SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN - A
1. Sửa lỗi anh em – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?
2. Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3. Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?
Câu hỏi gợi ý:
1. Giữa lầm lỗi của mình và của người khác, giữa việc sửa sai lỗi của mình và sửa sai lỗi người khác, cái nào quan trọng hơn? Có cần phải sửa lỗi cho anh em mình không? Tại sao?
2. Cộng đoàn, xã hội hay Giáo Hội trong đó mình đang sống có thể có những sai lỗi không? Mình có trách nhiệm sửa sai tập thể không?
3.
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, ai cũng có lỗi. Bản thân ta cũng có lỗi
Trên đời này, ngoại trừ Đức Giê-su mà ta tin tưởng là hoàn toàn vô tội và không hề lầm lỗi, thì chẳng ai là người hoàn hảo: «nhân vô thập toàn». Ai cũng có lầm lỗi, và ai cũng đều được mời gọi «nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Vì thế, ai cũng cần được sửa lỗi.
Tự nhận ra lầm lỗi hay sai trái của mình, rồi tự sửa đổi, là điều tốt nhất, lý tưởng nhất, nhưng quả rất khó. Tâm lý chung của mọi người là «thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới» (Mt 7,3). Vì thế, mình dễ thấy lỗi của người khác hơn lỗi của mình; ngược lại, người khác dễ thấy lỗi của mình hơn thấy lỗi của họ. Vì thế, để trở nên hoàn thiện, chúng ta hãy giúp nhau nhìn thấy lỗi của mình, bằng cách người này chỉ lỗi cho người kia. Chẳng hạn trong gia đình thì vợ chồng chỉ lỗi cho nhau, cha mẹ con cái chỉ lỗi cho nhau. Trong các cộng đoàn, trong giáo xứ hay trong Giáo Hội cũng vậy.
Điều ấy nói thì dễ, nhưng trong thực tế, không ai thích người khác chỉ lỗi cho mình. Khi có ai chỉ lỗi cho ta, dù có nhận ra người ấy nói đúng, ta vẫn cảm thấy bị xúc phạm khiến ta nóng mặt, nổi quạu, huống gì trường hợp người ấy nói không đúng, hoặc ta không nhận ra người ấy nói đúng. Vì ai cũng coi «cái tôi» của mình quá lớn! Người chỉ lỗi cho ta, dù thiện chí, nhiều khi cũng phải hứng chịu những «trận lôi đình», sự giận hờn, ác cảm, thậm chí sự trả đũa của ta. Nhưng nếu ta ý thức mình chỉ là con người bất toàn, có những lầm lỗi mà mình không hề biết, và nếu ta thật sự mong muốn mình trở nên hoàn thiện, ta sẽ cảm thấy vui mừng và biết ơn khi có người cho ta biết sự sai trái hay thiếu sót của ta. Sự vui mừng và biết ơn khi được sửa lỗi là một điểm thực tế để biết mình có thật sự khiêm nhường và thánh thiện không.
2. Ai cũng phải sửa lỗi. Bản thân ta cũng phải sửa lỗi
Một khi đã nhận ra lỗi của mình, vấn đề kế tiếp là quyết tâm sửa lỗi. Điều này cũng không luôn luôn dễ dàng, vì những sai lỗi nhiều khi là những thói quen cố hữu, lâu năm, hoặc phát xuất từ một quan niệm hay một thành kiến. Bỏ đi một quan niệm hay thành kiến quả rất khó khăn. Ngoài ra, những sai lỗi có thể gắn liền với một quyền lợi hay một thú vui nào đó " đôi khi rất lớn" của ta. Từ bỏ sai lỗi nhiều khi đồng nghĩa với từ bỏ một quyền lợi, một thú vui, một chứng ghiền. Nhưng dẫu thế nào, hễ là điều xấu, là sai trái, thì ta phải sửa sai, nhất là khi nó tai hại cho tha nhân, xã hội, hoặc cho chính bản thân ta. Có chịu sửa lỗi, ta mới trở nên hoàn thiện hơn.
3. Sửa lỗi cho người khác là một việc bác ái
Tự sửa lỗi mình là điều quan trọng nhất trước khi sửa lỗi người khác. Nhiều người chỉ quan tâm sửa lỗi người khác, còn mình thì … chẳng bao giờ chịu sửa:
«Chân mình những lấm mê mê,
lại cầm bó đuốc mà rê chân người» (Ca dao).
Điều đó thật đáng mỉa mai! Tuy nhiên, nếu chỉ sửa lỗi mình mà không hề quan tâm giúp tha nhân sửa lỗi, thì một cách nào đó ta chưa đủ tình thương chân thành đối với họ. Chính Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay cũng khuyên ta phải sửa lỗi cho anh em.
Nhưng hãy xét xem động lực nào thúc đẩy ta sửa lỗi cho anh em? Động lực vị kỷ hay vị tha? Ta muốn sửa lỗi anh em vì yêu thương họ và muốn họ nên hoàn thiện hơn? Hay ta muốn lên mặt chứng tỏ họ kém ta và ta hơn họ? Hay ta chỉ muốn giải quyết ổn thỏa sự thiệt thòi khó chịu họ gây ra cho ta? Cùng là việc sửa lỗi anh em, nhưng một đằng có giá trị yêu thương, được Thiên Chúa chúc phúc, và người được sửa lỗi đón nhận vui vẻ; một đằng chỉ là một hành vi ích kỷ, chẳng mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa, và thường gây bực tức nơi người bị sửa lỗi.
4. Phương cách sửa lỗi người khác
Tình thương, tính vị tha là điều hết sức cần thiết khi ta muốn sửa lỗi anh em. Nhưng không đủ, cần khéo léo, có nghệ thuật, nhất là thể hiện được tình thương hay đức ái. Đức Giê-su có đưa ra một tiến trình sửa lỗi anh em.
a) Một mình mình với người anh em có lỗi: «Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi». Khi ta có lỗi, ta không muốn lỗi của ta được quảng cáo để ai cũng biết ta có lỗi. Nếu có ai muốn sửa lỗi cho ta, ta muốn người ấy kín đáo nói với ta, và chỉ nói với ta thôi, để sau khi sửa lỗi xong, ta như người không hề phạm lỗi ấy. Tại sao ta không làm như thế khi sửa lỗi người khác? Làm như thế, ta chứng tỏ mình tôn trọng danh dự và uy tín của người kia, đó là điều tối thiểu của lòng bác ái.
Nếu lầm lỗi ấy chỉ mang tính cá nhân, không gây tại hại hay tổn thất cho người khác hoặc cộng đoàn, thì ta nên dừng lại ở đây. Bổn phận bác ái của ta tới đây kể như xong. Hãy để cho đương sự quyền tự do, sửa lỗi hay không là tùy họ. Ta phải công nhận điều này: ai cũng có một số tật xấu, sai lỗi, và ai cũng có quyền có một số tật xấu hay sai lỗi nào đó, miễn là không làm hại đến người khác hay xã hội. Nếu con người trong xã hội không có quyền này thì xã hội ấy rõ ràng là thiếu tự do, thiếu nhân quyền. Ta cần tôn trọng tự do của người khác. Chỉ trừ trong gia đình hay trong tu viện: khi con cái hay tu sinh cần được giáo dục, thì tất cả mọi tật xấu đều cần được sửa sai cho dù không đến nỗi có hại cho tha nhân hay xã hội.
b) Dùng biện pháp mạnh hơn: «Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân». Để sửa lỗi, không phải lúc nào nhỏ nhẹ riêng tư cũng thành công, nhất là khi người được sửa lỗi không đủ thiện chí, hoặc người sửa lỗi chưa đủ uy tín hay tiếng nói chưa đủ mạnh. Nếu lầm lỗi này có hại cho nhiều người hoặc cho xã hội, thì người sửa lỗi có bổn phận phải áp dụng một phương pháp mạnh hơn, nhưng cần tiệm tiến, không nên đốt giai đoạn.
- Trước hết nên tìm một hai người khác có uy tín và tình thương đối với người sai lỗi để cùng họ sửa lỗi cho người ấy. Như thế sẽ có một tiếng nói mạnh hơn khiến người kia phải suy nghĩ và sửa lỗi.
- Nếu vẫn không được thì sao? Đức Giê-su nói: «Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh», nghĩa là nên báo cho những người có trách nhiệm đối với người ấy. Chẳng hạn trong gia đình thì có cha mẹ, trong giáo xứ thì có cha sở, trong tu viện thì có cha bề trên, trong giáo phận thì có giám mục, ngoài xã hội thì có chính quyền hay tòa án các cấp… Nếu là người trong Giáo Hội thì nên xử lý nội bộ trước, chừng nào không được thì mới nên đưa ra ngoài đời. Nói chung, sửa lỗi cần phải theo một tiến trình tiệm tiến, từ riêng tư đến công khai, từ nội bộ ra ngoại bộ, từ nhỏ thành lớn, từ đề nghị thành ép buộc… Không nên đốt giai đoạn.
c) Biện pháp cuối cùng khi tất cả mọi biện pháp đều thất bại: Đức Giê-su nói: «Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế». Nếu đã tìm đủ mọi cách để sửa lỗi mà đương sự không nghe, vẫn tiếp tục con đường sai lầm có hại cho tha nhân và cộng đoàn, thì phải dùng một biện pháp thật mạnh, là loại trừ họ khỏi cộng đoàn, coi họ như người ngoại hoặc người thiếu thiện chí. Nên nhớ, cho dù có dùng đến biện pháp này, thì biện pháp này vẫn chỉ là một phương tiện bất đắc dĩ của tình thương, nghĩa là vẫn phải duy trì họ trong tình thương của mình.
5. Can đảm sửa lỗi cho Giáo Hội và xã hội
Không chỉ trên bình diện cá nhân mà một tập thể, một cộng đoàn, một xã hội hay một Giáo Hội cũng có thể sai lỗi và cũng cần được sửa lỗi.
Nếu cộng đoàn của mình có những khiếm khuyết phương hại tới trật tự hay sự phát triển chung của chính cộng đoàn, của xã hội hoặc Giáo Hội, thì các thành viên, nhất là những người lãnh đạo trong cộng đoàn ấy, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai. Sống trong một xã hội có cơ chế bất công, đàn áp, chỉ phục vụ cho một đảng phái hay một thiểu số, bất chấp quyền lợi của đa số dân chúng, thì người trong xã hội ấy, nhất là Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tìm cách cải thiện, đem lại sự công bằng, hợp lý và ổn định cho xã hội.
Nếu trong Giáo Hội mình đang sống có những sai trái, thì tất cả các thành viên, nhất là hàng giáo phẩm và giáo sĩ, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai để Giáo Hội nên hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn hiện nay Giáo Hội đang quá quan tâm tới những lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà thiếu chiều kích sống đạo nội tâm: rất cần điều chỉnh lại. Hoặc trong ba chức năng quan trọng ngang nhau của người Ki-tô hữu, Giáo Hội đang có chiều hướng chỉ quan trọng hóa chức năng tư tế (thờ phượng) mà coi nhẹ hoặc bỏ lửng chức năng vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội, ngoại cảnh) và ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương). Vì thế, trong một xã hội đầy bất công và đàn áp, lối sống đạo què quặt như thế có thể trở thành một thứ thuốc phiện tinh thần làm tê liệt sức đấu tranh cần phải có của quần chúng để chống lại những bất công hay tệ nạn của xã hội.
Thiết tưởng Giáo Hội cần có những nỗ lực sửa sai hơn tất cả mọi tổ chức hay thế lực khác, để Giáo Hội trở nên hoàn thiện, vì chính Giáo Hội luôn luôn rao giảng và cổ võ sự thánh thiện, hoàn hảo như một lệnh truyền của Đức Ki-tô. Giáo Hội cần phải làm gương trong lãnh vực này.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin giúp con ý thức bổn phận trước tiên và trọng đại nhất của con là trở nên hoàn thiện. Nhưng con không thể nên hoàn thiện một mình, con cũng có bổn phận giúp người khác, trong đó có những người chung quanh con, và hơn nữa, cộng đoàn của con, xã hội và Giáo Hội con đang sống. Tất cả đều được Cha mời gọi nên hoàn thiện. Xin cho con biết khéo léo trong việc làm cho tha nhân nên hoàn thiện. Amen.
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
ANH EM SỬA LỖI NHAU
4. Chú giải theo Fiches Dominicales
5. Suy niệm của Noel Quession
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nếu anh em ngươi trót phạm tội”:
câu giả thiết này từ môi miệng Chúa Giê-su thốt ra trước tiên cho thấy rõ ràng al2 Giáo Hội không bao gồm những kẻ hoàn thiện, song là những tội nhân. Sáng kiến Chúa Giê-su khuyên kẻ chứng kiến lỗi anh em nên làm, xem ra mâu thuẫn với lời Người nói trong Diễn từ trên núi về "cọng rác và cái xà" (7, 1- 5). Nhưng động từ được dùng ở đây olegohô, (sửa lỗi, trách cứ) - cũng là động từ trong Ga 16, 8 xác định hành động của Chúa Thánh Thần “sẽ bắt lỗi thế gian" - cho thấy rõ một công việc như thế phải được thực hiện trong tình bác ái và phải diễn tả, không phải một sự khiển trách đầy khinh miệt hay quát mắng kiêu căng, nhưng là niềm hy vọng rằng một nỗ lực vì sự thật như thế sẽ tạo dịp cho hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và dẫn tội nhân ăn năn thống hối. Nếu người đáng khiển trách chịu nghe lời sửa lỗi, đó sẽ là một chiến thắng của Chúa Thánh Thần? "Ngươi đã lợi được anh em người". Không phải “lợi được" một người bạn hay một nạn nhân trong một cuộc chiến đấu, nhưng là lợi được một phần tử của Giáo Hội mà người đó sắp lìa bỏ đi.
"Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa":
Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân bướng bỉnh: bản văn Đnl 19, 15 mà chỉ thị này tham chiếu, đã đưa ra một lô biện pháp nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng giới. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội mà ngươi ta đã kiếm lấy từ trước vì như thật thì thật là ghê tởm, song là những người trợ lực những kẻ có nhiều cơ may thành công nhất trong việc sửa lỗi tội nhân, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết.
"Hãy thưa với cộng đoàn
(Thật là đáng tiếc khi BJ và Nguyễn Thế Thuấn dịch như thế, vì bản Hy ngữ nói rõ ràng "Giáo Hội". Câu này, với 16, 18, là hai nơi duy nhất trong 4 Tin Mừng dùng chữ ekklêsia): Việc đưa tội nhân ta trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Trong trường hợp này, Giáo Hội chẳng còn làm gì khác hơn là công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Chính vì công bố sứ điệp đó mà cộng đoàn nhận được quyền cầm buộc và tháo cởi (c. 18). Quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái. Kết quả là kẻ "chẳng màng nghe Giáo Hội", nghĩa là từ chối nghe lời mời gọi ăn năn, thì đương nhiên tự loại trừ khỏi cộng đoàn được xây dựng trên ân sủng trong Chúa Kitô đó; đương sự không còn là "anh em" nữa. Điều y đã làm khi phạm tội (cách riêng tư), giờ đây cộng đoàn chỉ còn công khai xác nhận và đòi y phải trả lẽ. Y đã tự tách khỏi cộng đoàn vì tội của y, nên cộng đoàn mới chứng thực sự kiện bằng cách ghi nhận y đã từ chối nắm bàn tay đưa ra để lôi y vào.
"Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc":
Việc chuyển đột ngột từ số ít sang số nhiều nầy đặt ra vấn đề ý nghĩa của chữ "các ngươi". Chúa Giêsu ngỏ lời với ai đây? Có kẻ nghĩ là các sứ đồ những người chấp chưởng và là yếu nhân trong phẩm trật Giáo Hội, hay một cách thái quá, là mỗi cá nhân Kitô hữu, cái nghĩa đã bị công đồng Trentô lên án nhưng không đưa ra một lời giải thích đích xác tích cực nào. Văn mạch bảo ta xem chữ các ngươi ấy là toàn thể các môn đồ có một trách nhiệm mục vụ trong cộng đoàn địa phương (xem cc.2. 10. 12. 13, nơi có cùng một chữ các ngươi như thế); nghĩa này đã được thánh Tôma bênh vực. Lời đây cũng song song với lời đã được nói dưới dạng thức một lời hứa cho Phêrô (16, 19). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý truất bãi quyền đã ban cho Phêrô như cho viên.quản gia của mình, nhưng đúng hơn Người muốn liên kết các môn đồ với kẻ nắm giữ chìa khóa ấy.
"Nếu hai người trong các ngươi ":
Thoạt nhìn, giây liên lạc giữa các câu 19-20 với những gì đi trước không rõ ràng cho lắm. Kỳ thực có sự liên tục và khai triển cùng một chủ đề: mọi phán định chính thức của Giáo Hội sẽ được phê chuẩn ở trên trời và ngay cả mọi lời cầu xin của một số người hiệp nhau trong đức tin cũng sẽ được trên trời đoái nhậm. Khi hai người họp nhau trong đức tin trước nhan Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là họ đứng với nhau trên cùng mảnh đất vững chắc của ân sủng, là họ nhận biết mình được hiệp nhất bởi cùng một lòng nhân ái, cùng một lòng tha thứ khiến họ thành anh em, thành conc ái của Cha trên trời. Nơi đâu người ta hiệp nhau “nhân danh Chúa Giê-su”, nghĩa là không phải trong niềm kiêu hãnh thiêng liêng và đức công chính riêng biệt, nhưng là trong việc cung xưng mình là “bé nhỏ", trong việc nhìn nhận mình là tội nhân, thì chỉ nơi ấy mới có sự đợi chờ trong đức tin và vì thế sẽ được nhậm lời; Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó vậy.
"Ta ở giữa họ":
Trong sách "Tuyển tập danh ngôn tiên tổ”, một phần khả kính của truyền thống giáo sĩ Do thái, có một lời diễn tả cùng ý tưởng về lệ luật của dân Thiên Chúa: Khi hai người cùng ngồi bàn luận về những lời của sách Torah, thì Shékinah ở giữa họ" (Pirqé Abot 3,2). Thế mà Shékinah (tiếng Hy bá có nghĩa nơi ở") thoạt tiên chỉ Đám mây sáng chói (Xh 40, 34-38;Cv 16,2) bay lượn giữa hai thần Kérubin trên nắp hòm bia. Đám mây sáng chói này được xem như là vật biểu lộ cách hữu hình việc cư ngụ thường xuyên của Giavê ở giữa dân Ngài. Bây giờ chính Chúa Giêsu hiển vinh đang ở giữa môn đồ Người, một cách gần gũi hơn bất cứ ai ở giữa những người khác.
KẾT LUẬN
Đoạn văn này cho ta thấy rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả cộng đoàn. Tội ấy chẳng những liên can lời Giáo Hội chính thức, tới cái mà ngày nay la gọi là bí tích cáo giải, song còn liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm của mọi phần tử trong cộng đoàn. Đây là một trách nhiệm được san sẻ và được diễn tả cách rõ ràng phân minh. Trước tiên mỗi người có bổn phận khuyên bảo anh em mình, rồi phải có nhiều người đến tiếp tay giúp đỡ, cuối cùng nại đến thẩm cấp tối cao, đến toàn thể cộng đoàn. Bình diện tích được nối kết với bình diện ngoại bí tích, và cả hai trực tiếp liên hệ đến việc cứu rỗi kẻ đã phạm tội.
Ngoài ra đoạn này còn cống hiến một hình ảnh rất sâu xa và rất đẹp về Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu khi người ta cùng tuyên xưa niềm tin vào danh Chúa Giêsu, cái danh mà nhờ đấy ta được cứu rỗi (Cv 4, 12). Và trong việc tuyên xưng đó. Chúa Giêsu trở nên hiện diện. Thiên Chúa ở giữa loài người như vậy đó. Ngài là Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Chính sự hiện diện của Ngài qui hướng lời cầu nguyện chung và đảm bảo chắc chắn lời đó sẽ được chấp nhận. Chính nhờ sự hiện diện của Ngài mà lời phán quyết của cộng đoàn mới có sức mạnh thần linh. Sau cùng chính sự đảm bảo đó là lý do khiến Giáo Hội vững lòng cậy trông và không ngừng hân hoan trên cõi thế.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Không thể có vấn đề chú giải phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay (việc anh em sửa lỗi nhau) như là lời khuyến khích dò xét các người cùng xứ đạo với mình và nhận định họ theo giá tn luân lý của họ. Tất cả mọi lời khuyên đây của Chúa Giêsu chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác ái.
Vì ta thấy chúng đi tiếp sau câu: "Nơi Cha các ngươi Đấng ngự trên trời không hề có ý để mặc hư đi một người nào trong những kẻ nhỏ này". Và thật thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho ta việc ân cần săn sóc anh em ta về mặt tinh thần, thiêng liêng. Giúp một người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay đỡ nâng một người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công việc của Chúa.
2. Nếu có một vài Kitô hữu chuyên xía vào chuyện thiên hạ, thì ngược lại có một số Kitô hữu khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa. Thế mà ở đây Chúa Giêsu dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của anh em tôi. Và vì chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng sẽ có dịp thi hành đối với tôi cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết. Trong cộng đoàn môn đồ của Chúa Giêsu. "Không ai là một hòn đảo"....
3. Sở dĩ ta đến nhà thờ cầu nguyện, chính là để thờ lạy Chúa Giêsu đang hiện diện cách thể lý ở đó, dưới hình bánh hình rượu. Nhưng cũng là để gặp lại anh em ta và hiệp nhất với họ trong kinh nguyện. Và khi, trong một lời nguyện cầu đầy sốt sắng và khiêm tốn, ta đồng tâm nhất với trí kết hợp với anh em trong Giáo xứ, thì ta không chỉ ở trước Mình Thánh Chúa Kitô đang hiện hiện trong nhà tạm mà thôi, mà còn ở trong Mình thánh Người, và làm thành Nhiệm thể Người, vì Chúa Giêsu đã nói:Người sẽ hiện diện giữa ta. Và bấy giờ Chính Chúa Giêsu cầu nguyện ở trong ta. Làm sao chúng ta lại không được nhận lời vì Người đã long trọng tuyên bố: "Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời con" (Ga 11, 42)?
4. Chú giải theo Fiches Dominicales
CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Giáo Hội, một cộng đoàn huynh đệ.
Sau lần thứ nhất loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền "Cêsarée Phiìipphê" đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ đây Ngài tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ thứ tư trong Phúc âm Matthêu "diễn từ về đời sống Giáo Hội". Những hướng dẫn, giúp cho cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của "Cha trên trời".
J. Potin báo trước: "Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời nói khác nhau của Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được Đức Giêsu nói với các môn đệ trong tình thân mật, nhất là trong những tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu thương huynh đệ, khi phải xa lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra sao, tinh thần quan tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho nhau này phải tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm, những lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn. Tới những lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế. Chính vì thế, tác giả Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng diễn một chút cho phù hợp với Giáo Hội "của ông", nghĩa là cộng đoàn của ông. Trước tiên, Đức Giêsu miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới những kẻ "bé nhỏ" tin vào Chúa, những Kitô hữu mà đức tin còn rất mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho những "con chiên lạc, người Kitô hữu tránh xa cộng đoàn và liều mình hư mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn sống động thực hành sự nâng đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có đối với một người "anh em" đã "phạm tội".. Đó là thái độ phải có khi anh chị em bất hoà, xung khắc.
2….Thực hành sự tương trợ và tha thứ lẫn cho nhau.
Sửa đổi anh em: một việc làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của Người Mục Tử tốt lành mới làm ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc âm nói về người "anh em" đã "phạm tội" này. Bản văn không nói về tính chất của tội, nhưng lời Đức Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên Chúa và xúc phạm đến một người anh em, đó cũng là một việc liên quan đến Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những luật lệ và các thực hành ít nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi anh em vừa giúp duy trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một thành viên trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền tảng nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương xót và sự tha thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra những cuộc vận động tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm lạc mà nếp sống làm tổn tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Mục đích không phải để hoà giải với một anh em như trong Luca 17,3, nhưng là để "chinh phục"người anh em này, để đưa người ấy về với Chúa, đồng thời cũng về với cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi. Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm tiến. Bước 1, nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm lỗi. Bước 2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có 2 hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng dược thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo. Bước 3: nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo Hội: "trình bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội". Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo Hội, thì, theo như bài Phúc âm, "ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế". Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên "bạn bè với những người thu thuế kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc vận động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu nguyện theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu nguyện vẫn tiếp tục cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho người anh em lầm lạc được ơn hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa: "Khi có 2, 3 người tụ họp lại nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình luận: "Vì chính danh thánh Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ thực sự tụ họp lại chỉ để hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ chắc chắn họ sẽ có sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự thực hành việc "sửa lỗi anh em" là một bổn phận của các cộng đoàn tín hữu Ngài nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động "nhân danh" Đức Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận động này".
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB )
Đoạn Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà giải một trường hợp tế nhị trong đời sống các cộng đoàn: "Phải lành gì khi anh em ngươi phạm tội”. Câu trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và trách móc! Đó không phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá nhân của người đó "vấn đề của nó" và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm gặp và trách móc, chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ đến tôi, xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều mình gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau, ta vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn pha mình vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi can thiệp ta phải kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào cho có kết quả. Hơn nữa xã hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn. Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là một hiến chương phần lớn dựa trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá huỷ nó vì người khác và ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống, tư cách của ta. Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa, thường thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị khi nói sau lưng họ...
Đức Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì diên ra chung quanh. Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội... Anh em ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh cửu của anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không làm anh ta phật lòng, không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu giả thiết ta phải có mối liên lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều việc. Trách móc không có nghĩa là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời khuyên của Đức Giêsu kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: "Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đi gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của cuộc vận động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với một mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư mất: nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không phải là lời nói gắt gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch. Đó không phải là từ ngữ hạ nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai tiến hành cuộc vận động ấy cũng phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc ngược lại.
2) Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.
Trong chương 18 mà ta quen gọi là "diễn từ về cộng đoàn các môn đệ", là sự miêu tả một tiến trình hoà giải trong Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó, mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo Hội. Đó là một tiến trình bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng đoàn. “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó..." (Mt 18,15). Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo Hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn - Chính Đức Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó - nhưng không phải vì thế bỏ cuộc: "nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi với ngươi... nếu nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội..." (Mt 18,16-18). Hãy ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng để thoát ra khỏi tình trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối lại đối thoại, nói lên sự thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ cộng đoàn mà quyết định được thi hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự hoà giải thất bại, Phúc âm nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó như người ngoại hoặc như người thu thuế.... Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải lời nói như kết án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác hẳn, dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ "ngoại đạo" chỉ những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng vẫn chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về "những người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong một hệ thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù người Do Thái đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu thuế, dưới ánh sáng của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như "kẻ ngoại đạo và người thu thuế là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với những người, mà vì lý do nào đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong sự bất công và không thể tự mình thoát ra. Họ chưa đón nhận được Tin Mừng của một Thiên Chúa "không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính trong bối cảnh cầu nguyện cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm cốt yếu trong cuộc vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở đây ta gặp lại lời tuyên bố long trọng: "Thật, Ta bảo thật các người, điều gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để nói lên uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu nói thêm: "... Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với nhau" và xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối cảnh như thế, người thi hành tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được thụ hưởng. Trong lịch sử, mô hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách khác nhau mà chúng ta đã phần nào được thừa kế.
5. Suy niệm của Noel Quession
Đức Giêsu bảo các môn đệ:"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình".
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống "cộng đoàn".
“Cộng đoàn" mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những "người thanh khiết các thánh", nhưng những "người tội lỗi". Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng "các Kitô hữu không tốt hơn những người khác", như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người... kể cả Giáo Hội!"Nếu anh em của anh trót phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình...
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những "vị quản giáo mắc khuyết điểm" lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng "buộc tội" và "đè nặng" lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô "tha thứ bảy mươi lần bảy" (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta " yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
"Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó..." “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình ..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình... và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng là người ta đã gọi "bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy... bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8). Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái" một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em:"Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh "thần học". Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình... Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi" mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa "đất” và "trời” có sự tương giao?
Giữa "thời gian" và "vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này... được "cầm buộc" hoặc "tháo gỡ" nơi Thiên Chúa mãi mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời sự nóng bỏng... Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: "Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho"
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa "đất" và "trời".
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không "nhìn thấy" kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như' thế? Đức Giêsu đáp lại "không" với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn - Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả... ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được... "Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời"…
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người. " '
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được" (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
"Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc...". Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.