Ch 14: ĐỪNG YÊU VẬT THAY VÌ YÊU NGƯỜI
Chúng tôi đã có một cộng đoàn nhỏ các chị em tại nước Goa-tê-ma-la. Chúng tôi đến đó trong thời kỳ có cuộc động đất gây nhiều tổn thất năm 1972.
Các nữ tu tại Goa-tê-ma-la cũng yêu thương và phục vụ giống như những nơi khác. Các chị kể cho tôi nghe một câu chuyện thật đẹp về một người rất nghèo. Người ta nhặt được ông ngoài đường phố và đưa đến nhà của chúng tôi. Ông ta rất yếu bệnh, què quặt, đói khát, thê thảm. Nhưng với sự giúp đỡ của mọi người, rồi ông cũng bình phục.
Ông nói với các nữ tu, “Tôi muốn đi và để chiếc gường này lại cho người khác, biết đâu họ cũng cần nó như hồi tôi mới đến.”
Tôi tin bây giờ ông ta đã tìm được một công việc. Tôi chắc ông không kiếm được nhiều tiền, mặc dù có đi làm. Mỗi lần kiếm được một món nho nhỏ, ông nhớ đến những người bạn què còn ở lại trong nhà chúng tôi và trở về thăm họ.
Bao giờ ông cũng mang theo một món gì.
Dù không có gì nhiều, nhưng bao giờ ông cũng đem đến một thứ gì.
Đó là món quà vĩ đại dành cho những người nghèo của chúng tôi: tình yêu của con người.
YÊU NGƯỜI HAY YÊU VẬT
Tôi sẽ kể cho các bạn một tấm gương tốt để minh chứng những người nghèo của chúng tôi quảng đại và cao cả dường nào.
Chúng tôi lượm về một bé trai mồ côi, mẹ em đã qua đời tại Nhà Hấp Hối dành cho người cùng khổ của chúng tôi. Bà xuất thân từ gia đình khá giả, nhưng bị sa sút vì hoàn cảnh khó khăn.
Em trai lớn khôn và ước vọng trở thành linh mục. Người ta hỏi em, “Tại sao em muốn trở thành linh mục?” Em trả lời ngắn gọn, “Em muốn làm cho các trẻ khác những gì Mẹ Tê-rê-xa đã làm cho em. Em muốn yêu thương giống như Mẹ. Em muốn phục vụ giống như Mẹ.”
Bây giờ em trai ấy đã thành một linh mục, dấn thân yêu thương tất cả những người không có của cải, không có thân nhân - không còn được hưởng tình yêu đồng loại, sức ấm áp của một cái vuốt ve, hay ngay cả cái ngọt ngào của một nụ cười.
Ngay lúc này tôi không nhớ hồi đó ở thành phố nào, nhưng nhớ rằng ở đó tôi không gặp được một trẻ em nào trên đường phố. Tôi nhớ các trẻ em lắm lắm. Trong lúc đang đi rảo trên đường, thình lình tôi chợt thấy một chiếc xe nôi. Một thiếu phụ đẩy một chiếc xe nôi, thế là tôi băng qua đường cốt để được ngắm nhìn em bé.
Tôi choáng váng cả người, trong nôi không phải là em bé, mà là một con chó con!
Đã đành cơn đói trong trái tim người thiếu phụ phải được thỏa mãn. Tuy nhiên, thay vì một em bé, bà ấy lại tìm một thứ khác để thay thế. Bà ấy đã tìm một con chó.
Tại nhiều nơi, trẻ em bị bỏ mặc còn thú vật lại được chăm sóc yêu chiều. Thú vật được cung phụng bằng những thức ăn ngon lành và những vật phẩm đặc biệt. Tôi cũng yêu thích chó, nhưng vẫn không thể chịu được khi nhìn thấy con chó đã chiếm mất chỗ của một em bé.
Tôi phải nói cho các bạn biết một điều thật ngạc nhiên đối với tôi và có lẽ cả với các bạn.
Chúng tôi phục vụ từng ngàn từng vạn người rất nghèo khó tại thành phố Can-quít-ta. Như các bạn biết, thành phố ấy có trên 10 triệu dân, nhưng cho đến lúc này, tôi chưa hề nghe nói có một phụ nữ nào trong số những người rất nghèo khó ấy đã từng phá thai.
Tôi không hề biết có một người phụ nữ nào đã từng phá thai.
Tất cả đều sinh con họ ra.
Đôi khi, họ bỏ con mình trong bọc rác, hy vọng có ai đó sẽ chăm sóc cho đứa trẻ. Nhưng tôi biết rằng không một ai đã quyết định giết chết đứa con của lòng họ. Tình yêu người mẹ không bao giờ cho phép họ giết chết đứa con của mình.
CON CÁI NHỮNG NGƯỜI PHONG CÙI
Chúng tôi chăm sóc cho hơn 53.000 bệnh nhân phong cùi. Với sự giúp đỡ của chính phủ Ấn Độ, chúng tôi đang thiết lập các trung tâm phục hồi cho họ.
Như các bạn biết, ngay trong thời Chúa Giê-su, những người phong cùi không được ai chấp nhận. Họ trốn lánh nơi các mồ mả, lảng tránh mọi người, và phải rung chuông khi có ai đến gần để người ta kịp thời tránh xa họ.
Ngày nay, tình yêu Chúa Ki-tô vẫn thúc bách nhiều người đến với những anh chị em cùi. Số người cảm thấy muốn giúp đỡ anh chị em phong cùi ngày càng gia tăng. Và càng ngày càng nhiều người cùi bắt đầu nhận ra có những người yêu thương họ, không nề quản sống gần gũi với họ. Thật hoàn toàn lạ lùng!
Trong các trại cùi của chúng tôi, chúng tôi cũng xây những ngôi nhà cho các trẻ em. Phép lạ Chúa làm là các trẻ do các cha mẹ phong cùi sinh ra lại hoàn toàn sạch sẽ và khỏe mạnh khi mới chào đời.
Trước khi em bé chào đời, chúng tôi thuyết phục cha mẹ đứa trẻ hãy vì tương lai của nó, phải chịu cho con mình ngay, trước khi nuôi dưỡng và ngay cả trước khi hôn hít chúng. Các nữ tu chúng tôi sẽ chăm sóc cho các trẻ tại các nhà liền với trung tâm phục hồi.
Một ngày nọ, tôi nhìn thấy một người mẹ và một người cha đặt đứa con nhỏ nằm ở giữa. Đó là một bé trai mới sinh được ba ngày.
Họ đặt đứa trẻ ở giữa, hai người âu yếm ngắm nhìn đứa bé. Họ giơ tay lên về phía đứa trẻ, và rồi rụt lại. Họ làm những cử chỉ, tỏ vẻ muốn hôn nó, và rồi rụt lại.
Tôi không sao quên được tình thương đậm đà người cha và người mẹ ấy đã dành cho đứa con của họ. Tôi bồng đứa trẻ lên và thấy họ cứ dán mắt dõi theo cho đến khi bóng tôi khuất hẳn. Tôi giơ cao đứa trẻ đưa dúi về phía họ, họ cứ nhìn đứa trẻ mãi không thôi với một vẻ yêu thương thắm thiết cho đến khi không còn nhìn thấy chúng tôi nữa.
Thật là một nỗi buồn đau đớn cho họ! Họ chỉ được phép nhìn đứa con thân yêu, nhưng không được nựng ru vuốt ve nó. Họ rất đau đớn vì phải khước từ đứa con của mình. Nhưng vì yêu thương nó hơn bản thân mình, nên họ đã có được sức mạnh để từ khước nó.
Thật đẹp đẽ biết bao khi nhìn thấy chỉ vì đứa con của mình mà các bậc cha mẹ phong cùi của chúng tôi đã thực hiện một hy sinh lớn lao cốt để chúng khỏi bị lây bệnh và rồi có thể lớn khôn như các đứa trẻ bình thường hạnh phúc khác.
“ĐIỀU ẤY PHẢI CÓ THỂ ĐƯỢC”
Tại thành phố Can-quít-ta, đêm nào chúng tôi cũng gửi lời nhắn đến các trạm xá, các trạm cảnh sát, và các bệnh viện, “Xin đừng giết hại các con trẻ. Tôi sẽ nhận các con trẻ cho.” Vì thế, nhà chúng tôi lúc nào cũng nhung nhúc những trẻ con.
Tại Can-quít-ta, có một câu nói đùa, “Mẹ Tê-rê-xa lúc nào cũng cổ động kế hoạch hóa gia đình, nhưng chắc chắn là Mẹ không chịu áp dụng chút nào. Ngày nào, Mẹ cũng có thêm từng bầy từng lũ con nít!”
Trong các nhà của chúng tôi có rất nhiều đứa trẻ được các người mẹ ngoại hôn sinh ra; mỗi ngày có đến 170 đứa trẻ chào đời. Các bạn thử tưởng tượng coi?
Thế nhưng Thiên Chúa đã thực hiện một phép lạ. Ngay tại Ấn Độ này, mỗi ngày đều có một hai gia đình đến xin nhận con nuôi. Nhiều người từ ngoại quốc đến, nhưng đa số các con trẻ được nhận nuôi ngay tại Ấn Độ.
Có thể các bạn không hiểu phép lạ này, nhưng đối với chúng tôi, những người đang sống và làm việc chung với những anh chị em Ấn Độ, thì đây là một phép lạ vĩ đại nhất có thể xảy ra. Theo hệ thống đẳng cấp xã hội tại đây, các trẻ của tôi, cả chính tôi cũng như mọi nữ tu, đều thuộc thành phần không ai thèm động đến. Vì thế, việc nhận một con trẻ của chúng tôi vào một gia đình họ là điều không thể tin được. Nó đi ngược lại đời sống tôn giáo và văn hóa của quốc gia này.
Tuy nhiên, các cha mẹ Ấn Độ trên thực tế lại cứ nhận nuôi các trẻ của chúng tôi. Theo luật Ấn Giáo, một đứa con nuôi phải có cùng dòng máu với gia đình nhận nuôi mới được.
Điều này không xảy ra tại bất kỳ quốc gia nào khác theo một hệ thống đẳng cấp xã hội như thế, ngoại trừ Ấn Độ. Vì thế, đây là một trong những phép lạ cả thể nhất Thiên Chúa đã thực hiện.
Tôi còn nhớ có lần tôi đã nói với bà In-đi-ra Gan-đi (Indira Gandhi), cựu thủ tướng Ấn Độ, về những điều tôi đang làm cho các trẻ. Bà lắc đầu, “Không, điều ấy không thể nào có được.”
Nhưng tôi đáp lại, “Nhưng thực tế chúng tôi đang làm điều ấy. Điều ấy phải có thể được!”
Chúng tôi có rất nhiều điều để học từ những người nghèo của chúng tôi. Chúng tôi nhận được từ họ nhiều hơn những gì chúng tôi trao ban cho họ.