chặn không cho thi công nhà ở cho 134 hộ dân làng Vân
(còn gọi là làng phong) ở khu tái định cư kề bên. Theo
những người dân này, họ sợ những người vốn là dân làng
phong kia sẽ lây bệnh cho họ”.
Đọc mẩu tin này, nhiều người trong chúng ta sẽ chua chát
nói rằng, sao những người dân Hoà Hiệp ấy lại cư xử như
vậy? Họ chẳng biết là bệnh phong khó lây lắm sao? Dù ta
nghĩ thế nào, sự kiện ấy đã diễn ra, chúng càng cho thấy
nỗi khổ mà bệnh nhân phong gánh chịu. Nhìn sâu hơn,
trong cái nhìn đức tin, ta nhận ra sự phân biệt đối xử cách
ngây ngô vẫn còn đó trong đời sống của người tín hữu.
Sạch – dơ
Trong sách Lêvi, ta nhìn thấy ý tưởng chủ đạo nổi bật đó là
sự phân biệt “sạch – dơ”. Ở đấy người ta được dạy cho
biết những gì thuộc về “sạch”, những gì bị cho là “dơ”. Tất
cả những tiểu tiết quy định ngặt nghèo đều được kể. Phân
tích chúng, các nhà nghiên cứu Kinh thánh cho rằng đó là 69
điều cần thiết cho bước đầu mặc khải đến với con người.
Rằng con người phải chuẩn bị ra sao để được kể vào số
dân Chúa chọn, được kể là tinh tuyền trước nhan Đức
Chúa.
Nhưng điều nghịch lý là càng về sau, người ta lại càng chú
trọng đến hình thức bên ngoài, quên đi ý nghĩa của những
hành vi thanh tẩy, giới hạn giữa sạch và dơ. Khi chú trọng
đến hình thức, người ta sẽ dễ quên mất tâm tình, nội dung
bên trong. Người ta quên rằng chính cái bên trong, xuất
phát nơi tâm hồn con người mới là điều Thiên Chúa hướng
tới khi mặc khải những giới luật Sạch – Dơ. Việc đụng
chạm và chữa lành cho người bệnh phong hôm nay của
Đức Giêsu là một lời khẳng định cho ngầm ý đó.
Chữa lành
Đức Giêsu đã chạm đến và chữa lành người bệnh phong.
Việc giơ tay đụng đến cho thấy Người đã phá bỏ rào cản
ngăn cách giữa Sạch và Dơ ở hình thức bên ngoài. Song
song đó, hành động khác lạ của Người cũng mời gọi ta
nhìn vào sự Sạch – Dơ bên trong. Chính tội lỗi mới là sự
nhơ bẩn ngăn cản người ta đến với Chúa chứ không phải
là sự ố tạp bên ngoài. Như thế, tội lỗi là điều khiến ta nhơ
uế gấp ngàn lần trước mặt Chúa, hơn những gì là khiếm
khuyết bên ngoài. Tự thân mình, ta chỉ có thể tẩy sạch bùn
đất lấm lem chân tay chứ không thể tự mình tẩy xoá, làm
cho tâm hồn nên tinh trắng. Và Đức Kitô cần ta ý thức về
tình trạng tội lỗi và dâng lời cầu xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho con được sạch”. Tất cả những ai khi thành
tâm đến với Chúa bằng thái độ khiêm cung, đều được chữa
lành.
Rất nhiều khi trong cộng đoàn, chúng ta loại trừ, phân biệt
đối xử với nhau bằng những ý niệm Sạch – Dơ do ý thức 70
hệ hay xã hội quy định. Thường chúng chỉ hệ tại vào những
yếu tố bên ngoài như: sang – hèn; giỏi – dở; đẹp – xấu;
giàu – nghèo… Những phân biệt đó khiến chúng ta không
thể đến với người khác, không thể chấp nhận những khiếm
khuyết của người chung quanh. Bài Tin Mừng hôm nay đã
cho chúng ta thấy, quyền phán xét và chữa lành thuộc về
Thiên Chúa. Phần mình, ta chỉ góp tay vào việc chữa lành
của Chúa bằng cách nâng đỡ những người thua thiệt, sa
ngã ở chung quanh. Rất nhiều khi, chỉ một hành vi bác ái
của mình, ta sẽ khiến người khác nhận thấy Chúa vẫn đang
ở bên. Hành động đó của ta không phải là sự đồng loã với
cái ác, với tội lỗi. Nhưng đó là sự ý thức về thiếu sót của
mình. Vì “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin
vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không
có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích
của mình” (Rm 15,1). Xa hơn, đó là hành vi của những
người thống hối, đứng trong hàng ngũ những kẻ luôn kêu
cầu lòng thương xót của Chúa chúng ta.
Gợi ý chia sẻ
Bạn có kinh nghiệm nào về sự loại trừ? Làm sao bạn có thể
vượt qua được? Sự nâng đỡ của những người chung
quanh có ý nghĩa nào? Hãy chia sẻ kinh nghiệm đó.
Học Viện Đaminh
NHỮNG TÔNG ĐỒ NGƯỜI PHONG CÙI
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y bị mọi người kinh
tởm xa lánh như bệnh siđa ngày nay vậy. Trong Đạo Do
Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ
không được sống chung với thân nhân trong xóm làng,
nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi
hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu 71
phải kêu lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà tránh xa.
Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng
chạm vào người bệnh phong bị coi như người mắc tội rất
nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người
bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân
xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nổi đau, nỗi nhục
trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại
trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm
không được tôn trọng, họ sống mà coi như đã chết. Nhưng
chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những
nổi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm thiêu đốt.
Chúa Giêsu đã vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám
đến gần người bệnh phong. Và Người còn đưa tay chạm
vào thân mình lỡ loét ấy. Lòng thương yêu đã khiến Chúa
Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu
đã bất chấp những điều được coi là cấm kỵ của Đạo Do
Thái. Khi chữa khỏi bệnh phong, Chúa Giêsu giải thoát
người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh
không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở
nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn
mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thao tao. Anh là một con
người như bao con người khác.
Điều quan trọng hơn, đó la khi chữa anh khỏi bệnh nan y,
đồng thời Chúa Giêsu cũng giải phóng anh khỏi những mặc
cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi chạm
đến thân thể anh thì Người cũng chạm đến tâm hồn anh.
Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh, nay qua
Chúa Giêsu anh cảm thấy mọi người gần gũi thân thương.
Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt, nay anh cảm thấy
được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi, nay dưới
bàn tay dịu hiền của Chúa Giêsu anh cảm thấy đựoc yêu 72
thương vỗ về. Nhữg vết thương trong tâm hồn nay đã lành
lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời
sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với Thầy Cả
theo luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã
hội, nay anh đựoc bàn tay âu yếm ân cần của Chúa đón
nhận anh trở lại với xã hội loài người. Qua vị thượng tế anh
được công khai đón nhận. Nhân phẩm được phục hồi,
danh dự được tôn trọng. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống
giữa mọi người như mọi người.
Chúa Giêsu đã chữa lành thể xác và tâm hồn của người
bệnh phong. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ của anh đã
chạm đến lòng lòng thương xót của Chúa. Phép lạ phát
sinh từ lòng tin của bệnh nhân và từ ý muốn đầy quyền
năng của Chúa Giêsu.
Có một môn đệ theo gương Thầy Chí thánh đã đến ở giữa
người cùi, cùng sống và đã chết giữa họ. Đó là Cha
Đamiên mà Đức Hồng Y FX.Nguyễn Văn Thuận đã kể
trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy
vọng”. Vị Tông đồ người hủi ấy đã được Giáo hội phong
thánh.
Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người hủi: cụt
tay, đứt chân, mắt đui, môi lở, răng rụng...
Một hôm, Đức Giám Mục đặc trách quần đảo này gióng
tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh
sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh,
khoẻ mạnh hăng hái đáp lời. Đó là Cha Đamiên, người về
sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ người hủi”.
Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ ở đảo Molokai đông nghẹt
những người hủi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc,
Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu
với giáo dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước
có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Đamien,
một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay
cho đến chết. Các con có sung sướng không?”
Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng
cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tý nào. Rồi họ từ từ tiến
lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đamiên
càng nhìn thấy họ đến gần mình thì càng sởn tóc gáy. Họ
trông như những thây ma còn sống, như những quái thai
mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha
sờ vào mặt, vào tay, vào áo Cha... Cha hỏi Đức Giám Mục:
“Thưa Đức Cha, họ làm gì thế? Họ nói gì thế?” Đức Cha trả
lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở
phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ,
đẹp trai, không bệnh tật như Cha, tự nhiên lại đến phục vụ
họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin mắt mình
nên mới đến sờ mó vào người Cha, xem thử Cha có thực
sự bị phung hủi như họ không. Rồi họ nói với nhau:
”Không, Cha đẹp quá !”
Dần dần, Cha Đamiên hoà đồng được với họ. Ngài không
còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn,
ngài quá yêu Chúa Giê-su bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn
thấy e sợ, gớm ghiếc chi.
Một ngày kia, đến lượt Cha cũng bị mắc bệnh phong hủi.
Thân hình Cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày Cha sù sì, đen
đủi, u nần trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình Cha
Đamiên để mô tả sự hy sinh vĩ đại của Cha. Bà cụ thân 74
sinh của Cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình
cũng chẳng nhận ra nổi người con yêu. Bà hỏi các con
trong gia đình: “Hình ai đây mà trông mà trông ghê sợ
vậy?” Các con đều trả lời mẹ: Thưa mẹ, đó là một trong
những người hủi trên đảo Molokai của anh Đamiên đấy”.
Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai
bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ... Cha Đamiên đã sống với
người hủi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp Cha hy sinh
suốt đời vì họ.
Ở Việt Nam có hai trại cùi lớn: trại Di Linh trên đường lên
Đà Lạt và trại Quy Hoà ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn. Đức
Cha Gio-an Cassaigne đã gắn bó với anh em dân tộc K’Hor
ở Di Linh bị phong cùi một thời gian dài, rồi sau 15 năm làm
Tổng Giám Mục Sài-gòn, đã lại xin tình nguyện quay trở về
sống giữa những người bệnh cùi ở Di Linh. Ngài sống với
họ thêm 18 năm rồi lây bệnh và qua đời năm 1973. Trái tim
của người Việt Nam và cả thế giới đều rung cảm, ai cũng
cảm phục tấm gương chứng nhân của ngài.
Cha Phao-lô Mahu, một Linh Mục người Pháp đã từ giã
quê hương với cuộc sống tiện nghi đến sống giữa những
người cùi ở Quy Hoà cho đến chết. Xác ngài được chôn cất
ngay giữa làng cùi bên cạnh những người ngài thương yêu
nhất.
Ngày nay các Giáo Xứ khắp nơi gần xa thường tổ chức
hành hương đến Di Linh, Quy Hoà để viếng mộ Đức Cha
Cassaigne và Cha Mahu, thăm viếng và tặng quà cho các
bệnh nhân.
Các Nữ Tu của các Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn và Phansinh Thừa Sai Đức Mẹ đã đến sống phục vụ giữa những người bị xã hội xa lánh loại trừ. Chính tình yêu Chúa Ki-tô 75
đã thúc đẩy các môn đệ đến sống với họ, yêu mến họ,
chăm sóc phục vụ họ... Chúa đã sờ đến người cùi và họ
liền được lành sạch. Các môn đệ của Chúa cũng sờ vào
người cùi, sống với người cùi đem lại cho họ tình thương,
bình an và niềm vui.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
BỆNH NGUY HIỂM
Gm. JB. Bùi Tuần
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong
cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Thánh của tôi thực vất
vả. Có thể ví cuộc đời ấy như một chuyến đi đầy trắc trở.
Nhưng những gian nan trắc trở đó đã được vượt qua. Hơn
thế nữa, đức tin được tôi luyện đã đào tạo nên nhiều con
người biết sống công bình bác ái. Nhờ đâu? Tất nhiên là
nhờ ơn Chúa. Nhưng chắc chắn cũng nhờ nhiều tín hữu,
nhất là nhiều vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đã biết
khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Các vị đã cùng nhau tiến
lên trong mọi chặng đường lịch sử khác nhau với tâm hồn
sáng suốt.
Bây giờ, Ðạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử:
Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo.
Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa
già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một
cảnh báo. Ðó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy
hiểm cho Ðạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong
thời cạnh tranh giữa các giá trị.
Chứng bệnh đó là bệnh mù quáng. Mù quáng trong sống
đạo được Kinh Thánh đề cập đến nhiều cách. Ở đây tôi chỉ
nêu lên bốn dạng mù quáng dễ gặp thấy.
1/ Mù quáng, vì không nhận ra cái chính, cái phụ
Chúa Giêsu có lúc đã đau buồn phải nói sự thực với các
kinh sư và Pharisêu: “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn
đường mù quáng... Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc
hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất
trong Lề luật là công bình, lòng thương xót và sự thành
tín... Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng. Các ngươi lọc
con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,23-24).
Những lời Chúa Giêsu phiền trách trên đây xem ra đang
ứng nghiệm ở nơi này nơi nọ. Tình hình đạo ở những chỗ
đó được tiếng là thêm mở mang, thêm hoạt động, thêm luật
lệ. Nhưng lòng đạo thực ra chỉ được xây dựng bằng những
giá trị phụ.Người ta gọi đạo kiểu đó là đạo hình thức, đạo
gánh nặng, đạo bề ngoài, đạo phong trào. Nhưng không
thiếu người tự mãn với lối sống đạo như thế. Chúa thì dứt
khoát không hài lòng. Người gọi những người giữ đạo kiểu
đó là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy
hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con
người vào ẩn trú trong đó. Hơn nữa, nó càng nguy hiểm,
khi lôi kéo, thậm chí ép buộc nhiều người khác đi vào não
trạng sai lạc về đạo, bám vào một nếp sống đạo dễ dàng
biến chất. Hy vọng cảnh đó sẽ không nhiều tại Việt Nam .
2/ Mù quáng, vì không nhận ra đoàn lũ quỷ dữ rình rập
mình thường xuyên.
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô gởi các giáo đoàn,
Ngài đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì quỷ
dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh
tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).
Danh từ quỷ dữ mà thánh Phêrô dùng ở đây không những
chỉ đích danh các tướng quỷ và thuộc hạ ác ôn vô hình luôn
rảo quanh chúng ta, mà cũng ám chỉ các lực lượng xấu
hữu hình xung quanh ta. Ðó là những thứ văn hoá đồi truỵ,
những phong trào gây hận thù chia rẽ, những nhóm đầu tư
đủ loại mưu mô quỷ quyệt, những lối sống kích thích huỷ
hoại luân lý, những định kiến hẹp hòi, kiêu căng.
Thánh tông đồ Phêrô nói rõ với tín hữu là chỉ với tiết độ và
tỉnh thức, người ta mới nhận diện được mặt thực của quỷ
dữ và mới đối phó được với chúng một cách có hiệu quả.
Nhưng thực tế nhiều nơi cho thấy sự tiết độ và tỉnh thức có
vẻ như đang bị lơ là. Do đó mà không ít người trở nên dần
dần mù quáng. Họ không những không nhận ra đoàn lũ các
loại quỷ dữ đang hoạt động ráo riết xung quanh mình, mà
còn nhởn nhơ hoà nhập và tích cực cộng tác vào những cái
xấu của chúng.
3/ Mù quáng, vì không biết nhận xét thời đại mình sống
Chúa Giêsu có lần đã cảnh báo nặng lời: “Những kẻ đạo
đức giả kia, cảnh sắc trời đất, thì các ngươi biết nhận xét,
còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét?
Sao các ngươi không tự mình xét xem cái gì là phải” (Lc
12,56-57).
Lời Chúa phán trên đây, nếu áp dụng vào nhiều người có
đạo thời nay, thì thiết tưởng không sai. Bởi vì theo các nơi
hành hương và huấn giáo, thì thời nay có hai việc Chúa
muốn ta làm:
- Việc thứ nhất là sám hối, đền tội, đổi mới bản thân ta.
- Việc thứ hai là tin vào Thiên Chúa giàu tình yêu
thương xót và hãy đến với Người bằng những việc ta
xót thương người khác, như Chúa thương xót ta.
Thế nhưng, cách sống của bao người tín hữu hôm nay tỏ
ra mình chưa nhìn thấy rõ bao con đường Chúa đang đợi
họ trong thời đại này.
4/ Mù quáng, vì không nhận ra Chúa đến và ở giữa lịch
sử nhân loại
Phúc Âm thánh Gioan viết: “Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế
gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận
biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà
chẳng chịu đón Người” (Ga 1,10-11).
Ðọc mấy dòng trên, chúng ta cảm thấy buồn. Người nhà
của Chúa là chính những người công giáo chúng ta. Nhưng
biết đâu biết bao lần Chúa đến với ta, mà ta không đón
nhận Người. Người đến qua Kinh Thánh, qua các bí tích,
qua Hội Thánh. Ngoài ra, Người cũng đến qua nhiều ngả
khác, như qua các biến cố lịch sử, qua các thành công và
thất bại của ta, qua các nền văn hoá chất lượng, qua các
sách báo và gương sáng nhắc nhở của cá nhân và tập thể,
trong và ngoài Ðạo ta.
Nhưng, chúng ta nhiều khi tự mãn, không nhìn và không
muốn nhìn, cho nên kể như tự mình trở nên mù quáng. Mọi
thứ mù quáng đều đáng tiếc. Nhưng mù quáng không nhìn
nhận Chúa đến với ta, đó quả là một tai hoạ kinh khủng.
Kinh nghiệm tại nhiều nơi cho thấy: Ðạo Chúa thời khó thì
chất lượng phát triển. Ðạo Chúa thời dễ thì chất lượng suy
thoái.
Chúng ta cũng nên nhìn sự phát triển của các tôn giáo bạn
hiện nay trong nước ta và tại các nước xung quanh, nói
chung là tại Á châu. Tại nhiều nước Á châu, văn hoá dân 79
tộc là văn hoá một tôn giáo nào đó phủ kín khắp nước. Tất
nhiên văn hoá đó và tôn giáo đó không phải là công giáo.
Ai trong chúng ta cũng có nhiều giới hạn. Nên chúng ta rất
cần cầu nguyện.
Thiết tưởng vấn đề này nên được nhận thức sớm, với
những nghiên cứu mới, sáng kiến mới, dấn thân mới. Kẻo
sẽ quá muộn. Vì lịch sử đất nước, khu vực và thế giới,
đang chuyển biến rất mau, với những bất ngờ dễ sợ.
Gm. JB. Bùi Tuần
NGƯỜI TÀN TẬT DẠY CHÚNG TA HIỂU
TÌNH YÊU CỦA ƠN CỨU ĐỘ
Sr. Jean Berchemans Minh Nguyệt
Vừa hoàn tất chương trình nơi đại học Bangalore thuộc miền Nam Ấn
Độ, nữ bác sĩ Bibiana Mary nghĩ ngay đến việc dành thời gian ngắn
phục vụ các trẻ em nghèo tàn tật. Các em sống nơi một Trung Tâm do
các tu sĩ dòng thánh Luigi Orione (1872-1940) trông coi tại cứ điểm
truyền giáo Moltalban bên Phi-luật-tân.
Xin nhường lời cho nữ bác sĩ Bibiana Mary.
Tôi đang đi dọc theo hành lang và bước vào căn phòng thì
thấy Joey đang tiến về phía giường của Mark. Cậu thiếu
niên nâng bạn lên, thay quần áo để mặc cho bạn bộ đồng
phục rồi đặt bạn ngồi trên chiếc xe lăn. Joey cẩn thận kiểm
soát để bạn ngồi ngay ngắn, thắt dây an-toàn cho bạn rồi
đẩy xe lăn đi về phía phòng học. Nhìn thấy tôi, Joey nhoẻn
miệng cười thật tươi rồi vẫy tay nói với tôi:
- Chào tạm biệt bác sĩ nhé!
Điều tôi vừa kể cho quý vị nghe xem ra là những diễn tiến
bình thường. Nhưng đối với tôi, câu chuyện lại khác 80
thường, bởi vì nó thay đổi hoàn toàn não trạng và quan
niệm sống của tôi. Tôi tự nhủ:
- Nếu Joey - thiếu niên 15 tuổi - bị tàn tật tâm trí,
không biết nói năng đàng hoàng, lại có thể chăm sóc
kỹ lưỡng chu đáo Mark người bạn bị tê liệt, thì chúng
ta - những kẻ được xem là bình thường - lại không có
thể quan tâm săn sóc người khác sao???
Trên đây chỉ là một trong muôn vàn cử chỉ và hành động
đáng yêu mà tôi diễm phúc trông thấy tận mắt nơi Trung
Tâm ”Cottolengo Filippino”. Trung Tâm do các tu sĩ Don
Orione đảm trách dành cho 40 bạn trẻ bị tàn tật đủ loại:
hoặc tâm trí hoặc thể xác như tê liệt và chậm trí, điếc và
câm hoặc mù lòa. Tất cả đều là thanh thiếu niên nghèo
hoặc bị bỏ rơi.
Ngày đầu tiên đặt chân đến Trung Tâm tức khắc tôi được
mọi người nồng hậu tiếp đón, đặc biệt từ phía các bạn trẻ
tàn tật. Các em vây quanh tôi, nhoẻn miệng cười thật tươi,
giơ tay vuốt ve tôi thật trìu mến. Rồi các em chạy nhảy, vỗ
tay hò hét để báo cho mọi người biết là có một người khách
đến viếng thăm Trung Tâm. Rồi vỏn vẹn vài tuần lễ sau đó
tôi trở thành nữ bác sĩ thân thương của tất cả các em! Thật
tuyệt vời!
Thế nhưng không phải chỉ riêng tôi mà bất cứ vị khách nào
bước chân vào Trung Tâm cũng đều được các em tàn tật
đón tiếp niềm nở, theo một cung cách giản dị đơn sơ nhất.
Sự kiện này khiến cho khách lạ bỗng cảm thấy mình thuộc
về phần tử của gia đình trung tâm.
Điều gây ấn tượng và ngưỡng mộ nhất nơi tôi chính là:
mặc cho mọi mức độ tàn tật đôi khi thật trầm trọng, các
thiếu niên tàn tật mỗi ngày đương đầu với cuộc sống cách 81
thật can đảm. Các em không phải chỉ sống còn, nhưng thật
sự là các bậc anh hùng! Nhiều em bị bắt buộc nằm yên trên
giường, hít thở nhờ máy móc. Nhưng em nào cũng sống
tràn đầy cuộc sống của mình, dĩ nhiên là với sự trợ giúp
của nhiều người khác, đặc biệt là các ”nanai - mẹ nuôi”,
chăm sóc thương yêu các em như chính con ruột của các
bà!
Giống như các cánh hoa, mỗi đóa đều có hương thơm và
màu sắc riêng biệt thì các em tàn tật này cũng thế. Mỗi em
với nét tàn tật riêng vẫn ẩn chứa tài năng thật mênh mông
bất ngờ. Nếu được tập luyện và hướng dẫn các tài năng
phát triển tối đa. Chỉ cần nhìn các em nhảy múa, vẽ vời
hoặc nguyên sự kiện có thể tự túc trong việc ăn uống cũng
đủ thấy khả năng bao la của các em. Tôi xin giải thích. Đối
với chúng ta là người bình thường, thì tất cả các tác động
đều là chuyện dễ dàng. Trong khi đối với các em tàn tật,
những gì các em thực hiện đều là kết quả của không biết
bao nhiêu là tập luyện, đôi khi đòi hỏi những cố gắng thật
phi thường!
Trong thời gian phục vụ tại Phi-luật-tân tôi còn may mắn
làm việc chung với nữ tu Maria Rosa Zbicajnik cũng là bác
sĩ nơi nhà thương Payatas ở Quezon City . Chúng tôi sát
cánh trong các công tác phục vụ dân nghèo nơi các vùng
xa xôi hẻo lánh. Qua các hoạt động này tôi thầm nghĩ:
- Ở Ấn Độ hay tại Phi-luật-tân nơi đâu dân nghèo cũng có
cùng hoàn cảnh đáng thương!
Vậy thì bổn phận của chúng ta phải làm gì để có thể giúp
cho cuộc sống của người nghèo có thể khá hơn xứng với
nhân phẩm hơn? Tôi tự hỏi và tự trả lời:
- Không cần làm những công việc to tát mà chỉ cần làm tất
cả những gì chúng ta có thể làm, cho dù xem ra nhỏ bé 82
nhất, để góp phần thoa dịu nỗi đau khổ và túng cực của
dân nghèo.
Tôi ra đi đến Phi-luật-tân với tư tưởng đem khả năng phục
vụ các trẻ em tàn tật. Giờ đây tôi lại cảm nghiệm rằng:
- Chính các em tàn tật mới là người giúp đỡ tôi. Các em
dạy tôi một bài học vô cùng quý giá.
Tôi xin trưng dẫn lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói về
người tàn tật để kết thúc chứng từ:
- Người tàn tật dạy chúng ta hiểu thế nào là Tình Yêu
cứu độ. Họ là sứ giả của một thế giới mới không
thống trị bởi sức mạnh bởi bạo lực và bởi uy hiếp
nhưng là xây dựng trên Tình Yêu, tình liên đới và
trên sự chấp nhận lẫn nhau.
... ”Phải nói rằng: các dân ngoại không tìm cách để được
nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên
công chính là nhờ Đức Tin. Còn dân Israel tìm một luật làm
cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao
thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ Đức Tin,
nhưng nhờ việc làm .. Thưa anh em, lòng tôi những ước
mong và tôi cầu xin cho dân Do Thái được cứu độ. Quả
thế, tôi làm chứng cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với
THIÊN CHÚA, nhưng lòng nhiệt thành đó không được sáng
suốt, họ không nhận biết rằng chính THIÊN CHÚA làm cho
người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự
sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên
Chúa làm cho người ta nên công chính. Quả thế, cứu cánh
của Lề Luật là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, khiến bất cứ ai TIN
đều được nên công chính” (Thư gởi tín hữu Roma 9,30-32/10,1-4).
Trích dịch từ: (”Don Orione oggi”, Rivista mensile della Piccola Opera della Divina
Provvidenza, Anno CV, n.2, Febbraio 2010, trang 22-23)
Sr. Jean Berchemans Minh Nguyệt
BÀI ĐỌC THÊM
SỨ ĐIỆP CỦA ĐTC BÊNÊDICTÔ 16
NHÂN NGÀY CÁC BỆNH NHÂN 2012
thứ 20, năm nay được cử hành với chủ đề ”Hãy đứng lên và đi; đức tin của
con đã cứu con!” (Lc 17,19). Trong thời gian qua, ĐTC đã cho công bố sứ
điệp của ngài để hướng dẫn suy tư và việc cử hành Ngày này, đồng thời ngài
mời gọi các tín hữu nêu cao giá trị của các bí tích chữa lành là bí tích Thống
Hối hòa giải và bí tích xức dầu bệnh nhân. Sau đây là bản dịch nguyên văn
sứ điệp của ĐTC.
Anh chị em thân mến,
Nhân dịp Ngày Thế giới các bệnh nhân, mà chúng ta sẽ cử
hành ngày 11-2-2012, lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, tôi muốn tái
biểu lộ sự gần gũi tinh thần với tất cả các bệnh nhân đang
ở nơi điều trị hoặc được chăm sóc trong gia đình, bày tỏ
với mỗi người mối quan tâm và lòng quí mến của toàn thể
Giáo Hội. Khi quảng đại và yêu thương đón nhận mỗi sinh
mạng con người, nhất là những người yếu đuối và bệnh tật,
tín hữu Kitô biểu lộ khía cạnh quan trọng trong chứng tá Tin
Mừng của mình, theo gương Chúa Kitô, Đấng đã cúi mình
trên những đau khổ thể lý và tinh thần của con người để
chữa lành họ.
1. Năm nay, là năm chuẩn bị gần cho việc cử hành trọng
thể Ngày Thế Giới các bệnh nhân sẽ tiến hành tại Đức vào
ngày 11-2-2013 và sẽ suy tư về hình ảnh biểu tượng của
Tin Mừng về người Samaritano (Xc Lc 10,29-37), tôi muốn
nhấn mạnh về ”các bí tích chữa lành”, tức là Bí tích Thống
Hối và Hòa giải, và bí tích Xức Dầu bệnh nhân, các bí tích
này được viên mãn tự nhiên trong sự Hiệp Thông Thánh
Thể.
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với 10 người phong cùi,
được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca (Xc Lc 84
17,11-19), đặc biệt là lời Chúa nói với một người trong số
họ: ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu con!”, giúp
ta ý thức tầm quan trọng của đức tin đối với những người
đang chịu đau khổ và bệnh tật mà đến gần Chúa. Trong
cuộc gặp gỡ Chúa, họ có thể thực sự cảm nghiệm rằng ”ai
tin tưởng thì không bao giờ lẻ loi!” Thực vậy, trong Con của
Ngài, Thiên Chúa không bỏ mặc chúng ta cho những lo âu
và đau khổ của chúng ta, nhưng Ngài gần gũi chúng ta,
giúp chúng ta chịu đựng chúng và Ngài mong ước chữa
lành tâm hồn chúng ta một cách sâu xa (Xc Mc 2,1-12).
Đức tin của người phong cùi duy nhất, khi thấy mình được
chữa lành, đầy kinh ngạc và vui mừng, không như những
người khác, đã lập tức trở lại gặp Chúa Giêsu để biểu lộ
lòng biết ơn; đức tin ấy cho chúng ta thấy rằng sức khỏe
được phục hồi là dấu chỉ một điều quí giá hơn so với sự
khỏi bệnh thể lý, là dấu chỉ ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban
cho chúng ta qua Chúa Kitô; điều ấy được biểu lộ qua lời
Chúa Giêsu: ”Đức tin của con đã cứu con”. Ai ở trong đau
khổ và bệnh tật mà kêu cầu Chúa, thì chắc chắn tình yêu
của Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ, và cả tình yêu của
Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu, tình yêu này chính là sự
kéo dài trong thời gian công trình cứu độ của Chúa”. Như
thế, sự lành bệnh thể xác, diễn tả ơn cứu độ sâu xa, tỏ cho
thấy tầm quan trọng của con người đối với Chúa, trong
toàn thể linh hồn và thân xác của họ. Vả lại, mỗi bí tích diễn
tả và thực hiện sự gần gũi của chính Thiên Chúa, Đấng
theo một thể thức hoàn toàn nhưng không, ”đánh động
chúng ta qua những thực tại vật chất... mà Ngài dùng
chúng, biến chúng thành những phương thế để chúng ta và
Ngài gặp gỡ nhau” (Bài giảng, Thánh lễ làm phép Dầu, 1-4-
2010)
Nghĩa vụ chính yếu của Giáo Hội chắc chắn là loan báo
Nước Thiên Chúa, ”nhưng chính việc loan báo này phải là 85
một tiến trình chữa lành: ”.. băng bó các vết thương của
tâm hồn tan nát” (Is 61,1)” (Ibid.). Vì thế, sự liên kết giữa
sức khỏe thể lý và sự canh tân những sâu xé trong tâm hồn
giúp chúng ta hiểu rõ hơn ”các bí tích chữa lành”.
2. Bí tích Thống Hối thường ở trung tâm suy tư của các vị
Chủ Chăn trong Giáo Hội, chính vì tầm quan trọng của bí
tích này trong hành trình đời sống Kitô, xét vì ”toàn thể giá
trị của Sự Thống Hối hệ tại trả lại chúng ta cho ơn thánh
của Thiên Chúa, liên kết chúng ta với Ngài trong một tình
bạn thân mật và cao cả” (Sách Giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo, 1468). Giáo Hội, khi tiếp tục loan báo ơn tha thứ và
hòa giải mà Chúa Giêsu làm vang dội, không ngừng mời
gọi toàn thể nhân loại hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng.
Giáo Hội lập lại lời kêu gọi của thánh Phaolô Tông Đồ:
”Nhân danh Chúa Kitô.. chúng tôi là những sứ giả: qua
chúng tôi chính Thiên Chúa nhắn nhủ. Nhân danh Chúa
Kitô, chúng tôi nài xin anh em: hãy hòa giải với Thiên Chúa”
(2 Cr 5,20). Trong cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu loan
báo và làm cho lòng từ bi của Chúa Cha hiện diện. Ngài
đến không phải để lên án, nhưng để tha thứ và chữa lành,
để mang lại hy vọng cả trong tình trạng tăm tối nhất của
đau khổ và tội lỗi, để trao ban sự sống đời đời; vì thế, trong
Bí tích Thống Hối, trong ”y dược của phép giải tội”, kinh
nghiệm về tội lỗi không làm nảy sinh tuyệt vọng, nhưng gặp
gỡ Đấng là Tình Thương tha thứ và biến đổi (Xc Gioan
Phaolô 2, Tông Huấn hậu THĐGM ”Hòa giải và Thống Hối”,
31).
Thiên Chúa, ”giàu lòng xót thương” (Ep 2,4), như người
cha trong dụ ngôn của Tin Mừng (Xc Lc 15,11-32), không
khép kín tâm hồn đối với một người con nào, nhưng Ngài
chờ đợi họ, tìm kiếm, tìm đến với họ tại nơi mà sự phủ
nhận tình hiệp thông khép kín họ trong sự cô lập và chia rẽ, kêu gọi họ tụ tập quanh bàn ăn của Ngài, trong vui mừng
của đại lễ tha thứ và hòa giải. Những lúc đau khổ, khi mà
bệnh nhân dễ bị cám dỗ rơi vào tình trạng nản chí và tuyệt
vọng, có thể biến thành một thời điểm ân phúc, giúp họ trở
về với chính mình, và như người con hoang đàng, nghĩ lại
cuộc sống của mình, nhìn nhận những lỗi lầm và thiếu sót,
nhớ nhung vòng tay ấp ủ của người Cha, và tái khám phá
con đường về Nhà Cha. Trong tình yêu thương bao la,
Ngài luôn tỉnh thức canh chừng cuộc sống chúng ta, chờ
đợi chúng ta để trao tặng cho mỗi người con trở về cùng
Ngài hồng ân hòa giải trọn vẹn và niềm vui mừng”.
3. Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu luôn tỏ ra
đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Không những
Ngài sai các môn đệ đi săn sóc các vết thương (Xc Mt 10,8;
Lc 9,2; 10,9), nhưng Ngài còn thiết lập cho họ một Bí tích
đặc biệt: bí tích Xức dầu bệnh nhân. Thư của Thánh
Giacôbê làm chứng về sự hiện diện của cử chỉ bí tích này
trong cộng đồng Kitô đầu tiên (Xc 5,14-16): Với việc Xức
dầu bệnh nhân, kèm theo lời cầu nguyện của các linh mục,
toàn thể Giáo Hội phó thác các bệnh nhân cho Chúa đã
chịu đau khổ và được vinh hiển, để Ngài thoa dịu những cơ
cực và cứu vớt họ, Giáo Hội cũng khuyên họ hãy kết hiệp
trong tinh thần với cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô,
để góp phần vào thiện ích của Dân Chúa.
Bí tích ấy đưa chúng ta đến chỗ chiêm ngắm hai mầu
nhiệm về Núi Cây Dầu, nơi Chúa Giêsu đứng trước con
đường Chúa Cha đã chỉ cho Ngài, con đường khổ nạn, cử
chỉ tột đỉnh của tình thương, và Ngài đã đón nhận con
đường ấy. Trong giờ thử thách đó, Ngài là Đấng trung gian,
”mang trong mình, nhận lấy đau thương và khổ nạn của thế
giới, biến nó thành tiếng kêu lên Thiên Chúa, đưa đau khổ
tới trước mắt và trong tay của Thiên Chúa, và qua đó mang
đau khổ thực sự vào thời điểm cứu chuộc” (Lectio divina,
Cuộc gặp gỡ hàng giáo sĩ Roma, 18-2-2010). Nhưng ”Núi
Cây Dầu .. cũng là nơi từ đó Ngài lên cùng Chúa Cha, vì
thế đó là nơi cứu chuộc... Hai mầu nhiệm này về Núi Cây
Dầu cũng luôn luôn ”tác động” trong dầu bí tích của Giáo
Hội.. dấu chỉ lòng nhân từ của Thiên Chúa Đấng động đến
chúng ta” (Bài giảng, Thánh Lễ làm phép Dầu, 1-4-2010).
Trong việc Xức Dầu bệnh nhân, có thể nói chất liệu bí tích
dầu được ban cho chúng ta ”như dược phẩm của Thiên
Chúa.. thuốc này giờ đây làm cho chúng ta chắc chắn về
lòng từ nhân của Ngài, nó phải củng cố và an ủi chúng ta,
nhưng đồng thời, vượt lên trên thời kỳ bệnh tật hiện nay,
hướng chúng ta về sự chữa lành chung kết, là sự sống lại
(Xc Gc 5,14” (Ibid.).
Ngày nay Bí tích này đáng được để ý hơn, trong suy tư
thần học, cũng như trong hoạt động mục vụ cho các bệnh
nhân. Khi đề cao nội dung kinh nguyện phụng vụ được
thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau của con người
với bệnh tật, và không những vào lúc cuối đời mà thôi (Xc
Sách Giáo Lý Công Giáo, 1514), Bí tích Xức Dầu bệnh
nhân không thể bị coi là một bí tích ”hạng nhỏ” so với các bí
tích khác. Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh
nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối
với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm
tinh thần cho cả các LM và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý
thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính
là làm cho Chúa Giêsu” (Xc Mt 25,40).
4. Về ”các bí tích chữa lành”, thánh Augustinô khẳng định:
”Thiên Chúa chữa lành tất cả các bệnh tật của con”. Vì thế,
con đừng sợ: tất cả bệnh tật của con sẽ được chữa lành..
Con chỉ cần để cho Ngài chữa lành con và đừng đẩy xa
bàn tay của Ngài” (Giải thích về Thánh Vịnh 102,5: PL 88
36,1319-1320). Đó là những phương thế quí giá của ân
thánh Chúa, giúp các bệnh nhân ngày càng trở nên đồng
hình dạng với Mầu Nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa
Kitô”. Cùng với hai Bí tích này, tôi muốn nhấn mạnh tầm
quan trọng của Bí tích Thánh Thể. Khi được lãnh nhận
trong lúc bệnh tật, Thánh Thể góp phần đặc biệt vào công
trình biến đổi ấy, liên kết người được nuôi sống bằng Mình
Máu Thánh Chúa Giêsu với hy tế Ngài tự hiến dâng lên
Chúa Cha để cứu độ mọi người. Toàn thể cộng đoàn Giáo
Hội và nhất là các giáo xứ, hãy quan tâm đảm bảo cơ hội
cho những người, vì lý do sức khỏe hoặc tuổi tác, không
thể đến nơi thờ phượng, được thường xuyên rước lễ. Như
thế những anh chị em ấy có thể củng cố mối quan hệ với
Chúa Kitô chịu đóng đanh và sống lại, với cuộc sống của
họ được dâng hiến vì tình yêu Chúa Kitô, tham dự vào sứ
mạng của chính Giáo Hội. Trong viễn tượng ấy, điều quan
trọng là các LM phục vụ tại các nhà thương, các dưỡng
đường và tại tư gia của các bệnh nhân, hãy cảm thấy mình
thực sự là những người phục vụ các bệnh nhân, là dấu chỉ
và là phương tiện của lòng từ bi Chúa Kitô, cần được biểu
lộ cho mọi người đang chịu đau khổ (Sứ điệp nhân Ngày
Thế giới các bệnh nhân lần thứ 18, 22-11-2009).
Sự trở nên đồng hình dạng với Mầu Nhiệm Vượt Qua của
Chúa Kitô, cũng được thực hiện qua việc rước lễ thiêng
liêng, việc làm này có một ý nghĩa rất đặc biệt khi Thánh
Thể được ban và đón nhận như của ăn đàng. Trong thời
điểm ấy của cuộc sống, những lời của Chúa càng âm vang
một cách quyết liệt hơn: ”Ai ăn Mình Thầy và uống Máu
Thầy thì có sự sống đời đời và Thầy sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết” (Ga 6,54). Thực vậy, Thánh Thể, nhất
là như của ăn đàng, theo định nghĩa của thánh Ignatio
thành Antiokia, là ”phương dược bất tử, là thuốc chống lại
sự chết” (Thư gửi các tín hữu Ephêsô, 20: PG 5,661), là bí 89
tích chuyển tiếp từ sự chết đến sự sống, từ trần thế này
đến cùng Chúa Cha, Đấng chờ đợi mọi người trong thành
5. Chủ đề sứ điệp này nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân
lần thứ 20, ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu
con!”, cũng liên hệ tới Năm Đức Tin sắp tới, sẽ bắt đầu từ
ngày 11-10-2012, là dịp thuận tiện và quý giá để tái khám
phá sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin, để đào sâu nội dung
đức tin cũng như để làm chứng đức tin trong đời sống
thường nhật (Xc Tông thư Porta fidei, 11-10-2011). Tôi
muốn khuyến khích các bệnh nhân và những người đau
khổ luôn tìm thấy một chiếc neo chắc chắn trong đức tin,
được nuôi dưỡng bằng sự lắng nghe Lời Chúa, bằng kinh
nguyện bản thân và các bí tích, trong khi tôi mời gọi các vị
Mục Tử ngày càng sẵn sàng cử hành các bí tích cho các
bệnh nhân. Noi gương Vị Mục Tử Nhân Lành và trong tư
cách là những người dẫn dắt đoàn chiên đã được ủy thác,
các linh mục hãy tràn đầy vui mừng, ân cần đối với những
người yếu đuối nhất, những người đơn sơ và tội nhân, biểu
lộ cho họ lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa với những lời
đầy hy vọng” (Xc S. AugustinNHỮNG SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN NĂM B
ĐỨC GIÊSU CHỮA MỘT NGƯỜI PHONG HỦI
Bài Tin Mừng đề ra cho các độ giả một số bài học: tin tưởng ký thác vào
Thiên Chúa; kín đáo phục vụ; bày tỏ tâm tình tri ân…
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi
hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế
nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc
5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi
tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần
học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối
cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu
đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh
phong hủi.
II. BỐ CỤC
Bản văn này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);
3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng
bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm,
cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta
không nói “chữa lành” nhưng là “được thanh tẩy (làm cho
sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ
trên hai từ Híp-ri nâga‛ (“nó đánh”) và nega‛ (“đòn đánh”;
“vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5;
2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).
Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong
hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người 3
đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ
nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.
Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được
dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân
biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã
lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ
thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).
Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ
có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi
một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có
ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như
Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-
14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong
hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia
(x. Mt 11,5)?
- Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis,
partic. aorist của động từ splanchnizomai do từ ta
splanchna, lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong
lòng”.
- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một
cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi
phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong
sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT) (43): Động từ Hy
Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ do
cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng
Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai,
ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người “đuổi”
anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của 4
Người. Động từ embrimaomai không có từ tương đương
trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s’irritant; BJ: en le
rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away
with the stern warning).
- để làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng trước
mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này
nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour
l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản
văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện
tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-
32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh
từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều
được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị
tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế,
Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực
hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong
hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu
đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Chữa lành người phong hủi (40-42)
Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để
kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới
tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một
chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người
bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta
gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời
khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử
sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và
thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động
như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy 5
được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức
khắc.
* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)
Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị
này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại
trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ
cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em
mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm
người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.
* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu,
anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do
đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và
tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng
từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền
lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là
có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi
đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa,
thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi
người có thể tin vào Người.
D Kết luận
Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc
nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên
Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu
độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân,
trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa
đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết
thương cảm.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Như người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý:
không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp
chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày
tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài
định liệu : “Nếu Ngài muốn”.
2. “Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời
khuyên rất tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý
muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin vào sự tốt
lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh
tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng
thời khẳng định đức tin của anh… Nếu đức tin yếu, đức tin
trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức tin mới cho
thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành
tâm hồn và than xác.
Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: “Người
đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)… Đức tin
tinh tuyền, được sống trong tình yêu, được duy trì nhờ sự
nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách
khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy
trọng kính trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong
những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn
cảnh được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’” (Thánh
Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).
3. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục
vụ. Như Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì
lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của anh chị
em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người Kitô
hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì
thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của người khác).
4. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ
mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên
Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho
chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang
nhận được những ân huệ lớn lao nào.
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
"Sạch" và "dơ" (Mc 1, 40)
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy
có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa; có khi
chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao? Lời Chúa
hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta
hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng
ta sống theo lời Ngài dạy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
• Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không
xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm
sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.
• Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng
những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu
chuyện khiếm nhã.
• Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống
ích kỷ và giận hờn ganh ghét.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Lv 13, 1-2. 45-46)
Ðoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên
gọi là "Luật về sự tinh sạch". Ðoạn này đề cập riêng về
bệnh cùi. Nhưng quan niệm về "bệnh cùi" không giống với
quan niệm ngày nay:
Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu
hoặc bóng láng) đều bị gọi là "cùi". Người ta còn nghĩ rằng
bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc
bệnh ấy phải ở riêng.
Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn
giáo: trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của
tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho
kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu
bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này "nếu" khỏi
bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là
một chữ "nếu" to tướng, vì người ta đều coi cùi là một
chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa
ra tay cứu chữa.
Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và
Ðức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do
Thiên Chúa ban.
2. Ðáp ca (Tv 31)
Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của
người được tha thứ.
3. Bài đọc II (1 Cr 10, 31--11, 1)
Ðoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng
chung một vấn đề, đó là "sạch và dơ". Người Do Thái thời
thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn "sạch" và
thức ăn "dơ". Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Ðiều
quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay 9
dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì
khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
4. Tin Mừng (Mc 1, 40-45)
Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người Do Thái
coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa
khỏi; b/ chứng bệnh rất hay lây; c/ có liên hệ đến tội lỗi.
Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Ðức Giêsu "Nếu
Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðiều này
chứng tỏ anh tin rằng Ðức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy: chứng tỏ Ngài không
sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.
Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng:
chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Thứ bệnh "cùi" nguy hiểm hơn
Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn
quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.
Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc
biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả: Ðó là
một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế,
lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi
người xa lánh.
Tội "cùi" ấy là gì? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan
truyền những ý nghĩ xấu ấy.
Ebba de Pauli trong quyển "Vị ẩn sĩ" đã mô tả một người
cùi như thế: Ðó là một bà trung lưu và có thể nói là "đạo
đức". Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều
giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để
tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không
hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người
đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng
dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa
xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ.
Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận:
- Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn
độc!
- Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc?
- Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như
nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan...
Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn
xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn.
- Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao.
Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao
tiếp:
- từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành;
khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt
lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.
Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.
* 2. Những "con hủi"
Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng
hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và
hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh
không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ
anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.
Có nhiều người tuy không "cùi" nhưng vẫn bị coi là "con
hủi" do bị mọi người khinh tởm tránh xa.
Nhưng Ðức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi
với những "con hủi" ấy, chẳng hạn những người thu thuế,
đĩ điếm, trộm cắp v. v.
* 3. Nỗi khổ bị xua đuổi
Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không
khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ
lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi
khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn
phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.
Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn
thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ
khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất
không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó
đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.
Người cùi đến với Ðức Giêsu trong bài Tin Mừng này là
một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung
với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho
người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người
cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm
mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.
Ðiểm hay trong chuyện này không phải là việc Ðức Giêsu
chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với
anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi,
nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng
vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Ðức
Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ
hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và
nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa
bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.
Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có
lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người
khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói
thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v. v. Ðó là những mũi
kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor
Mc Carthy)
* 4. Bệnh phong cùi
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi
chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng.
Người ta nói với mẹ cậu: "Thằng Glenn của chị sắp thành
kẻ tàn phế suốt đời đấy".
Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ
cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa.
Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là
chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh
ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá
là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn
phá kỷ lục Olympic về môn này.
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng
chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy
nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên
Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống
trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Ðối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như
Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham
dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải
sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên "ô uế" để mọi
người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong
hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng
quyền năng của Ðức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin:
"Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch" (Mc. 1,
40).
Thấy lòng tin của anh, Ðức Giêsu động lòng thương, giơ
tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh"
(Mc. 1, 41). Chạm đến người phong cùi, Ðức Giêsu đã
phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi
những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Ðức Giêsu,
con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được
nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà
bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M. Carré có nói: "Sống trong một thế giới đầy đau khổ
trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của
niềm tin tưởng cậy trông". Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng
nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong
lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính
trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn
toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn
phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế Ðức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của
Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là
cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết:
"Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ".
Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên
đồng tiền của họ, đó là câu: "In God we trust" (Chúng tôi tin
vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói: "Chúng ta
sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta
còn gắn chặt vào Thiên Chúa".
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin
tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng
đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi
Người; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của
Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi
bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như
Thầy đã yêu")
* 5. Chạm vào
Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác. Thà cho
người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm
tới mình. Ðức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không
ngại chạm vào. Ngài chạm vào những người cùi, những
người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người
chết. Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang
lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui
mừng sung sướng.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu
dàng. (Flor Mc Carthy)
* 6. Chúa chạm vào
Người phong cùi nói với Ðức Giêsu: "Thưa Ngài, nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Ðức Giêsu
chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo "Tôi
muốn, anh hãy được sạch"
Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng:
Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều "cùi" vì ai cũng có
tội. "Nếu Ngài muốn": Ðức Giêsu có muốn cho chúng ta hết
"cùi" thiêng liêng không? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì
Ðức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài
người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi: "Tôi muốn"
Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Ðức Giêsu
đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Ðức
Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ
thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.
7. Ý nghĩa việc làm của Ðức Giêsu
Các sách Tin Mừng trình bày Ðức Giêsu luôn làm hai việc:
chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không
riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói
cách khác, Ðức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao
giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao
giảng. Ta cũng có thể nói: chữa bệnh là một cách rao giảng
Tin Mừng.
Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được
chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng
những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ
loan báo Tin Mừng: "Ði khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao
và loan truyền tin đó... và người ta từ khắp nơi tuôn đến
cùng Người".
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
HÃY ĐƯỢC LÀNH
Chủ đề: "Dù tình trạng bi đát đến mức nào, Chúa Giêsu vẫn có thể hoán
chuyển thành tốt hơn, miễn là ta biết tin vào Ngài"
Lm. Mark Link, SJ
Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người anh, Peter Cropper được
mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hoà nhạc đặc biệt. Vì
lòng ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc
hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là
Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử
dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này
mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari.
Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn
bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du
dương. Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn
ác mộng khinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi
bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã
xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! thế là
Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một
người chuyên sửa đàn dày dạn Kinh nghiệm tên là Charler
Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho
Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn
vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các
mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước.
Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín
thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc
vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp
cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có
mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những
âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem
ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!
Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi
trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm 18
mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang
lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ đám thính
giả.
Câu chuyện về chiếc vĩ cầm trên là một hỉnh ảnh tuyệt hảo
diễn ý những gì đã xảy ra cho người bị phong cùi trong bài
Phúc Âm hôm nay. Thời xưa, không hình ảnh nào ghê tởm
bằng hình ảnh người bệnh cùi. Ai ai cũng sợ bị anh ta lây
bệnh. Đời sống của người bệnh cùi chẳng khác gì cuộc
sống địa ngục. Người khác lấy làm gớm ghiếc anh ta đã
dành, mà chính anh ta cũng kinh tởm chính mình nữa.
Thánh vịnh 31 đã mô tả tình trạng thê thảm của anh như
sau; "Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi, trông thấy tôi
ngoài đường là họ lánh xa… Tôi chả khác nào đồ vật phế
thải" (Tv 31: 11-12). Thế mà đối với người phung cùi bị đát
như vậy, Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài
chạm vào và chữa cho anh ta lành bệnh.
Câu chuyện người phung cùi và câu chuyện chiếc vĩ cầm
chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với tất cả chúng ta.
Chúng cho ta thấy những điều vẫn thường xuyên xảy đến
trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hạn một biến cố cực kỳ bi
đát nào đó như; một người thân mình qua đời, bạn bè phản
bội mình, tại nạn xẩy tới làm con mình tàn tật, cha mình
mất sở làm, mẹ mình nghiện rượu… khi sự bất hạnh ấy
chụp lên đầu chúng ta, lòng chúng ta đầy đớn đau, lo lắng,
giống như người bệnh cùi lúc bị vướng bệnh, chúng ta cảm
thấy cõi lòng tan nát, và giống như Peter khi đánh vỡ chiếc
vĩ cầm, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng hết sức khủng
hoảng.
Vậy hai câu chuyện trên dạy chúng ta điều gì khi lâm phải
những hoàn cảnh bi đát tương tự như thế? Chúng cho ta
thấy không có hoàn cảnh bi đát nào khủng khiếp đến mức 19
ta không thể vượt qua được. Không một tai hoạ nào tàn
khốc đến mức không thể phục hồi được. Dầu cho rủi ro tàn
phá đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhặt lên
những mãnh vụn và bắt đầu khiến tạo lại thành một hình
dạng mới. Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng đời mình kể
như vĩnh viễn tàn lụi, hư hỏng, chúng ta chỉ cần quay nhìn
về Chúa Giêsu, Ngài có thể chữa lành cuộc đời tan vỡ
chúng ta, giống như người sửa đàn tài hoa đã sửa chữa
chiếc vĩ cầm bể nát nọ. Và Chúa Giêsu còn làm được hơn
thế. Ngài có thể biến một cuộc đời tan nát thành tốt hơn,
đẹp hơn trước đó nữa.
Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi
bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần
phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: "Chị
nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp
sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!" thế mà hai năm sau,
cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được,
cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm,
những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn
vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn
chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho
thấy thiên hạ đã lầm, mà chẳng là vì cậu có năng khiếu về
môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân
thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic
động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ
lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại
phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.
Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân,
nay đã trở thành vận động viên chạy chay nhanh nhất thế
giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở
nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra. 20
Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc
hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau:
"Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh
thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng.
Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không
bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã
lòng" (2 Cr 4: 8-9, 16).
Và trong thư gởi tín hữu Roma thánh Phaolô có nói;
"Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên tốt
đẹp cho những kẻ yêu mến Ngài" (Rm 8:28)
Đây chính là "Tin Mừng" ẩn chứa trong các bài đọc Thánh
Kinh hôm nay. Những bài đọc này dạy ta biết rằng dù ta có
gặp tai nạn thảm khốc đến mức nào, chúng ta cũng vẫn có
thể được chữa lành- giống như trường hợp chiếc vĩ cầm
quí giá nọ. Những bài đọc dạy ta rằng bất cứ bệnh tật nào
dù thê lương đến đâu xảy đến cho chúng ta như bệnh cùi
chẳng hạn, chúng ta vẫn có thể được chữa lành dù sự kiện
bi đát nào ụp xuống trên ta giống trường hợp xảy đến cho
Glenn, chúng ta cũng vẫn có thể hoàn toàn phục hồi như
cậu ta. Những bài đọc còn dạy chúng ta thêm điều này. Dù
Chúa Giêsu có thể không chọn phương cách phục hồi toàn
vẹn đời sống cho chúng ta, Ngài vẫn có thể dùng nghịch
cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn
trước.
Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện được tìm thấy
trong túi một chiến binh tử trận.
"Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ
đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những
điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh
phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn
ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng
để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu
cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…
Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận
được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời
lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế
tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc
nhiều nhất"…
Lm. Mark Link, SJ
CHÚA CHỮA NGƯỜI PHONG CÙI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Xưa nay, bệnh phong cùi vẫn làm cho người khác e sợ,
lánh xa.Dù rằng, ngày nay y khoa không còn bó tay trước
bệnh phong cùi mà lúc xưa nhân loại xếp vào loại bệnh nan
y…Bệnh phong vào thời Chúa Giêsu vẫn bị xếp vào loại
bệnh bất trị, ai cũng phải tránh xa người bị phong cùi và
người mắc bệnh phong đi đâu cũng phải la to lên:” Ô uế ! Ô
uế “ ( Lv 13, 45-46 ).
Bệnh phong cùi xem ra là một hình phạt của Thiên Chúa
theo quan niệm của người Do Thai. Vâng, người Do Thái
cho rằng những người mắc bệnh phong cùi là những người
bị Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại trừ. Họ bị liệt vào
thành phần tội lỗi và không được tham dự bất cứ nghi lễ gì
trong các hội đường. Họ phải sống xa xã hội và sống thành
từng nhóm nơi các mồ mả,nơi thâm sâu cùng cốc. Họ phải
la lên “nhơ bẩn, nhơ bẩn “ để mọi người nghe mà tránh xa.
Do đó, chúng ta thấy hoàn cảnh của một người bị bệnh
phong hủi hôm nay trong Tin Mừng của thánh Marcô. Vâng,
người bị bệnh phong cùi trong Tin Mừng hôm nay có tư
cách khá đặc biệt. Anh không mặc cảm, không la to như
mọi khi, nhưng anh tự ý đến gặp Chúa Giêsu, và khi đến
trước mặt Ngài, anh ta quỳ xuống van xin rằng :” Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ ( Mc 1, 40 ). Anh
cùi nại vào lòng thương xót của Chúa. Anh ta không dám
xin, nhưng để quyền tự do của Chúa, chữa hay không chữa
tùy ý Ngài…Anh phó thác hoàn toàn vào Chúa. Anh tin
tưởng và hết sức muốn Chúa chữa bệnh cho anh. Nên,
chính sự đơn sơ, phó thác và tin mãnh liệt vào Chúa đã
khiến Chúa chạnh lòng thương, cứu vớt, chữa lành cho
anh. Lòng tin đã giúp anh :” Tôi muốn, anh sạch đi “ ( Mc
1,42 ). Phép Chúa Giêsu làm cho anh phong cùi phát xuất
từ lòng tin của anh và từ quyền năng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã chạm vào người phong, một cử chỉ không
được phép vì phạm luật. Nhưng Chúa vẫn làm bất chấp
luật lệ Do Thái. Chúa Giêsu muốn đánh đổ những lệch lạc
của người Do Thái liên quan đến lề luật. Chúa đặt tay trên
người cùi khiến họ được tiếp xúc với Con- Người- Chúa-
của- Chúa, nhờ đó con người được lãnh nhận ân sủng từ
nơi Người. Do đó, bệnh phong biến mất và anh ta được
lành sạch.
Người phong cùi trong lúc thất vọng vì mang một căn bệnh
quái ác, nan y, trong khi anh bị xã hội khinh chê, loại trừ và 45
ghép vào loại tội lỗi công khai. Anh đã tin tưởng, phó thác
nơi Chúa, nên anh đã được Chúa yêu thương, cứu chữa.
Chúa Giêsu vừa tự do với lề luật, vừa lệ thuộc lề luật. Ngài
bảo người phong cùi được lành sạch đi trình diện tư tế và
dâng của lễ theo luật Môsê. Người phong cùi giờ đây được
tự do hoàn toàn, anh được nhập với xã hội đời thường,
được chung sống với cộng đoàn và được hiệp thông với
Thiên Chúa. Anh được trả lại phẩm giá con người, phẩm
giá anh bị mất khi anh bị mang căn bệnh nan y này. Giờ
anh được tự do và được vui sống. Anh mang theo mình
một niềm vui khôn tả. Anh đi loan báo khắp nơi về một
Đấng đã chữa lành anh là Đức Giêsu. Anh phong cùi được
lành sạch đã có thể vào thành tự do, còn Đức Giêsu thì
phải ở ngoài thành và đi vào nơi hoang vắng.
Bệnh phong ngày nay không còn là bệnh nan y, bất trị nữa
vì y học đã tìm ra vi trùng Hansen. Nhưng những người bị
bệnh phong cùi được điều trị khỏi bệnh nhưng hòa nhập tự
nhiên vào xã hội bình thường như mọi người vẫn là chuyện
khó. Ở đời, còn có nhiều loại bệnh, nhiều loại người chúng
ta vẫn khó tới gần hay họ cũng rất khó tới với chúng ta
được. Chúng ta hãy có lòng nhân từ như Chúa bởi vì
chúng ta không bị bệnh phong nhưng một cách nào đó tội
lỗi vẫn làm cho chúng ta giống như một loại bệnh cùi khiến
chúng ta xa cách Chúa và con người.
Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng
con vững mạng đón nhận anh em chúng con dẫu họ có bị
bệnh nan y trong cuộc đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Bệnh phong cùi đối với xã hội Do Thái xưa như thế
nào? 46
2. Người mắc bệnh phong cùi phải làm gì khi di chuyển?
3. Người phong cùi phải sống làm sao?
4. Luật Lê Vi qui định thế nào về bệnh phong cùi?
5. Ai đã tìm ra vi trùng phong cùi?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
HỦI NGOÀI DA, HỦI TÂM HỒN
Lm. Anmai, CSsR
"Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò" (thơ Hàn Mạc Tử)
"Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
Lầu ông Hoàng đó thuở nào trăng Hàn Mặc Tử đã qua Ánh trăng treo
nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng Tiếng chim kêu đau
thương, như nức nở dưới trời sương Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ
bước chân người tìm về giữa đêm buồn
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến Tình yêu vừa
chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân Tiếc thay cho thân
trai, một nửa đời chưa qua hết Trách thay cho tơ duyên chưa thắm
nồng đã vội tan Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tang
thương, mà khổ đau niềm riêng. Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân
nơi nhà hoang
Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi Tình đã lỡ
xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi Còn gì nữa thân tàn xin để một
mình mình đơn côi. Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân
chàng đến Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết
hoa Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ Khóc thương
thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia Trơì đất như điên cuồng khi
hồn phách vút lên cao Mặc Tử nay còn đâu? Trăng vàng ngọc, trăng
ân tình chưa phỉ Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi chăng..."
Đó là bài ca về thi nhân Hàn Mạc Tử, do nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh sáng tác do nguồn cảm hứng từ những áng thơ bất
hủ và chuyện tình thương tâm của nhà thơ nàỵ.
Ít nhiều gì chúng ta hơn một lần nghe nói về chàng thi sĩ tài
hoa vắn số này. Thơ của chàng rất hay nhưng cung mệnh
đời của chàng quá vắn. Chàng nằm xuống để rồi không biết
bao nhiêu người đã nuối tiếc cho con người “tài hoa bạc
mệnh này”.
Hàn Mặc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo
một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà
thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục
đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ
trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam . Thơ của Hàn Mạc Tử
là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn
thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa
một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ.
Bài Thánh Nữ Đồng trinh trứ danh của Hàn Mạc Tử đã diễn
đạt lại ý tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công
giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:
… Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,
Giầu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng hai hàng lệ
…Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm .
Nhà thơ Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, cũng
như không biết bao nhiêu người mang trong mình chứng
bệnh phong khắc nghiệt này rất đau khổ. Chưa nói đến
chuyện người ta phải cách ly, thì những người bệnh phong
này phải tự tìm cách cách ly với những người lành sạch.
Nguyễn Trọng Trí chưa cần đợi người ta xua đuổi, cách ly,
đã tìm đến ngôi nhà hoang để dấu mình trong những ngày
cuối đời khi mang trong mình chứng bệnh quái ác này. 48
Hàn Mặc Tử, cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo
phi thường là đau khổ không dìm sâu họ xuống bùn đen mà
đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế
Ở Hàn Mặc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn thì
thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp
vào trí tưởng của thi nhân.
Hàn Mặc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đã tự ví
mình: khi xưa ta là chim phượng hoàng, Vỗ cánh bay chín
tầng trời cao ngất"; ý tứ mình "cao cường hơn ngọn núi";
hồn mình "chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây"
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, ai trong chúng ta cũng
biết tác hại của bệnh phong là như thế nào. Chẳng ai trong
chúng ta muốn cho mình bị chứng bệnh ấy. Những bệnh
nhân phong rất tội nghiệp, chân tay của họ không lành lặn
như những người bình thường. Họ làm việc gì cũng khó cả
vì chân tay của họ cứ teo dần teo dần. Nghiệt một cái là
bệnh phong thuộc dạng lây lan để rồi từ ngàn xưa người ta
vẫn thường kỳ thị những ai mang chứng bệnh này. Người
ta sợ đến độ phải cách ly những ai mang bệnh phong để
giữ gìn cho những người sạch không nhiễm bệnh.
Phải đọc kỹ đoạn sách Lê-vi nói về bệnh phong chúng ta sẽ
rõ quy định như thế nào về những người bệnh phong.
Môsê và Aharon được Đức Chúa phán rất rõ ràng về
chứng bệnh này. Có hai loại phong: phong hủi và phong hủi
kinh niên.
Người bệnh phong hủi là: “Khi trên da thịt người nào phát
ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương
phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-haron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương 49
đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào
da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế
sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Nếu là đốm trắng trên da thịt,
mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang
màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong
vòng bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu
chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan
ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày
nữa. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết
thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên
bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra
thanh sạch. Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người
ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì
nó phải được tư tế tái khám. Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan
ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh
phong hủi.” (Lv 13, 2-8).
Còn người bị phong hủi kinh niên là: “Khi trên người nào có
vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. Tư tế
sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho
lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm
sùi ra, thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế
sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô
uế. Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất
cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu
mắt tư tế nhìn thấy, thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ
tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch:
nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. Nhưng
ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô
uế; tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy
là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi. Hoặc khi
thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư
tế; tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu
trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy
thanh sạch.” (Lv 13, 9-17).
Sách Lê-vi quy định rất rõ ràng về người nào mắc chứng
bệnh này cũng như quy định khi nào người mắc bệnh này
được lành sạch.
Ngày hôm nay, khoa học tiến bộ nên số người bị phong cùi
đã giảm hẳn vì người ta đã tìm cách khống chế căn bệnh
mang tính di truyền này. Thế nhưng, chưa phải căn bệnh
này đã chấm dứt. Đâu đó vẫn còn những trại phong quy tụ
bệnh nhân lại để nuôi dưỡng, để chăm sóc, để nâng đỡ họ
trong những ngày cuối đời. Chúng ta vẫn nghe đâu đó
những trại phong Quả Cảm, Thanh Bình, Bến Sắn, Phước
Tân, … Ai nào đó một lần đến và tiếp xúc trực tiếp với
người bị bệnh phong cùi sẽ thấy họ thiệt thòi, họ đau khổ
như thế nào.
Bệnh nào cũng vậy chứ không riêng gì bệnh phong cùi. Ai
đã mang trong mình mầm bệnh thì đều mong được chữa
lành. Với người bệnh cùi, được chữa lành quả là điều vô
cùng hạnh phúc vì họ được hội nhập với cộng đồng, không
còn bị cách ly, không còn bị miệt thị, không còn bị phân biệt
đối xử nữa.
Người hạnh phúc mà chúng ta vừa được nghe thánh
Máccô thuật lại trong trang Tin mừng hôm nay đó không ai
khác là anh chàng bị phong hủi. Anh ta nghe tiếng tăm đồn
đãi về Chúa Giêsu và tìm đến với Chúa Giêsu để xin Ngài
chữa cho anh được lành bệnh. Anh tin vào Chúa Giêsu và
anh lành bệnh. Chúa cũng truyền cho anh đi trình diện cho
các vị tư tế theo luật Môsê truyền dạy.
Quan niệm của người Do Thái rất buồn cười, cách riêng là 51
những người Biệt Phái và Pharisêu. Họ cho rằng tất cả
những ai bệnh hoạn tật nguyền là do người đó phạm tội
nên bị trừng phạt. Họ không cho những người bệnh hoạn
tật nguyền là những người kém may mắn hơn họ nhưng họ
kết luận rằng vì những người đó phạm tội trong tâm hồn
nên mới bị bệnh như vậy. Chẳng hiểu họ dựa vào đâu,
chứng cứ nào để kết luận điều ấy.
Chúng ta còn nhớ cái anh què được Chúa chữa lành vác
chõng mà về. Với người Do Thái, anh què chính là do tội lỗi
của anh chứ người ta không công nhận đó là những khiếm
khuyết về thể xác của con người.
Những người Do Thái trong đó có Pharisêu, Biệt Phái và cả
chúng ta nữa, đều có cái nhìn, quan niệm khác với Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu nhìn bên trong tâm hồn còn chúng ta,
chúng ta vẫn mang trong mình thói quen nhìn bề ngoài.
Thật ra, bệnh ngoài da cũng sợ nhưng sợ hơn là bệnh
trong tâm hồn. Có những người bề ngoài trông rất sạch sẽ,
thơm tho nhưng bên trong lại quá ư là phong hủi. Mà cũng
lạ ! Những người mang chứng phong trong tâm hồn thì lại
sơn phết cho mình cái mã bên ngoài cực kỳ đẹp. Chúng ta
còn nhớ, hơn một lần Chúa nói với Pharisêu và Biệt Phái là
“Đồ thứ mồ mả tô vôi ! Bên ngoài trông đẹp nhưng bên
trong là một dúm xương khô !”.
Thế đấy ! Nhiều người bên trong mang chứng bệnh phong
hủi kinh khủng nhưng bên ngoài vẫn cố che đậy và đi khinh
chê những người bệnh ngoài da.
Như Hàn Mạc Tử, anh mang trong mình chứng bệnh phong
hủi, chứ tâm hồn anh quá đẹp, qúa thơ mộng. Anh đã để lại
cho đời nhiều bài thơ bất hủ. Hàn Mạc Tử chắc có lẽ là
người con yêu của Đức Mẹ nên Hàn Mạc Tử có những bài
thơ về Đức Mẹ thật tuyệt vời. Bề ngoài thì anh bệnh nhưng
trong tâm của anh thật sạch.
Chuyện cần, đó là chữa tâm hồn, chữa lòng mình cho sạch
chứ không phải là chuyện bên ngoài. Chưa chắc bệnh
ngoài da là xấu, bệnh trong lòng xấu mới là điều đáng sợ.
Đừng đánh giá bề ngoài vì bề ngoài đôi khi là bóng bẩy
nhưng bên trong thối hoắc. Đôi khi bên ngoài nó sần sùi,
nham nhám chút nhưng bên trong cả là một tâm hồn cao
thượng, một tâm hồn trong sạch. Những người phong cùi
bề ngoài đấy nhưng trong lòng họ còn sạch hơn những
người sạch bên ngoài mà bên trong thì hôi thối.
Hôm nay, Chúa chữa chàng thanh niên bị phung hủi nghĩa
là Chúa đã giải thoát được cho anh cả chứng bệnh ngoài
da và chứng bệnh tâm hồn vì như đã nói người Do Thái
cho rằng anh bệnh hoạn tâm hồn nên anh mới bị ngoài da.
Chúng ta, may mắn hơn anh ta là chúng ta không bị phong
hủi ngoài da, nhưng chắc hẳn trong tâm hồn mỗi người
chúng ta còn lợn cợn điều gì đó trong tâm hồn và chúng ta
chạy đến Chúa để xin Chúa chữa cho chúng ta những cái
lợn cợn trong tâm hồn để tâm hồn để chúng ta được thanh
sạch hơn, được thơm tho hơn để đón mời Chúa đến và
ngự lại trong lòng chúng ta.
Lm. Anmai, CSsR
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN B
Lm. Ignatio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay cùng có chung một chủ đề:
quan niệm về sự thanh sạch và sự ô uế.
Lv 13: 1-2, 45-46
Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy rằng bệnh phong hủi làm cho con người
trở nên ô uế trầm trọng. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác
nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên.
Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.
1Cr 10: 31-11: 1
Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ
cho thấy làm thế nào sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề
thanh sạch và ô uế về những lệnh cấm thức ăn, thức uống. Bởi lẽ Chúa
Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.
Mc 1: 40-45
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su không ngại chạm đến người
phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử theo cùng một cách như
vậy đối với những tội nhân. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi. 60
BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 45-46).
Sách Lê-vi là một trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ
Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư. Bộ Ngũ Thư cấu tạo nên
Luật và theo truyền thống, nguồn gợi hứng của chúng lên
đến tận ông Mô-sê.
Sách nầy là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì
những tư tế đều phải thuộc bộ tộc Lê-vi. Xưa kia, con cái
lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau,
sau nầy, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục
vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia
giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy
lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, được gọi các thầy
trợ tế lê-vi như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sama-ri tốt lành (Lc 10: 31-32).
1. Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:
Bộ luật tư tế nầy dâng hiến một chương dài cho “luật thanh
sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng bệnh
phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là
những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố,
làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai.
Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp
xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới,
đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!”
để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.
2. Nỗi khốn cùng về phương diện tâm linh:
Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn
giáo xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẽ với ý tưởng
thánh thiêng. Ở Ít-ra-en, cộng đoàn cốt yếu là một cộng
đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế61
không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng
vụ.
Bệnh phong hủi gợi ra không chỉ sự ghê tởm về mặt thể lý;
một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là
dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong
hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ
có những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy luật
đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có
những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy
đến với thầy tư tế”.
Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, là “đồ bỏ đi”, là
“kẻ bị khai trừ”, là người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai
thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, Người Tôi Trung
của Đức Chúa được mô tả như một người phong hủi, vì
Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người: “Người bị người
đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm
mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không
nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53: 3).
Đó là thân phận bi thương của những người phong hủi
được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn
không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da
thịt mình, nhưng cả về mặt tinh thần: vì là chứng bệnh
truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; và vì là tội
lỗi, họ bị loại trừ ra khỏi đời sống phụng vụ và không được
hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)
Đoạn trích Thánh Phao-lô nầy làm chứng một cuộc cách
mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân
từ Do thái giáo rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa
thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn 62
Thiên Chúa, dù ăn hay uống bất cứ điều gì. Vả lại, không
có bất kỳ hành động vô tình nào. Tất cả những gì chúng ta
làm là để tôn vinh Thiên Chúa.
1. Quy luật về thức ăn thức uống:
Sách Lê-vi trình bày nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân
Chúa chọn phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những
người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không
còn bận lòng về vấn đề nầy nữa. Tuy nhiên có một vấn đề
khác được đặt ra cho họ nhưng cũng cho những người Kitô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt cúng mà lương dân dùng để dâng cúng các thần linh của họ
không?
2. Giải pháp của thánh Phao-lô:
Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời
cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi
sáng.
“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật,
người Ki tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn và
thức uống nào, nên họ có thể gây nên gương xấu. Vì thế,
cần phải thận trọng trong khi ăn trong khi uống.
Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này,
chúng ta biết rằng thánh nhân thường có thói quen đẩy
cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những bận lòng.
Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư
tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì
Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ,
nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).
Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh
nhân triển khai lời dạy của mình một cách tinh tế như sau: 63
nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả
những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề
lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em:
“Đây là của cúng” thì anh em đừng ăn, để tránh gây gương
xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối
với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng
đừng gây gương xấu cho người ấy.
Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với một
bận lòng duy nhất, đó là “cứu độ tha nhân”. Đây là luật
vàng của Đức Ái.
TIN MỪNG (Mc 1: 40-45).
Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ của Đức Giê-
su ở Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” đi kèm theo,
đặc biệt việc chữa lành bệnh tật. Trong đoạn văn nầy, Chúa
Giê-su chữa lành một người phong hủi.
Bài đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương
mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong
đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật
vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người
phong hủi bày tỏ tấm lòng nhạy bén của Ngài, đồng thời
quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.
1. Vượt qua Lề Luật:
Trước một con người bị xem là đồ ô uế và bị cách ly
khỏi đám đông, không ai dám đến gần, Đức Giê-su đã
“động lòng thương”, một diễn ngữ Tân Ước được dùng để
diễn tả sự đồng cảm sâu sắc dâng lên tận đáy lòng đến nỗi
Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn được.
Vả lại, nhiều lần Ngài để lộ nỗi bận lòng của Ngài đối với
những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi 64
như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với
những người được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các
ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt
thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người
phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn
đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương
trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước
Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu,
làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch
bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành
một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).
Đức Giê-su không ngại đi ngược lại tập tục và quy chế lề
luật về người phong hủi bị cách ly khỏi đời sống xã hội
và đời sống tâm linh: Ngài giơ tay chạm đến người phong
hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra rằng điều làm
cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài nhưng từ
những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới
thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).
2. Tuân thủ Lề Luật:
Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ
Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì
anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê
đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ
vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống
cộng đoàn khi chứng thực rằng anh ta khỏi bệnh và đã chu
toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định.
Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo nghiêm khắc: “Coi
chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta gặp lại ở nơi
Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự
cuồng nhiệt của đám đông làm tổn hại đến sứ mạng của
Ngài. Tuy nhiên, người phong hủi đã không tuân giữ lệnh 65
im lặng nầy nên “Đức Giê-su không thể công khai vào
thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài
thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế được niềm vui
tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?
3. Bệnh phong hủi của tâm hồn:
Quả thật, Đức Giê-su cư xử người phong hủi đáng
thương này như thế nào, thì Ngài cũng cư xử những người
tội lỗi khác cũng như vậy. Ngài không ngại tiếp xúc họ.
Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ
tai tiếng chạm đến mình, và thậm chí Ngài còn đồng bàn
với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi. Như vậy,
Ngài muốn bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội
lỗi của chúng ta. Ngài không muốn khai trừ chúng ta,
nhưng ngược lại là đàng khác khi Ngài công bố: “Người
khẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”
(Mt 9: 12; Mc 2: 17).
Chỉ qua nhân tính của Đức Giê-su, tội nhân mới có thể tiếp
xúc với Thiên Chúa.
Lm. Ignatio Hồ Thông
LOẠI TRỪ VÀ NÂNG ĐỞ
Học Viện Đaminh
“Ngày 28.9.2011, hàng trăm người dân thuộc khu tái định
cư Kho Lào (Hòa Hiệp 3, tổ 14, phường Hòa Hiệp Nam ,
quận Liên Chiểu, Đà Nẵng) đã kéo nhau đến đập phá, ngăn
chặn không cho thi công nhà ở cho 134 hộ dân làng Vân
(còn gọi là làng phong) ở khu tái định cư kề bên. Theo
những người dân này, họ sợ những người vốn là dân làng
phong kia sẽ lây bệnh cho họ”.
Đọc mẩu tin này, nhiều người trong chúng ta sẽ chua chát
nói rằng, sao những người dân Hoà Hiệp ấy lại cư xử như
vậy? Họ chẳng biết là bệnh phong khó lây lắm sao? Dù ta
nghĩ thế nào, sự kiện ấy đã diễn ra, chúng càng cho thấy
nỗi khổ mà bệnh nhân phong gánh chịu. Nhìn sâu hơn,
trong cái nhìn đức tin, ta nhận ra sự phân biệt đối xử cách
ngây ngô vẫn còn đó trong đời sống của người tín hữu.
Sạch – dơ
Trong sách Lêvi, ta nhìn thấy ý tưởng chủ đạo nổi bật đó là
sự phân biệt “sạch – dơ”. Ở đấy người ta được dạy cho
biết những gì thuộc về “sạch”, những gì bị cho là “dơ”. Tất
cả những tiểu tiết quy định ngặt nghèo đều được kể. Phân
tích chúng, các nhà nghiên cứu Kinh thánh cho rằng đó là 69
điều cần thiết cho bước đầu mặc khải đến với con người.
Rằng con người phải chuẩn bị ra sao để được kể vào số
dân Chúa chọn, được kể là tinh tuyền trước nhan Đức
Chúa.
Nhưng điều nghịch lý là càng về sau, người ta lại càng chú
trọng đến hình thức bên ngoài, quên đi ý nghĩa của những
hành vi thanh tẩy, giới hạn giữa sạch và dơ. Khi chú trọng
đến hình thức, người ta sẽ dễ quên mất tâm tình, nội dung
bên trong. Người ta quên rằng chính cái bên trong, xuất
phát nơi tâm hồn con người mới là điều Thiên Chúa hướng
tới khi mặc khải những giới luật Sạch – Dơ. Việc đụng
chạm và chữa lành cho người bệnh phong hôm nay của
Đức Giêsu là một lời khẳng định cho ngầm ý đó.
Chữa lành
Đức Giêsu đã chạm đến và chữa lành người bệnh phong.
Việc giơ tay đụng đến cho thấy Người đã phá bỏ rào cản
ngăn cách giữa Sạch và Dơ ở hình thức bên ngoài. Song
song đó, hành động khác lạ của Người cũng mời gọi ta
nhìn vào sự Sạch – Dơ bên trong. Chính tội lỗi mới là sự
nhơ bẩn ngăn cản người ta đến với Chúa chứ không phải
là sự ố tạp bên ngoài. Như thế, tội lỗi là điều khiến ta nhơ
uế gấp ngàn lần trước mặt Chúa, hơn những gì là khiếm
khuyết bên ngoài. Tự thân mình, ta chỉ có thể tẩy sạch bùn
đất lấm lem chân tay chứ không thể tự mình tẩy xoá, làm
cho tâm hồn nên tinh trắng. Và Đức Kitô cần ta ý thức về
tình trạng tội lỗi và dâng lời cầu xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho con được sạch”. Tất cả những ai khi thành
tâm đến với Chúa bằng thái độ khiêm cung, đều được chữa
lành.
Rất nhiều khi trong cộng đoàn, chúng ta loại trừ, phân biệt
đối xử với nhau bằng những ý niệm Sạch – Dơ do ý thức 70
hệ hay xã hội quy định. Thường chúng chỉ hệ tại vào những
yếu tố bên ngoài như: sang – hèn; giỏi – dở; đẹp – xấu;
giàu – nghèo… Những phân biệt đó khiến chúng ta không
thể đến với người khác, không thể chấp nhận những khiếm
khuyết của người chung quanh. Bài Tin Mừng hôm nay đã
cho chúng ta thấy, quyền phán xét và chữa lành thuộc về
Thiên Chúa. Phần mình, ta chỉ góp tay vào việc chữa lành
của Chúa bằng cách nâng đỡ những người thua thiệt, sa
ngã ở chung quanh. Rất nhiều khi, chỉ một hành vi bác ái
của mình, ta sẽ khiến người khác nhận thấy Chúa vẫn đang
ở bên. Hành động đó của ta không phải là sự đồng loã với
cái ác, với tội lỗi. Nhưng đó là sự ý thức về thiếu sót của
mình. Vì “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin
vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không
có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích
của mình” (Rm 15,1). Xa hơn, đó là hành vi của những
người thống hối, đứng trong hàng ngũ những kẻ luôn kêu
cầu lòng thương xót của Chúa chúng ta.
Gợi ý chia sẻ
Bạn có kinh nghiệm nào về sự loại trừ? Làm sao bạn có thể
vượt qua được? Sự nâng đỡ của những người chung
quanh có ý nghĩa nào? Hãy chia sẻ kinh nghiệm đó.
Học Viện Đaminh
NHỮNG TÔNG ĐỒ NGƯỜI PHONG CÙI
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y bị mọi người kinh
tởm xa lánh như bệnh siđa ngày nay vậy. Trong Đạo Do
Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ
không được sống chung với thân nhân trong xóm làng,
nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi
hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu 71
phải kêu lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà tránh xa.
Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng
chạm vào người bệnh phong bị coi như người mắc tội rất
nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người
bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân
xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nổi đau, nỗi nhục
trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại
trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm
không được tôn trọng, họ sống mà coi như đã chết. Nhưng
chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những
nổi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm thiêu đốt.
Chúa Giêsu đã vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám
đến gần người bệnh phong. Và Người còn đưa tay chạm
vào thân mình lỡ loét ấy. Lòng thương yêu đã khiến Chúa
Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu
đã bất chấp những điều được coi là cấm kỵ của Đạo Do
Thái. Khi chữa khỏi bệnh phong, Chúa Giêsu giải thoát
người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh
không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở
nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn
mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thao tao. Anh là một con
người như bao con người khác.
Điều quan trọng hơn, đó la khi chữa anh khỏi bệnh nan y,
đồng thời Chúa Giêsu cũng giải phóng anh khỏi những mặc
cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi chạm
đến thân thể anh thì Người cũng chạm đến tâm hồn anh.
Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh, nay qua
Chúa Giêsu anh cảm thấy mọi người gần gũi thân thương.
Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt, nay anh cảm thấy
được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi, nay dưới
bàn tay dịu hiền của Chúa Giêsu anh cảm thấy đựoc yêu 72
thương vỗ về. Nhữg vết thương trong tâm hồn nay đã lành
lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời
sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với Thầy Cả
theo luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã
hội, nay anh đựoc bàn tay âu yếm ân cần của Chúa đón
nhận anh trở lại với xã hội loài người. Qua vị thượng tế anh
được công khai đón nhận. Nhân phẩm được phục hồi,
danh dự được tôn trọng. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống
giữa mọi người như mọi người.
Chúa Giêsu đã chữa lành thể xác và tâm hồn của người
bệnh phong. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ của anh đã
chạm đến lòng lòng thương xót của Chúa. Phép lạ phát
sinh từ lòng tin của bệnh nhân và từ ý muốn đầy quyền
năng của Chúa Giêsu.
Có một môn đệ theo gương Thầy Chí thánh đã đến ở giữa
người cùi, cùng sống và đã chết giữa họ. Đó là Cha
Đamiên mà Đức Hồng Y FX.Nguyễn Văn Thuận đã kể
trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy
vọng”. Vị Tông đồ người hủi ấy đã được Giáo hội phong
thánh.
Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người hủi: cụt
tay, đứt chân, mắt đui, môi lở, răng rụng...
Một hôm, Đức Giám Mục đặc trách quần đảo này gióng
tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh
sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh,
khoẻ mạnh hăng hái đáp lời. Đó là Cha Đamiên, người về
sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ người hủi”.
Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ ở đảo Molokai đông nghẹt
những người hủi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc,
Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu
với giáo dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước
có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Đamien,
một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay
cho đến chết. Các con có sung sướng không?”
Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng
cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tý nào. Rồi họ từ từ tiến
lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đamiên
càng nhìn thấy họ đến gần mình thì càng sởn tóc gáy. Họ
trông như những thây ma còn sống, như những quái thai
mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha
sờ vào mặt, vào tay, vào áo Cha... Cha hỏi Đức Giám Mục:
“Thưa Đức Cha, họ làm gì thế? Họ nói gì thế?” Đức Cha trả
lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở
phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ,
đẹp trai, không bệnh tật như Cha, tự nhiên lại đến phục vụ
họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin mắt mình
nên mới đến sờ mó vào người Cha, xem thử Cha có thực
sự bị phung hủi như họ không. Rồi họ nói với nhau:
”Không, Cha đẹp quá !”
Dần dần, Cha Đamiên hoà đồng được với họ. Ngài không
còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn,
ngài quá yêu Chúa Giê-su bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn
thấy e sợ, gớm ghiếc chi.
Một ngày kia, đến lượt Cha cũng bị mắc bệnh phong hủi.
Thân hình Cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày Cha sù sì, đen
đủi, u nần trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình Cha
Đamiên để mô tả sự hy sinh vĩ đại của Cha. Bà cụ thân 74
sinh của Cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình
cũng chẳng nhận ra nổi người con yêu. Bà hỏi các con
trong gia đình: “Hình ai đây mà trông mà trông ghê sợ
vậy?” Các con đều trả lời mẹ: Thưa mẹ, đó là một trong
những người hủi trên đảo Molokai của anh Đamiên đấy”.
Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai
bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ... Cha Đamiên đã sống với
người hủi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp Cha hy sinh
suốt đời vì họ.
Ở Việt Nam có hai trại cùi lớn: trại Di Linh trên đường lên
Đà Lạt và trại Quy Hoà ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn. Đức
Cha Gio-an Cassaigne đã gắn bó với anh em dân tộc K’Hor
ở Di Linh bị phong cùi một thời gian dài, rồi sau 15 năm làm
Tổng Giám Mục Sài-gòn, đã lại xin tình nguyện quay trở về
sống giữa những người bệnh cùi ở Di Linh. Ngài sống với
họ thêm 18 năm rồi lây bệnh và qua đời năm 1973. Trái tim
của người Việt Nam và cả thế giới đều rung cảm, ai cũng
cảm phục tấm gương chứng nhân của ngài.
Cha Phao-lô Mahu, một Linh Mục người Pháp đã từ giã
quê hương với cuộc sống tiện nghi đến sống giữa những
người cùi ở Quy Hoà cho đến chết. Xác ngài được chôn cất
ngay giữa làng cùi bên cạnh những người ngài thương yêu
nhất.
Ngày nay các Giáo Xứ khắp nơi gần xa thường tổ chức
hành hương đến Di Linh, Quy Hoà để viếng mộ Đức Cha
Cassaigne và Cha Mahu, thăm viếng và tặng quà cho các
bệnh nhân.
Các Nữ Tu của các Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn và Phansinh Thừa Sai Đức Mẹ đã đến sống phục vụ giữa những người bị xã hội xa lánh loại trừ. Chính tình yêu Chúa Ki-tô 75
đã thúc đẩy các môn đệ đến sống với họ, yêu mến họ,
chăm sóc phục vụ họ... Chúa đã sờ đến người cùi và họ
liền được lành sạch. Các môn đệ của Chúa cũng sờ vào
người cùi, sống với người cùi đem lại cho họ tình thương,
bình an và niềm vui.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
BỆNH NGUY HIỂM
Gm. JB. Bùi Tuần
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong
cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Thánh của tôi thực vất
vả. Có thể ví cuộc đời ấy như một chuyến đi đầy trắc trở.
Nhưng những gian nan trắc trở đó đã được vượt qua. Hơn
thế nữa, đức tin được tôi luyện đã đào tạo nên nhiều con
người biết sống công bình bác ái. Nhờ đâu? Tất nhiên là
nhờ ơn Chúa. Nhưng chắc chắn cũng nhờ nhiều tín hữu,
nhất là nhiều vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đã biết
khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Các vị đã cùng nhau tiến
lên trong mọi chặng đường lịch sử khác nhau với tâm hồn
sáng suốt.
Bây giờ, Ðạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử:
Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo.
Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa
già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một
cảnh báo. Ðó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy
hiểm cho Ðạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong
thời cạnh tranh giữa các giá trị.
Chứng bệnh đó là bệnh mù quáng. Mù quáng trong sống
đạo được Kinh Thánh đề cập đến nhiều cách. Ở đây tôi chỉ
nêu lên bốn dạng mù quáng dễ gặp thấy.
1/ Mù quáng, vì không nhận ra cái chính, cái phụ
Chúa Giêsu có lúc đã đau buồn phải nói sự thực với các
kinh sư và Pharisêu: “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn
đường mù quáng... Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc
hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất
trong Lề luật là công bình, lòng thương xót và sự thành
tín... Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng. Các ngươi lọc
con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,23-24).
Những lời Chúa Giêsu phiền trách trên đây xem ra đang
ứng nghiệm ở nơi này nơi nọ. Tình hình đạo ở những chỗ
đó được tiếng là thêm mở mang, thêm hoạt động, thêm luật
lệ. Nhưng lòng đạo thực ra chỉ được xây dựng bằng những
giá trị phụ.Người ta gọi đạo kiểu đó là đạo hình thức, đạo
gánh nặng, đạo bề ngoài, đạo phong trào. Nhưng không
thiếu người tự mãn với lối sống đạo như thế. Chúa thì dứt
khoát không hài lòng. Người gọi những người giữ đạo kiểu
đó là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy
hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con
người vào ẩn trú trong đó. Hơn nữa, nó càng nguy hiểm,
khi lôi kéo, thậm chí ép buộc nhiều người khác đi vào não
trạng sai lạc về đạo, bám vào một nếp sống đạo dễ dàng
biến chất. Hy vọng cảnh đó sẽ không nhiều tại Việt Nam .
2/ Mù quáng, vì không nhận ra đoàn lũ quỷ dữ rình rập
mình thường xuyên.
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô gởi các giáo đoàn,
Ngài đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì quỷ
dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh
tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).
Danh từ quỷ dữ mà thánh Phêrô dùng ở đây không những
chỉ đích danh các tướng quỷ và thuộc hạ ác ôn vô hình luôn
rảo quanh chúng ta, mà cũng ám chỉ các lực lượng xấu
hữu hình xung quanh ta. Ðó là những thứ văn hoá đồi truỵ,
những phong trào gây hận thù chia rẽ, những nhóm đầu tư
đủ loại mưu mô quỷ quyệt, những lối sống kích thích huỷ
hoại luân lý, những định kiến hẹp hòi, kiêu căng.
Thánh tông đồ Phêrô nói rõ với tín hữu là chỉ với tiết độ và
tỉnh thức, người ta mới nhận diện được mặt thực của quỷ
dữ và mới đối phó được với chúng một cách có hiệu quả.
Nhưng thực tế nhiều nơi cho thấy sự tiết độ và tỉnh thức có
vẻ như đang bị lơ là. Do đó mà không ít người trở nên dần
dần mù quáng. Họ không những không nhận ra đoàn lũ các
loại quỷ dữ đang hoạt động ráo riết xung quanh mình, mà
còn nhởn nhơ hoà nhập và tích cực cộng tác vào những cái
xấu của chúng.
3/ Mù quáng, vì không biết nhận xét thời đại mình sống
Chúa Giêsu có lần đã cảnh báo nặng lời: “Những kẻ đạo
đức giả kia, cảnh sắc trời đất, thì các ngươi biết nhận xét,
còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét?
Sao các ngươi không tự mình xét xem cái gì là phải” (Lc
12,56-57).
Lời Chúa phán trên đây, nếu áp dụng vào nhiều người có
đạo thời nay, thì thiết tưởng không sai. Bởi vì theo các nơi
hành hương và huấn giáo, thì thời nay có hai việc Chúa
muốn ta làm:
- Việc thứ nhất là sám hối, đền tội, đổi mới bản thân ta.
- Việc thứ hai là tin vào Thiên Chúa giàu tình yêu
thương xót và hãy đến với Người bằng những việc ta
xót thương người khác, như Chúa thương xót ta.
Thế nhưng, cách sống của bao người tín hữu hôm nay tỏ
ra mình chưa nhìn thấy rõ bao con đường Chúa đang đợi
họ trong thời đại này.
4/ Mù quáng, vì không nhận ra Chúa đến và ở giữa lịch
sử nhân loại
Phúc Âm thánh Gioan viết: “Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế
gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận
biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà
chẳng chịu đón Người” (Ga 1,10-11).
Ðọc mấy dòng trên, chúng ta cảm thấy buồn. Người nhà
của Chúa là chính những người công giáo chúng ta. Nhưng
biết đâu biết bao lần Chúa đến với ta, mà ta không đón
nhận Người. Người đến qua Kinh Thánh, qua các bí tích,
qua Hội Thánh. Ngoài ra, Người cũng đến qua nhiều ngả
khác, như qua các biến cố lịch sử, qua các thành công và
thất bại của ta, qua các nền văn hoá chất lượng, qua các
sách báo và gương sáng nhắc nhở của cá nhân và tập thể,
trong và ngoài Ðạo ta.
Nhưng, chúng ta nhiều khi tự mãn, không nhìn và không
muốn nhìn, cho nên kể như tự mình trở nên mù quáng. Mọi
thứ mù quáng đều đáng tiếc. Nhưng mù quáng không nhìn
nhận Chúa đến với ta, đó quả là một tai hoạ kinh khủng.
Kinh nghiệm tại nhiều nơi cho thấy: Ðạo Chúa thời khó thì
chất lượng phát triển. Ðạo Chúa thời dễ thì chất lượng suy
thoái.
Chúng ta cũng nên nhìn sự phát triển của các tôn giáo bạn
hiện nay trong nước ta và tại các nước xung quanh, nói
chung là tại Á châu. Tại nhiều nước Á châu, văn hoá dân 79
tộc là văn hoá một tôn giáo nào đó phủ kín khắp nước. Tất
nhiên văn hoá đó và tôn giáo đó không phải là công giáo.
Ai trong chúng ta cũng có nhiều giới hạn. Nên chúng ta rất
cần cầu nguyện.
Thiết tưởng vấn đề này nên được nhận thức sớm, với
những nghiên cứu mới, sáng kiến mới, dấn thân mới. Kẻo
sẽ quá muộn. Vì lịch sử đất nước, khu vực và thế giới,
đang chuyển biến rất mau, với những bất ngờ dễ sợ.
Gm. JB. Bùi Tuần
NGƯỜI TÀN TẬT DẠY CHÚNG TA HIỂU
TÌNH YÊU CỦA ƠN CỨU ĐỘ
Sr. Jean Berchemans Minh Nguyệt
Vừa hoàn tất chương trình nơi đại học Bangalore thuộc miền Nam Ấn
Độ, nữ bác sĩ Bibiana Mary nghĩ ngay đến việc dành thời gian ngắn
phục vụ các trẻ em nghèo tàn tật. Các em sống nơi một Trung Tâm do
các tu sĩ dòng thánh Luigi Orione (1872-1940) trông coi tại cứ điểm
truyền giáo Moltalban bên Phi-luật-tân.
Xin nhường lời cho nữ bác sĩ Bibiana Mary.
Tôi đang đi dọc theo hành lang và bước vào căn phòng thì
thấy Joey đang tiến về phía giường của Mark. Cậu thiếu
niên nâng bạn lên, thay quần áo để mặc cho bạn bộ đồng
phục rồi đặt bạn ngồi trên chiếc xe lăn. Joey cẩn thận kiểm
soát để bạn ngồi ngay ngắn, thắt dây an-toàn cho bạn rồi
đẩy xe lăn đi về phía phòng học. Nhìn thấy tôi, Joey nhoẻn
miệng cười thật tươi rồi vẫy tay nói với tôi:
- Chào tạm biệt bác sĩ nhé!
Điều tôi vừa kể cho quý vị nghe xem ra là những diễn tiến
bình thường. Nhưng đối với tôi, câu chuyện lại khác 80
thường, bởi vì nó thay đổi hoàn toàn não trạng và quan
niệm sống của tôi. Tôi tự nhủ:
- Nếu Joey - thiếu niên 15 tuổi - bị tàn tật tâm trí,
không biết nói năng đàng hoàng, lại có thể chăm sóc
kỹ lưỡng chu đáo Mark người bạn bị tê liệt, thì chúng
ta - những kẻ được xem là bình thường - lại không có
thể quan tâm săn sóc người khác sao???
Trên đây chỉ là một trong muôn vàn cử chỉ và hành động
đáng yêu mà tôi diễm phúc trông thấy tận mắt nơi Trung
Tâm ”Cottolengo Filippino”. Trung Tâm do các tu sĩ Don
Orione đảm trách dành cho 40 bạn trẻ bị tàn tật đủ loại:
hoặc tâm trí hoặc thể xác như tê liệt và chậm trí, điếc và
câm hoặc mù lòa. Tất cả đều là thanh thiếu niên nghèo
hoặc bị bỏ rơi.
Ngày đầu tiên đặt chân đến Trung Tâm tức khắc tôi được
mọi người nồng hậu tiếp đón, đặc biệt từ phía các bạn trẻ
tàn tật. Các em vây quanh tôi, nhoẻn miệng cười thật tươi,
giơ tay vuốt ve tôi thật trìu mến. Rồi các em chạy nhảy, vỗ
tay hò hét để báo cho mọi người biết là có một người khách
đến viếng thăm Trung Tâm. Rồi vỏn vẹn vài tuần lễ sau đó
tôi trở thành nữ bác sĩ thân thương của tất cả các em! Thật
tuyệt vời!
Thế nhưng không phải chỉ riêng tôi mà bất cứ vị khách nào
bước chân vào Trung Tâm cũng đều được các em tàn tật
đón tiếp niềm nở, theo một cung cách giản dị đơn sơ nhất.
Sự kiện này khiến cho khách lạ bỗng cảm thấy mình thuộc
về phần tử của gia đình trung tâm.
Điều gây ấn tượng và ngưỡng mộ nhất nơi tôi chính là:
mặc cho mọi mức độ tàn tật đôi khi thật trầm trọng, các
thiếu niên tàn tật mỗi ngày đương đầu với cuộc sống cách 81
thật can đảm. Các em không phải chỉ sống còn, nhưng thật
sự là các bậc anh hùng! Nhiều em bị bắt buộc nằm yên trên
giường, hít thở nhờ máy móc. Nhưng em nào cũng sống
tràn đầy cuộc sống của mình, dĩ nhiên là với sự trợ giúp
của nhiều người khác, đặc biệt là các ”nanai - mẹ nuôi”,
chăm sóc thương yêu các em như chính con ruột của các
bà!
Giống như các cánh hoa, mỗi đóa đều có hương thơm và
màu sắc riêng biệt thì các em tàn tật này cũng thế. Mỗi em
với nét tàn tật riêng vẫn ẩn chứa tài năng thật mênh mông
bất ngờ. Nếu được tập luyện và hướng dẫn các tài năng
phát triển tối đa. Chỉ cần nhìn các em nhảy múa, vẽ vời
hoặc nguyên sự kiện có thể tự túc trong việc ăn uống cũng
đủ thấy khả năng bao la của các em. Tôi xin giải thích. Đối
với chúng ta là người bình thường, thì tất cả các tác động
đều là chuyện dễ dàng. Trong khi đối với các em tàn tật,
những gì các em thực hiện đều là kết quả của không biết
bao nhiêu là tập luyện, đôi khi đòi hỏi những cố gắng thật
phi thường!
Trong thời gian phục vụ tại Phi-luật-tân tôi còn may mắn
làm việc chung với nữ tu Maria Rosa Zbicajnik cũng là bác
sĩ nơi nhà thương Payatas ở Quezon City . Chúng tôi sát
cánh trong các công tác phục vụ dân nghèo nơi các vùng
xa xôi hẻo lánh. Qua các hoạt động này tôi thầm nghĩ:
- Ở Ấn Độ hay tại Phi-luật-tân nơi đâu dân nghèo cũng có
cùng hoàn cảnh đáng thương!
Vậy thì bổn phận của chúng ta phải làm gì để có thể giúp
cho cuộc sống của người nghèo có thể khá hơn xứng với
nhân phẩm hơn? Tôi tự hỏi và tự trả lời:
- Không cần làm những công việc to tát mà chỉ cần làm tất
cả những gì chúng ta có thể làm, cho dù xem ra nhỏ bé 82
nhất, để góp phần thoa dịu nỗi đau khổ và túng cực của
dân nghèo.
Tôi ra đi đến Phi-luật-tân với tư tưởng đem khả năng phục
vụ các trẻ em tàn tật. Giờ đây tôi lại cảm nghiệm rằng:
- Chính các em tàn tật mới là người giúp đỡ tôi. Các em
dạy tôi một bài học vô cùng quý giá.
Tôi xin trưng dẫn lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói về
người tàn tật để kết thúc chứng từ:
- Người tàn tật dạy chúng ta hiểu thế nào là Tình Yêu
cứu độ. Họ là sứ giả của một thế giới mới không
thống trị bởi sức mạnh bởi bạo lực và bởi uy hiếp
nhưng là xây dựng trên Tình Yêu, tình liên đới và
trên sự chấp nhận lẫn nhau.
... ”Phải nói rằng: các dân ngoại không tìm cách để được
nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên
công chính là nhờ Đức Tin. Còn dân Israel tìm một luật làm
cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao
thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ Đức Tin,
nhưng nhờ việc làm .. Thưa anh em, lòng tôi những ước
mong và tôi cầu xin cho dân Do Thái được cứu độ. Quả
thế, tôi làm chứng cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với
THIÊN CHÚA, nhưng lòng nhiệt thành đó không được sáng
suốt, họ không nhận biết rằng chính THIÊN CHÚA làm cho
người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự
sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên
Chúa làm cho người ta nên công chính. Quả thế, cứu cánh
của Lề Luật là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, khiến bất cứ ai TIN
đều được nên công chính” (Thư gởi tín hữu Roma 9,30-32/10,1-4).
Trích dịch từ: (”Don Orione oggi”, Rivista mensile della Piccola Opera della Divina
Provvidenza, Anno CV, n.2, Febbraio 2010, trang 22-23)
Sr. Jean Berchemans Minh Nguyệt
BÀI ĐỌC THÊM
SỨ ĐIỆP CỦA ĐTC BÊNÊDICTÔ 16
NHÂN NGÀY CÁC BỆNH NHÂN 2012
thứ 20, năm nay được cử hành với chủ đề ”Hãy đứng lên và đi; đức tin của
con đã cứu con!” (Lc 17,19). Trong thời gian qua, ĐTC đã cho công bố sứ
điệp của ngài để hướng dẫn suy tư và việc cử hành Ngày này, đồng thời ngài
mời gọi các tín hữu nêu cao giá trị của các bí tích chữa lành là bí tích Thống
Hối hòa giải và bí tích xức dầu bệnh nhân. Sau đây là bản dịch nguyên văn
sứ điệp của ĐTC.
Anh chị em thân mến,
Nhân dịp Ngày Thế giới các bệnh nhân, mà chúng ta sẽ cử
hành ngày 11-2-2012, lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, tôi muốn tái
biểu lộ sự gần gũi tinh thần với tất cả các bệnh nhân đang
ở nơi điều trị hoặc được chăm sóc trong gia đình, bày tỏ
với mỗi người mối quan tâm và lòng quí mến của toàn thể
Giáo Hội. Khi quảng đại và yêu thương đón nhận mỗi sinh
mạng con người, nhất là những người yếu đuối và bệnh tật,
tín hữu Kitô biểu lộ khía cạnh quan trọng trong chứng tá Tin
Mừng của mình, theo gương Chúa Kitô, Đấng đã cúi mình
trên những đau khổ thể lý và tinh thần của con người để
chữa lành họ.
1. Năm nay, là năm chuẩn bị gần cho việc cử hành trọng
thể Ngày Thế Giới các bệnh nhân sẽ tiến hành tại Đức vào
ngày 11-2-2013 và sẽ suy tư về hình ảnh biểu tượng của
Tin Mừng về người Samaritano (Xc Lc 10,29-37), tôi muốn
nhấn mạnh về ”các bí tích chữa lành”, tức là Bí tích Thống
Hối và Hòa giải, và bí tích Xức Dầu bệnh nhân, các bí tích
này được viên mãn tự nhiên trong sự Hiệp Thông Thánh
Thể.
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với 10 người phong cùi,
được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca (Xc Lc 84
17,11-19), đặc biệt là lời Chúa nói với một người trong số
họ: ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu con!”, giúp
ta ý thức tầm quan trọng của đức tin đối với những người
đang chịu đau khổ và bệnh tật mà đến gần Chúa. Trong
cuộc gặp gỡ Chúa, họ có thể thực sự cảm nghiệm rằng ”ai
tin tưởng thì không bao giờ lẻ loi!” Thực vậy, trong Con của
Ngài, Thiên Chúa không bỏ mặc chúng ta cho những lo âu
và đau khổ của chúng ta, nhưng Ngài gần gũi chúng ta,
giúp chúng ta chịu đựng chúng và Ngài mong ước chữa
lành tâm hồn chúng ta một cách sâu xa (Xc Mc 2,1-12).
Đức tin của người phong cùi duy nhất, khi thấy mình được
chữa lành, đầy kinh ngạc và vui mừng, không như những
người khác, đã lập tức trở lại gặp Chúa Giêsu để biểu lộ
lòng biết ơn; đức tin ấy cho chúng ta thấy rằng sức khỏe
được phục hồi là dấu chỉ một điều quí giá hơn so với sự
khỏi bệnh thể lý, là dấu chỉ ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban
cho chúng ta qua Chúa Kitô; điều ấy được biểu lộ qua lời
Chúa Giêsu: ”Đức tin của con đã cứu con”. Ai ở trong đau
khổ và bệnh tật mà kêu cầu Chúa, thì chắc chắn tình yêu
của Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ, và cả tình yêu của
Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu, tình yêu này chính là sự
kéo dài trong thời gian công trình cứu độ của Chúa”. Như
thế, sự lành bệnh thể xác, diễn tả ơn cứu độ sâu xa, tỏ cho
thấy tầm quan trọng của con người đối với Chúa, trong
toàn thể linh hồn và thân xác của họ. Vả lại, mỗi bí tích diễn
tả và thực hiện sự gần gũi của chính Thiên Chúa, Đấng
theo một thể thức hoàn toàn nhưng không, ”đánh động
chúng ta qua những thực tại vật chất... mà Ngài dùng
chúng, biến chúng thành những phương thế để chúng ta và
Ngài gặp gỡ nhau” (Bài giảng, Thánh lễ làm phép Dầu, 1-4-
2010)
Nghĩa vụ chính yếu của Giáo Hội chắc chắn là loan báo
Nước Thiên Chúa, ”nhưng chính việc loan báo này phải là 85
một tiến trình chữa lành: ”.. băng bó các vết thương của
tâm hồn tan nát” (Is 61,1)” (Ibid.). Vì thế, sự liên kết giữa
sức khỏe thể lý và sự canh tân những sâu xé trong tâm hồn
giúp chúng ta hiểu rõ hơn ”các bí tích chữa lành”.
2. Bí tích Thống Hối thường ở trung tâm suy tư của các vị
Chủ Chăn trong Giáo Hội, chính vì tầm quan trọng của bí
tích này trong hành trình đời sống Kitô, xét vì ”toàn thể giá
trị của Sự Thống Hối hệ tại trả lại chúng ta cho ơn thánh
của Thiên Chúa, liên kết chúng ta với Ngài trong một tình
bạn thân mật và cao cả” (Sách Giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo, 1468). Giáo Hội, khi tiếp tục loan báo ơn tha thứ và
hòa giải mà Chúa Giêsu làm vang dội, không ngừng mời
gọi toàn thể nhân loại hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng.
Giáo Hội lập lại lời kêu gọi của thánh Phaolô Tông Đồ:
”Nhân danh Chúa Kitô.. chúng tôi là những sứ giả: qua
chúng tôi chính Thiên Chúa nhắn nhủ. Nhân danh Chúa
Kitô, chúng tôi nài xin anh em: hãy hòa giải với Thiên Chúa”
(2 Cr 5,20). Trong cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu loan
báo và làm cho lòng từ bi của Chúa Cha hiện diện. Ngài
đến không phải để lên án, nhưng để tha thứ và chữa lành,
để mang lại hy vọng cả trong tình trạng tăm tối nhất của
đau khổ và tội lỗi, để trao ban sự sống đời đời; vì thế, trong
Bí tích Thống Hối, trong ”y dược của phép giải tội”, kinh
nghiệm về tội lỗi không làm nảy sinh tuyệt vọng, nhưng gặp
gỡ Đấng là Tình Thương tha thứ và biến đổi (Xc Gioan
Phaolô 2, Tông Huấn hậu THĐGM ”Hòa giải và Thống Hối”,
31).
Thiên Chúa, ”giàu lòng xót thương” (Ep 2,4), như người
cha trong dụ ngôn của Tin Mừng (Xc Lc 15,11-32), không
khép kín tâm hồn đối với một người con nào, nhưng Ngài
chờ đợi họ, tìm kiếm, tìm đến với họ tại nơi mà sự phủ
nhận tình hiệp thông khép kín họ trong sự cô lập và chia rẽ, kêu gọi họ tụ tập quanh bàn ăn của Ngài, trong vui mừng
của đại lễ tha thứ và hòa giải. Những lúc đau khổ, khi mà
bệnh nhân dễ bị cám dỗ rơi vào tình trạng nản chí và tuyệt
vọng, có thể biến thành một thời điểm ân phúc, giúp họ trở
về với chính mình, và như người con hoang đàng, nghĩ lại
cuộc sống của mình, nhìn nhận những lỗi lầm và thiếu sót,
nhớ nhung vòng tay ấp ủ của người Cha, và tái khám phá
con đường về Nhà Cha. Trong tình yêu thương bao la,
Ngài luôn tỉnh thức canh chừng cuộc sống chúng ta, chờ
đợi chúng ta để trao tặng cho mỗi người con trở về cùng
Ngài hồng ân hòa giải trọn vẹn và niềm vui mừng”.
3. Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu luôn tỏ ra
đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Không những
Ngài sai các môn đệ đi săn sóc các vết thương (Xc Mt 10,8;
Lc 9,2; 10,9), nhưng Ngài còn thiết lập cho họ một Bí tích
đặc biệt: bí tích Xức dầu bệnh nhân. Thư của Thánh
Giacôbê làm chứng về sự hiện diện của cử chỉ bí tích này
trong cộng đồng Kitô đầu tiên (Xc 5,14-16): Với việc Xức
dầu bệnh nhân, kèm theo lời cầu nguyện của các linh mục,
toàn thể Giáo Hội phó thác các bệnh nhân cho Chúa đã
chịu đau khổ và được vinh hiển, để Ngài thoa dịu những cơ
cực và cứu vớt họ, Giáo Hội cũng khuyên họ hãy kết hiệp
trong tinh thần với cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô,
để góp phần vào thiện ích của Dân Chúa.
Bí tích ấy đưa chúng ta đến chỗ chiêm ngắm hai mầu
nhiệm về Núi Cây Dầu, nơi Chúa Giêsu đứng trước con
đường Chúa Cha đã chỉ cho Ngài, con đường khổ nạn, cử
chỉ tột đỉnh của tình thương, và Ngài đã đón nhận con
đường ấy. Trong giờ thử thách đó, Ngài là Đấng trung gian,
”mang trong mình, nhận lấy đau thương và khổ nạn của thế
giới, biến nó thành tiếng kêu lên Thiên Chúa, đưa đau khổ
tới trước mắt và trong tay của Thiên Chúa, và qua đó mang
đau khổ thực sự vào thời điểm cứu chuộc” (Lectio divina,
Cuộc gặp gỡ hàng giáo sĩ Roma, 18-2-2010). Nhưng ”Núi
Cây Dầu .. cũng là nơi từ đó Ngài lên cùng Chúa Cha, vì
thế đó là nơi cứu chuộc... Hai mầu nhiệm này về Núi Cây
Dầu cũng luôn luôn ”tác động” trong dầu bí tích của Giáo
Hội.. dấu chỉ lòng nhân từ của Thiên Chúa Đấng động đến
chúng ta” (Bài giảng, Thánh Lễ làm phép Dầu, 1-4-2010).
Trong việc Xức Dầu bệnh nhân, có thể nói chất liệu bí tích
dầu được ban cho chúng ta ”như dược phẩm của Thiên
Chúa.. thuốc này giờ đây làm cho chúng ta chắc chắn về
lòng từ nhân của Ngài, nó phải củng cố và an ủi chúng ta,
nhưng đồng thời, vượt lên trên thời kỳ bệnh tật hiện nay,
hướng chúng ta về sự chữa lành chung kết, là sự sống lại
(Xc Gc 5,14” (Ibid.).
Ngày nay Bí tích này đáng được để ý hơn, trong suy tư
thần học, cũng như trong hoạt động mục vụ cho các bệnh
nhân. Khi đề cao nội dung kinh nguyện phụng vụ được
thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau của con người
với bệnh tật, và không những vào lúc cuối đời mà thôi (Xc
Sách Giáo Lý Công Giáo, 1514), Bí tích Xức Dầu bệnh
nhân không thể bị coi là một bí tích ”hạng nhỏ” so với các bí
tích khác. Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh
nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối
với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm
tinh thần cho cả các LM và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý
thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính
là làm cho Chúa Giêsu” (Xc Mt 25,40).
4. Về ”các bí tích chữa lành”, thánh Augustinô khẳng định:
”Thiên Chúa chữa lành tất cả các bệnh tật của con”. Vì thế,
con đừng sợ: tất cả bệnh tật của con sẽ được chữa lành..
Con chỉ cần để cho Ngài chữa lành con và đừng đẩy xa
bàn tay của Ngài” (Giải thích về Thánh Vịnh 102,5: PL 88
36,1319-1320). Đó là những phương thế quí giá của ân
thánh Chúa, giúp các bệnh nhân ngày càng trở nên đồng
hình dạng với Mầu Nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa
Kitô”. Cùng với hai Bí tích này, tôi muốn nhấn mạnh tầm
quan trọng của Bí tích Thánh Thể. Khi được lãnh nhận
trong lúc bệnh tật, Thánh Thể góp phần đặc biệt vào công
trình biến đổi ấy, liên kết người được nuôi sống bằng Mình
Máu Thánh Chúa Giêsu với hy tế Ngài tự hiến dâng lên
Chúa Cha để cứu độ mọi người. Toàn thể cộng đoàn Giáo
Hội và nhất là các giáo xứ, hãy quan tâm đảm bảo cơ hội
cho những người, vì lý do sức khỏe hoặc tuổi tác, không
thể đến nơi thờ phượng, được thường xuyên rước lễ. Như
thế những anh chị em ấy có thể củng cố mối quan hệ với
Chúa Kitô chịu đóng đanh và sống lại, với cuộc sống của
họ được dâng hiến vì tình yêu Chúa Kitô, tham dự vào sứ
mạng của chính Giáo Hội. Trong viễn tượng ấy, điều quan
trọng là các LM phục vụ tại các nhà thương, các dưỡng
đường và tại tư gia của các bệnh nhân, hãy cảm thấy mình
thực sự là những người phục vụ các bệnh nhân, là dấu chỉ
và là phương tiện của lòng từ bi Chúa Kitô, cần được biểu
lộ cho mọi người đang chịu đau khổ (Sứ điệp nhân Ngày
Thế giới các bệnh nhân lần thứ 18, 22-11-2009).
Sự trở nên đồng hình dạng với Mầu Nhiệm Vượt Qua của
Chúa Kitô, cũng được thực hiện qua việc rước lễ thiêng
liêng, việc làm này có một ý nghĩa rất đặc biệt khi Thánh
Thể được ban và đón nhận như của ăn đàng. Trong thời
điểm ấy của cuộc sống, những lời của Chúa càng âm vang
một cách quyết liệt hơn: ”Ai ăn Mình Thầy và uống Máu
Thầy thì có sự sống đời đời và Thầy sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết” (Ga 6,54). Thực vậy, Thánh Thể, nhất
là như của ăn đàng, theo định nghĩa của thánh Ignatio
thành Antiokia, là ”phương dược bất tử, là thuốc chống lại
sự chết” (Thư gửi các tín hữu Ephêsô, 20: PG 5,661), là bí 89
tích chuyển tiếp từ sự chết đến sự sống, từ trần thế này
đến cùng Chúa Cha, Đấng chờ đợi mọi người trong thành
5. Chủ đề sứ điệp này nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân
lần thứ 20, ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu
con!”, cũng liên hệ tới Năm Đức Tin sắp tới, sẽ bắt đầu từ
ngày 11-10-2012, là dịp thuận tiện và quý giá để tái khám
phá sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin, để đào sâu nội dung
đức tin cũng như để làm chứng đức tin trong đời sống
thường nhật (Xc Tông thư Porta fidei, 11-10-2011). Tôi
muốn khuyến khích các bệnh nhân và những người đau
khổ luôn tìm thấy một chiếc neo chắc chắn trong đức tin,
được nuôi dưỡng bằng sự lắng nghe Lời Chúa, bằng kinh
nguyện bản thân và các bí tích, trong khi tôi mời gọi các vị
Mục Tử ngày càng sẵn sàng cử hành các bí tích cho các
bệnh nhân. Noi gương Vị Mục Tử Nhân Lành và trong tư
cách là những người dẫn dắt đoàn chiên đã được ủy thác,
các linh mục hãy tràn đầy vui mừng, ân cần đối với những
người yếu đuối nhất, những người đơn sơ và tội nhân, biểu
lộ cho họ lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa với những lời
đầy hy vọng” (Xc S. Augustino, Lettera 95, 1: PL 33, 351-
352) (SD 3-1-2012)
Tôi tái bày tỏ lòng biết ơn của tôi và của Giáo Hội đối với
những người hoạt động trong thế giới sức khỏe, cũng như
các gia đình, nhìn thấy nơi những người thân của mình
Khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu, vì trong khả năng
nghề nghiệp và trong thinh lặng, tuy nhiều khi không nêu
đích danh Chúa Giêsu, họ vẫn biểu lộ Ngài một cách cụ thể
(Xc Bài giảng, Thánh lễ làm phép Dầu, 21-4-2011).
Chúng ta hãy hướng lên Đức Maria, Mẹ Từ Bi và là Sức
Khỏe của các bệnh nhân, cái nhìn đầy tín thác và kinh 90
nguyện của chúng ta; Ước gì lòng cảm thông từ mẫu của
Mẹ, - được sống cạnh Chúa Con sinh thì trên Thánh Giá, -
tháp tùng và nâng đỡ đức tin và đức cậy của mỗi bệnh
nhân và người đau khổ trên con đường chữa lành các vết
thương thể xác và tinh thần.
Tôi cam đoan nhớ đến tất cả mọi người trong kinh nguyện,
trong khi tôi ban Phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho mỗi
người.
Lễ Chúa Kitô, Vua Vũ Trụ.
Biển Đức 16, Giáo Hoàng.
Lm. Trần Đức Anh OP (chuyển ngữ)
o, Lettera 95, 1: PL 33, 351-
352) (SD 3-1-2012)
Tôi tái bày tỏ lòng biết ơn của tôi và của Giáo Hội đối với
những người hoạt động trong thế giới sức khỏe, cũng như
các gia đình, nhìn thấy nơi những người thân của mình
Khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu, vì trong khả năng
nghề nghiệp và trong thinh lặng, tuy nhiều khi không nêu
đích danh Chúa Giêsu, họ vẫn biểu lộ Ngài một cách cụ thể
(Xc Bài giảng, Thánh lễ làm phép Dầu, 21-4-2011).
Chúng ta hãy hướng lên Đức Maria, Mẹ Từ Bi và là Sức
Khỏe của các bệnh nhân, cái nhìn đầy tín thác và kinh 90
nguyện của chúng ta; Ước gì lòng cảm thông từ mẫu của
Mẹ, - được sống cạnh Chúa Con sinh thì trên Thánh Giá, -
tháp tùng và nâng đỡ đức tin và đức cậy của mỗi bệnh
nhân và người đau khổ trên con đường chữa lành các vết
thương thể xác và tinh thần.
Tôi cam đoan nhớ đến tất cả mọi người trong kinh nguyện,
trong khi tôi ban Phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho mỗi
người.
Lễ Chúa Kitô, Vua Vũ Trụ.
Biển Đức 16, Giáo Hoàng.
Lm. Trần Đức Anh OP (chuyển ngữ)