Headlines
Loading...
Phép lạ Thánh Thể (3)

Phép lạ Thánh Thể (3)


Mình Thánh Chúa dính chặt vào khăn
Ở nước Bỉ có một làng nhỏ được gọi là Ittre, cách Brussels 15 dặm về hướng Nam. Ittre không có tên trên bản đồ. Tất nhiên nó không phải là trung tâm du lịch. Năm 1405, Chúa Giêsu đã chọn nơi này để ban cho chúng ta món quà đặc biệt của chính ngài trong một Phép Lạ Thánh Thể.
Chàng thanh niên Chúa đã chọn để tuôn đổ ơn phúc của chính Ngài trong Phép Lạ Thánh Thể Bois d’Isaac (Rừng của lãnh chúa Isaac) là Gioan Bois (Gioan rừng cây). Chàng là một thanh niên quí tộc và là người thừa kế của lãnh chúa Isaac. Đời chàng thì đủ chuyện: trai gái, ăn chơi hội hè, cỡi ngựa, nhiều sự sang trọng khác của một người thuộc hạng quí tộc, không làm chi cả và lôi thôi đủ điều. Ngày nay ta sẽ liệt anh ta vào hạng truỵ lạc. Đối với ta, tất nhiên đây không phải là người đáng lãnh nhận phép lạ cả thể của Chúa Giêsu. chàng ta không có một đức tính nào, đối với suy luận loài người, cần phải có để đáng lãnh nhận ơn cao cả này. Sự vớt vát duy nhất ta thấy nơi anh là chàng Gioan này cũng có những điểm như Thánh Phanxicô Assisi. Anh đã thừa hưởng một gia sản thiêng liêng của các tổ tiên tức lãnh chúa Isaac, người có mối tương quan đặc biệt với Đức Mẹ; lúc bấy giờ lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn còn chìm lắng.
Vào thế kỷ thứ 11 lãnh chúa Isaac đã bỏ tiền xây dựng một nhà nguyện tôn kính Đức Mẹ. Một tượng Mẹ được đặt trong ngôi nhà nguyện, dưới tước hiệu “Mẹ Ơn Sủng và Niềm An ủi.” Ngôi nhà nguyện đã trở nên Đền Thánh Đức Mẹ cho nhiều người dân địa phương. Nhiều phép lạ và những cuộc lành bệnh đã được nhận như do sự cầu bầu của Đức Mẹ tại đền thánh này. Rồi năm1336, một cơn dịch thảm khốc phát ra, thúc đẩy lòng dân dời tượng Mẹ khỏi căn nhà nguyện. Họ rước kiệu cùng với tượng Mẹ đi khắp cả nước, khẩn xin Mẹ cầu bầu cho họ được nhận lời, cơn dịch đã chấm dứt nhưng tượng Mẹ không trở về ngôi nhà nguyện nữa. Trong 69 năm tiếp đó căn nhà nguyện không được dùng làm đền thánh,  cho đến khi Phép Lạ Thánh Thể xảy ra.
Miêu duệ lãnh chúa Issac tức Gioan Bois không phải là người xấu. Anh vẫn giữ đạo Công Giáo của tổ tiên. Nhưng cũng như những người khác, nhất là hàng quí tộc, chàng chỉ mang danh Công Giáo thôi. Đối với chàng, tinh thần và Đức Tin cũng là quá đủ rồi. Lúc ấy đang mùa xuân, một thời gian tốt để chàng nghĩ đến những vấn đề của con tim hơn là tôn giáo. Vào ngày thứ ba trước Lễ Hiện xuống, khoảng nửa đêm, chàng đang ngủ say trên giường. Ta không đoán được chàng đã mơ thấy gì, nhưng chắc rằng giấc mơ chẳng liên quan gì với những gì sắp xảy ra. Có tiếng nói êm dịu, hùng hồn đánh thức chàng. Khi mở đôi mắt ngái ngủ ra, chàng thấy trước mặt một thanh niên trạc 30 tuổi, mang chiếc áo khoác màu xanh có viền bằng lông chồn. Một làn sáng toát ra và bao quanh người thanh niên ấy. Khuôn mặt người đó xiu xuống. Cặp mắt người đó đăm chiêu nhìn Gioan, khiến chàng tỉnh ngủ mau chóng. Gioan giật mình vì làn sáng và sự hiện diện khó hiểu của người thanh niên trong phòng ngủ của mình.
Gioan hỏi xem người đó cần gì. Trước khi trả lời, người thanh niên mở chiếc áo khoác ra. Thân hình người đó đầy những vết sẹo, vết bầm và thương tích rỉ máu. Gioan muốn ngoảnh mặt đi nhưng mắt chàng không thể rời khỏi hình ảnh đáng thương của thân hình người ấy. Người đó đã bị đánh đập dã man. Một lần nữa đôi mắt người thanh niên xuyên thấu lòng Gioan. Cuối cùng người đó nói:
-Hãy nhìn xem họ bạc đãi tôi như thế nào. Hãy kiếm cho tôi một lang y và một quan toà, người sẽ biện hộ cho tôi.
Gioan hoảng hốt hoang mang. Tâm trí chàng rối bời. Chàng cảm thấy một sự buồn sầu khó tả khi nhìn vào thân mình bị hành hạ quá dã man của người thanh niên ấy. Chàng lắp bắp, xin lỗi vì không thể tìm lang y đến vào giữa lúc đêm khuya như thế. Về việc tìm một quan án hay vị quan chức nào để giúp đưa ra pháp luật những kẽ gian ác, Gioan không thể giúp mặc dầu chàng nhớ mình luôn hãnh diện với người ta vì mình có ảnh hưởng đến những bậc vị vọng. Tuy nhiên, lúc này chàng buộc phải nói lên sự thật về địa vị của mình. Chàng không biết làm cách nào để giúp vị khách không mời mà đến này được công lý bênh vực.
Người khách không tỏ ra dấu gì bất mãn. Ông ấy nói tiếp như chưa hề nghe Gioan trả lời.
-Anh đã có thể tìm thấy một lang y cách dễ dàng nếu anh biết chỗ tìm.
Ông nói tiếp:
-Làm sao tôi lại không bị bao phủ bởi những vết thương? Mỗi ngày họ đều lại gây nên những vết mới. Rồi người thanh niên mở rộng chiếc áo khoác ra và chỉ vào vết thương lớn nhất ở cạnh sườn, bên dưới trái tim. Ngài nói:
-Vết thương này giày vò tôi nhiều nhất.
Gioan không nói lên lời. Chàng tiếp tục nhìn Thanh Niên đang đứng trước mặt mình. Người thanh niên khép áo vào.
-Nếu anh không tìm được thuốc cho tôi, ít là hãy đặt bàn tay anh lên các thương tích để xoa dịu tôi. Hãy làm những gì anh có thể. Tôi sẽ biết ơn anh cho đến khi anh có thể giúp tôi nhiều hơn...và tôi đã tha thứ cho thế gian.
Nói đến đây, người thanh niên biến mất.
Không có sự gì chứng tỏ Gioan đã đặt tay lên những thương tích người thanh niên. Chúng tôi không được biết ngày hôm sau chàng có nói với ai về chuyện này hay không. Chúng tôi chỉ biết chắc rằng tối hôm sau Gioan lại đi ngủ, và lại gặp người thanhniên trẻ tuổi.
Người thanh niên hiện ra với Gioan cùng cách thức như đêm trước. Ngài lại chỉ cho Gioan những vết thương của mình. Ngài tỏ ra phật lòng vì Gioan đã không làm gì để giúp phần chữa trị những vết thương trên mình ngài. Ngài cũng nói với Gioan, “Chẳng lẽ tôi phải nổi cơn thịnh nộ với thế gian bịt tai lại trước những lời rên siết của tôi?” Gioan không đáp lại. Có lẽ vì chàng chưa biết được vì khách ấy là ai, và Ngài muốn nói gì với mình.
Tuy nhiên, ngày hôm sau chàng bắt đầu phản ứng. Anh ta chia sẻ sự việc ấy với những người trong gia đình. Thật đoán được phản ứng của họ. Hầu hết họ gạt câu chuyện ấy đi bằng những lời lẽ cho rằng vì chàng đã ăn chơi nhiều quá, hay đã ăn phải những thứ không hợp tì vị. Họ chẳng tin một lời nào anh nói. Cả chính anh cũng chẳng thâm tín. Nhưng anh ta không thể quên được hình ảnh Người Thanh Niên ấy ám ảnh chàng suốt ngày hôm ấy. Tối hôm đó chàng bảo người em trai cùng ngủ với mình. Chàng cần thêm vài sự chứng thực. Sự việc này có thật sự xảy ra không hay vì chàng là nạn nhân của tâm trí mình.
Đên hôm ấy, Người Thanh Niên lại hiện ra với Gioan. Lần này được phấn khích do sự hiện diện của em trai, Gioan mạnh dạn nói với Bóng Người:
-Nếu tôi gọi anh lang y, tôi phải bảo ông ta đến nơi nào? Tôi không biết Ngài là ai, cư ngụ ở đâu.
Cuối cùng Người Thanh Niên biết mình đã chiếm được lòng Gioan. Ngài trả lời:
-Hãy lấy chìa khoá nhà nguyện và vào đây. Ở đây anh sẽ gặp tôi, và sẽ biết tôi là ai.
Rồi một sự lạ xảy ra. Gioan cảm thấy mình ngất trí. Ngày nay ta gọi là “xuất thần”. Chàng thấy mình lìa khỏi xác, được di chuyển đến nhà nguyện bởi những năng lực bởi trời. sự chú ý của chàng gắn chặt vào Tượng Chịu Nạn của Chúa Cứu Thế treo phía trên bàn thờ. Tượng ấy để lộ hình Chúa Giêsu đầy thương tích, vết thương lớn nhất ở nơi cạnh sườn, bên dưới trái tim. Tượng này rất giống với hình ảnh người Thanh Niên đã ba lần hiện ra với chàng. Cuối cùng, anh ta hiểu ra rằng chính chúa Giêsu đã đến với mình. Lòng chàng được tràn đầy Thánh Thần của Chúa Giêsu, và đã hiểu được tất cả những gì Chúa muốn nói với mình.
Tình trạng xuất thần chấm dứt. Anh ta được đem trở lại giường. Tim anh đập thình thịch. Anh quay sang hỏi xem em trai mình đã thấy gì. Em chàng đang ngủ say. Gioan không chia sẻ được gì về những sự việc đã xảy ra với người em. Chàng đánh thức người em, và sau khi quở trách vì đã không thức để bảo vệ chàng, Gioan chia sẻ với em trai những gì đã xảy ra. Giờ đây tình thế đảo lộn trên Gioan. Chàng thấy mình ở cương vị Người Thanh Niên, cố gắng giải thích cho em mình, đang nửa mơ nửa tỉnh, chẳng hiểu tí gì Gioan đang nói với anh ta.
Suốt đêm hôm ấy tâm hồn Gioan rạo rực. Anh không thể ngủ được nữa. Anh ta không biết ngày hôm sau mình phải làm gì, nhưng chàng biết mình phải làm điều gì đó. Chàng hoàn toàn phó mình cho Chúa trong tất cả những gì ngài muốn về chàng. Chàng đã trở lại và được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Khi Chúa muốn chuyển động thì trái đất và mọi sự trên mặt đất cũng chuyển động. Các sự việc đó bắt đầu thành hình. Mọi thành phần đều nằm vào đúng chỗ. Đêm ấy cha sở, Phêrô Ost, nghe thấy một tiếng gọi thầm kín bên trong. Một giọng phát từ trời nói: “Hỡi Phêrô, sáng mai con hãy đến Nhà Nguyện Bois Isaac và dâng Thánh Lễ tôn kính Thánh Giá”. Ngài không buộc phải dâng Thánh Lễ ban sáng, vì Ngài dự định dâng lễ tại chính thánh đường ngài vào buổi chiều. Hơn nữa, ba ngày trước đây Ngài đã dâng Thánh Lễ tại ngôi nhà nguyện ấy. Vì thế việc này quả là chuyện bất thường. Nhưng Cha Phêrô Ost là con người của đức tin và tuân phục. Sự Ngài không biết rõ đây là việc gì không quan trọng. Ngài cảm thấy Chúa đang nói với mình. Và Ngài đã tuân theo.
Cha Phêrô dậy sớm, và bắt đầu cuộc hành trình vượt qua rừng cây đến Nhà Nguyện Bois Isaac. Đến nơi, Ngài mở cửa nhà nguyện, rung chuông báo cho dân địa phương biết Thánh Lễ sắp được cử hành. Giáo dân lần lượt tiến vào thánh đường. Nhưng người đầu tiên bước vào,  mặc dầu không phải khách lạ đối với dân chúng, nhưng là người xa lạ đối với ngôi thánh đường. Người đó là Gioan Bois, chàng cũng chẳng hiểu vì sao mình lại hiện diện ở đây.
Khi vị Linh Mục bắt đầu dâng bánh rượu, Ngài mở chiếc khăn thánh ra và đặt vào vị trí để dâng hiến. Lúc Ngài cầu nguyện, Ngài thấy một miếng của tấm Bánh Thánh lớn nằm trên tấm khăn thánh mà Ngài đã dùng dâng lễ thứ ba vừa rồi. Hôm đó cũng chính là ngày Chúa Giêsu hiện ra với Gioan lần thứ nhất.
Một luồng sợ hãi xuyên thấu thân mình Ngài. Vị linh mục nghĩ rằng chắc trong Thánh Lễ mình đã làm rớt mụn Bánh Thánh xuống khăn thánh và đã gấp lại sau Thánh Lễ. Ngài tìm cách nhặt Bánh Thánh khỏi tấm khăn thánh. Cha Phêrô định sẽ chịu Mình Thánh sau khi truyền phép. Tuy nhiên, xem như Mình Thánh dính chặt vào khăn thánh, không chịu rời ra. Khi Ngài cố sức kéo ra, Máu tươi từ Bánh Thánh bắt đầu chảy ra nhỏ giọt. Bánh Thánh vẫn không thay đổi hình dạng, vẫn màu trắng,  nhưng Máu Thánh vọt ra chung quanh Mình Thánh.
Vị linh mục cảm thấy đôi chân mình qụy xuống. Ngài thấy sinh lực mình tan biến căn phòng bắt đầu quay cuồng. Ngài vịn bàn thờ để giữ thăng bằng. Gioan thấy sự việc xảy ra và chạy đến bên bàn thờ.
Cha đừng sợ. Phép Lạ này đến từ Thiên Chúa.
Ban đầu vị linh mục nghi ngờ nhìn Gioan; nhưng Ngài thấy trong đôi mắt Gioan một ánh nhìn và một sức mạnh nội tâm phát ra từ chàng. Cha Phêrô lấy tự chủ và tiếp tục dâng Lễ. Ngài gấp chiếc khăn thánh có mang Mình Thánh rỉ máu, và dùng khăn mới dâng Thánh Lễ. Tuy nhiên trong lúc dâng Thánh Lễ Ngài cứ chú ý đến tấm khăn thánh ấy và nhận thấy vết máu càng lúc càng lớn hơn.
Sau Thánh Lễ, Cha Phêrô mở khăn thánh kia ra để xem máu từ Bánh Thánh còn chảy ra không. Bánh Thánh vẫn màu trắng, nổi trên vũng máu. Mọi người dự Lễ đều chứng kiến Phép Lạ.
Vị Linh Mục đau buồn vì nghĩ rằng đó là tại lỗi lầm của mình. Nếu Ngài chịu hết Bánh thánh và không chừa lại mảnh vụn trên khăn thánh khi dâng Lễ 3 ngày trước thì đâu có việc gì xảy ra.
Trong năm ngày Máu Thánh vẫn tiếp tục chảy ra từ Mình Thánh, cho đến thứ Ba sau Lễ Hiện Xuống. Máu không tuôn chảy nhưng từ từ và đều đặn chảy ra. Khi ngừng chảy, Máu thánh chiếm một khoảnh diện tích rộng độ 3 inches và dài 6 inches trên tấm khăn thánh. Trong vòng vài tuần sau, Máu Thánh đã khô hoàn toàn.
Lúc này đây, những vị chức trách giáo quyền địa phương đã hết sức chú ý đến tấm khăn kỳ lạ ấy và mang khỏi Thánh Đường Bois Isac để điều tra. Giám Mục Thành Cambrai, Đức Cha Phêrô Ailly, đã thí nghiệm khăn lễ bằng những cuộc thử nghiệm ghê sợ, trong đó có cả sự ngâm vào rượu, sữa, và kền. Ơn phép lạ của Chúa vẫn đứng vững dưới tất cả những cuộc thí nghiệm này. Sức mạnh đức tin của bao nhiêu người trong nhóm điều tra hay những nhân viên văn phòng toà Giám mục được hồi phục do kết quả của việc Chúa Giêsu đành chịu để chính mình bị ngâm, đâm chọc và ăn mòn trong kền.
Đúng lúc ấy, sự gì đã xảy ta cho anh chàng bê bối Gioan Bois? Chàng trở nên sốt sắng. Trong sáu năm trời, chàng dùng thế lực của một người thuộc hàng quý tộc, xoay trở đủ cách cầu xin Đức Giám Mục trả tấm khăn thánh về Nhà Nguyện Bois. Gia đình và bạn hữu cho rằng chàng lập dị, bị mất trí vì chiếc khăn dính máu này. Đức Giám mục biết rằng mình không thể yên thân cho đến khi làm theo lời Gioan yêu cầu. Ngày 03.05.1411, Đức Giám mục phó đã thánh hiến nhà nguyện để tôn kính Máu Thánh Chúa, tôn kính Đức Mẹ cũng như thánh Gioan Tẩy Giả. Phép Lạ Thánh Thể được trả về nhà nguyện.
Gioan Bois rất hài lòng, nhưng xem ra chàng chẳng bao giờ có thể tha thứ cho mình vì đã không nhạy cảm với Chúa Giêsu trong 2 lần đầu tiên Ngài hiện ra dưới hình Người lần đầu tiên Ngài hiện ra dưới hình Người Thanh Niên. Nhìn lại quá khứ, chàng không thể hiểu được vì sao mình lại không hiểu được đó chính là Chúa Giêsu đang khẩn xin sự giúp đỡ của mình. Gioan tiếp tục làm phiền Giám Mục Ailly, sau này thành Hồng Y. Sau hơn 2 năm bị Gioan nài nỉ, ngày 23.09.1413, Đức Hồng Y mở một cuộc điều tra để công khai xác nhận tính cách xác thực của phép lạ.
Đức Hồng Y gọi mình là một tín hữu đơn sơ, cá nhân Ngài hoàn toàn tin rằng sự can thiệp của Chúa đã làm nên Phép Lạ Thánh Thể tại Bois Isaac. Nhưng Ngài muốn tiến hành theo như Giáo Luật. Vì thế sự thử thách dành cho Chúa Giêsu và Gioan lại được bắt đầu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không cho phép thời gian thử thách quá lâu vì chỉ 17 ngày sau, ngày mồng 10.10.1413, một Tông Chiếu được ban hành, xác nhận tính cách xác thực của Phép Lạ. Đức Hồng Y cũng ban lệnh mỗi năm phải rước kiệu Thánh Thể cùng với sự tôn kính Mẹ Maria đã được ban chuẩn cho Nhà Nguyện trước biến cố phép lạ xảy ra. Từ đó đến nay mỗi năm đều có tổ chức rước kiệu, trừ trong thời gian Cách Mạng Pháp, và có lẽ thời gian Quân Đức Quốc Xã chiếm đóng tại Bỉ.
Phép Lạ Thánh Thể vẫn còn được trưng bày trong thánh đường ở cái thân Ittre bé nhỏ, nước Bỉ. Khách hành hương khắp Âu Châu đến đền thờ này để kính viếng ơn đặc biệt Chúa GiêSu ban cho chúng ta.
Minh Ngọc trích dịch từ cuốn THIS IS MY BODY, THIS IS MY BLOOD của Bob và Penny Lotd. 
Chúa không muốn ngự vào lòng kẻ còn thù hận nhau.
Tại Xứ Bùi Thái, tỉnh Biên Hoà, giáo phận Xuân Lộc, Việt Nam, có một gia đình làm nghề giết và bán thịt chó. Nhiệm vụ của ông chồng là giết chó, còn nhiệm vụ của bà vợ là đem thịt ra chợ bán. Vào quãng năm 1984 bà vợ lâm trọng bệnh. Cha chính xứ Bùi Thái, lúc ấy là Cha Bách, được mời đến để ban các phép cuối cùng và cho chịu Của Ăn đàng. Cha xứ tới ban phép Giải tội và Xức dầu xong, khi trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt thì không thấy Mình Thánh trong hộp đựng Mình Thánh đâu! Ngài tưởng mình quên, nên chỉ khuyên bảo bệnh nhân đôi lời rồi ra về.
Ngày thứ hai, trước khi tới nhà bà ấy, Cha Bách đã nhắc mình nhớ lấy Mình Thánh Chúa. Ở tại nhà kẻ liệt, khi ngài làm các lễ nghi xong, tới lúc mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra, ngài cũng chẳng thấy Mình Thánh đâu. Thật lạï lùng, chẳng hiểu tại sao. Sau đó, ngài cũng lại âm thầm trở về.
Tới lần thứ ba, Cha Bách mới nói với Ông Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ biết hôm trước ngài đem Mình Thánh đến nhà kẻ liệt mà thấy Mình Thánh Chúa biến mất. Lần này ngài xin ông ấy làm chứng ngài đã lên nhà thờ lấy Mình Thánh Chúa để đem tới nhà kẻ liệt. Nhưng kết quả lần thứ ba này cũng như hai lần trước: khi mở hộp Mình Thánh Chúa ra thì cũng chẳng còn Mình Thánh Chúa nữa. Cha Bách và Ông Chủ Tịch trở về đầy kinh ngạc.
Tới lần thứ tư, Cha Bách cùng với ông Chủ Tịch đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt như ba lần trước. Lần này trước khi mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra thì Cha Bách hỏi bệnh nhân:
Đã ba lần tôi đem Mình Thánh cho bà, mà cả ba lần Mình Thánh Chúa đều biến mất. Vậy để lần này Chúa khỏi biến mất đi như trước thì bà xét mình lại xem có điều gì ngăn trở cho được chịu lễ chăng?... Trong những lần xưng tội vừa qua bà có xưng tội nên không? Có giấu tội không?
-Thưa cha con không giấu tội.
- Vậy không hiểu tại sao Mình Thánh Chúa biến đi? Bà nhớ coi, trong gia đình có sự hoà thuận yêu thương nhau không?
- Thưa cha, không có hoà thuận, vì trước đây có mấy lần con đi bán thịt về, bán không được giá, phải bán rẻ, nhưng nhà con không hiểu lại hồ nghi cho con giấu tiền hay làm thế này thế nọ, nên giữa con và chồng con từ đó không tin tưởng và yêu thương nhau nữa!
- Nếu vậy thì bà hãy làm hoà với ông ấy để xứng đáng Chúa ngự vào lòng bà. Chúa không muốn ngự vào những tâm hồn giận ghét nhau.
Cha xứ cho mời ông chồng đến bên giường. Hai vợ chồng làm hoà cùng nhau. Sau đó ngài mở hộp đựng Mình Thánh Chúa ra thì Mình Thánh Chúa vẫn còn. Bệnh nhân đã được Rước lễ, sau đó mấy ngày thì qua đời.
Một người trong cuộc đã thuật lại câu chuyện này trong tuần tĩnh tâm của tổ chức Gia đình Đồng công tại Thủ Đức, Gia Định Việt Nam.
(Tu sĩ Kim Ngân, CMC thuật chuyện) 
Bánh Ăn và Thánh Thể
Năm 70, khi người Do Thái nổi loạn Tướng Titô của Rôma đã đem quân đi chinh phạt. Khi tới Giêrusalem ông biết sẽ gặp sức phản kháng mãnh liệt nên đã nghĩ kế không cần tấn công ngay, chỉ vây hãm thành để trong thành sẽ thiếu lương thực, nạn đói sẽxảy ra lúc đó mới tấn công. Ông đã vây hãm thành từ tháng 3 năm 70. Quả thật đó là thần kế. Khi thấy quân Rôma kéo đến dân chúng đã đổ xô chạy trốn vào thành. Số người quá đông nên chỉ trong vài tháng bị cô lập nạn đói rùng rợn đã xảy ra. Sử gia Josephus đã tả lại nạn đói mỗi một ngày thêm tàn khốc, nhiều gia đình đã chết cả nhà. Trên tầng lầu đầy đàn bà trẻ con ngồi rũ rượi chờ chết. Những thanh niên như những con ma đói lang thang đầy phố chợ và ngã qụy bất cứ lúc nào. Bên vệ đường xác chết nằm ngổn ngang không thể chôn xuể được, hơi bốc lên ngột ngạt. Những người mệt yếu thì không đủ sức, còn một ít người tương đối mạnh khỏe không sao chôn hết xác chết, và chính họ cũng không biết sẽ chết lúc nào. Có nhiều người đã ngã gục trước khi kịp chôn người khác.
Không còn một ngọn rau, ngọn cỏ nào trong thành, người ta nhai cả những miếng da của những chiếc giầy, xăng đan cũ. Nhiều người đói quá phải đến những ống cống những đống phân súc vật để đào bới và rồi ăn cả phân của súc vật, cái mà trước kia họ chỉ nhìn cũng đã ghê tởm bây giờ lại dùng làm đồ ăn. Ghê rợn hơn có bà mẹ đã giết con đem nướng rồi ăn. Thật là một cảnh tượng ghê rợn.
Sau 6 tháng vây hãm, tới tháng 9 năm 70 khi quân Rôma chiếm được thành thì 1 triệu 1 trăm ngàn người đã chết vì đói và gươm giáo- phần lớn vì đói- và chỉ còn 97 ngàn người sống sót bị bắt làm tù binh.
Thực phẩm đi liền với sự sống con người. Khi thiếu người ta phải cố tìm kiếm cho bằng được. Khi nào không tìm được cơm bánh nữa người ta sẽ hết sống.
Dân Do Thái trên đường về đất hứa khi đi trong sa mạc cũng thiếu cơm bánh và họ ca thán Môisen và Aaron. "toàn thể cộng đoàn Israel kêu trách Môsen và Aaron. Phải chi chúng tôi chết bởi tay Yavê trong đất Ai Cập khi còn ngồi bên niêu thịt và được ăn bánh thoả thê! Thật các ông đã đem chúng tôi ra sa mạc này để làm cho chúng tôi cả lũ chết đói ở đây" (Xh.16,2-3). Khi đói thì dân Do Thái đã coi trọng của ăn hơn cả tự do.
Sách Nhị Luật đã hướng tâm hồn dân Do Thái lên cao hơn việc tìm kiếm của ăn phần xác: "Các ngươi hãy nhớ lại các con đường Yavê Thiên Chúa dẫn dắt các ngươi trong sa mạc bốn mươi năm, với dụng ý hạ các người xuống để thử cho biết các ngươi có thật lòng với Người có tuân giữ lệnh truyền của Người hay không. Người đã hạ các ngươi xuống đã để các ngươi phải đói, rồi Người lại cho các ngươi Manna cái ngươi chưa từng biết  và cha ông các ngươi cũng không hay để dậy cho các ngươi biết là người ta không sống nhờ bánh mà thôi, nhưng còn sống bằng mọi điều phát ra từ miệng Yavê." (Đnl 8,2-3).
Con người không chỉ đói về phần xác nhưng còn đói về tinh thần, và cơn đói tinh thần cũng mãnh liệt như cơn đói thể xác. Cơm bánh có thể làm giãn đói thể xác nhưng chỉ có Lới Chúa mớithoả mãn được cơn đói tinh thần. Tiên tri Amos đã tả cảnh tượng người ta tranh nhau đi tìm kiếm Lời Chúa: "Này sẽ đến những ngày ta sẽ sai đói đến trong xứ không phải đói về bánh, không phải khát về nước song là đói khát nghe những lời của Yavê. Chúng sẽ rảo quanh từ Bắc qua Đông để tìm kiếm lời của Yavê." (Am ,11-12).
Chúa Kitô tuyên bố những kẻ đói khát chân lý, đói khát Lời Chúa là hạnh phúc: "Phúc cho những kẻ đói khát chân lý, họ sẽ được no thoả." (Mt 5:6). Những người đói khát chân lý được hạnh phúc vì họ sẽ đi tìm kiếm, họ sẽ nhận biết sự thiếu thốn của mình và khiêm tốn chạy đến với Đấng là nguồn mạch sự công chính để được thánh hoá; còn kẻ kiêu hãnh họ cho mình là đầy đủ không thiếu thốn gì nên sẽ giống nhưng những người Laodicea bị Chúa rủa:  "Người tự bảo ta giàu, ta đã thành phú túc ta chẳng thiếu thốn gì, ngươi không biết ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo nàn, trần trụi" (Kh3,17). Trong lãnh vực thiêng liêng ai thấy mình giàu có đầy đủ người đó là kẻ nghèo nàn, cùng cực.
Chúa Kitô chính là Lời của Thiên Chúa mà tiên trị Amos đã thấy mọi người đi tìm kiếm. Ngài là Bánh để ai đến với Ngài sẽ được no thoả và dư tràn, Ngài đã quả quyết. Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta không bao  giờ khát." (Ga 6, 35). Như bánh cần thiết cho thân xác thể nào thì Thánh Thể cũng cần thiết cho linh hồn như  vậy. Thân xác cần phải có bánh mới sống, linh hồn cần phải có Thánh Thể mới đủ sức đi về quê trời. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng những người mệt mỏi là sức mạnh nâng đỡ những người yếu đuối, là sức nóng sưởi ấm linh hồn lúc giá lạnh, là sự êm dịu an ủi linh hồn lúc chán nản.
Thánh Thể chính là Thiên đàng của các thánh, nơi đây các ngài đã kín múc được nguồn hoan lạc. Nhiều tâm hồn thánh thiện đã chỉ sống bằng bánh Thánh Thể. Người đầu tiên được sử liệu ghi chép đầy đủ là Chân phước Alpais. Chân phước là một thiếu nữ đồng quê chất phát, đã phải làm việc đồng áng giúp đỡ cha. Một thầy dòng khổ tu quen biết chân phước đã viết tiểu sử về chân phước ngay khi ngài còn sống và kể lại Alpais đã mắc bệnh phong cùi nhưng được Đức Mẹ hiện ra chữa khỏi. Sau đó Alpais lại bị mắc bệnh tê bại tay phải nằm liệt giường. Trong một thời gian lâu Alpais không ăn uống gì hết chỉ chịu Lễ để sống. Đức Tổng Giám mục Thành Sens đã cử phái đoàn đến điều tra và đã xác nhận sự kiện. Nhiều phép lạ xảy ra do lời cầu nguyệncủa Alpais và người ta đã xây một nhà thờ nối liền với nhà của Alpais nên ngài có thể nhìn qua cửa sổ để tham dự Thánh Lễ.Alpais qua đời năm 1211.
Thánh Nữ Lidwina ở Hoà Lan khi còn nhỏ trượt tuyết bị ngã gẫy xương sườn. Chứng hoại thư bành trướng từ vết thương rồi lan tràn khắp thân thể làm ngài chịu đau đớn suốt cả đời. Thêm vào những đau đớn bệnh tật, ngài còn được Chúa in những dấu thánh trên mình ngài để thông phần đau khổ với Chúa. Niềm an ủi duy nhất của ngài là được chịu Thánh Thể. Những năm đầu cha giải tội chỉ cho ngài chịu Lễ mỗi năm hai lần nhưng một lần thấy Bánh Thánh chảy máu, cha giải tội biết mình lầm lỡ nên cho Liwina chịu Thánh Thể bất cứ lúc nào ngài muốn. Thánh nữ đã chỉ sống nhờ chịu Mình Thánh Chúa trong suốt 19 năm cho tới lúc ngài qua đời năm 1433. Những lúc bị trì hoãn rước Lễ ngài thấy mệt mỏi, yếu ớt nhưng khi chịu Mình Thánh Chúa xong thì ngài lại khoẻ mạnh và vui tươi.
Gần chúng ta hơn có Chị Têrêxa Neumann ở Tây Đức, người đã được Chúa cho mang dấu thánh, Chị cũng chỉ sống bằng Bánh Thánh Thể trong suốt 36 năm từ năm 1926 đến lúc Chị chết năm 1962. Trong suốt thời gian này Chị không ăn không uống gì ngoài rước Thánh Thể. Bánh Thánh còn nguyên trong Chị hầu như cả ngày. Đến lúc cuối của khoảng thời gian 24 giờ từ lúc rước Lễ Chị cảm thấy mệt lả yếu sức nhưng khi rước Thánh Thể Chị lại được sức mạnh trở lại. Hiện giờ thủ tục phong thánh cho Chị đang được tiến hành.
Thánh Thể là nguồn vui là sức mạnh của các thánh. Thánh Thể cũng là nguồn hy vọng, sức nâng đỡ của chúng ta. Như manna đã nuôi sống dân Do Thái 40 năm trên đường về đất hứa, như bánh Thiên Thần đem đến đã làm cho Êlia đủ sức đi suốt 40 đêm ngày tới Núi Horep, Thánh Thể cũng nuôi dưỡng, ban sức mạnh để chúng ta đi tới quê trời. Những khi cảm thấy mệt mỏi, yếu đuối hãy chạy đến với Thánh Thể chúng ta sẽ được thêm nghị lực. Thánh Thể là nguồn suối mọi ơn thánh, một nguồn mạch không bao giờ vơi cạn, tuỳ mức độ tin tưởng và tha thiết cầu nguyện của chúng ta sẽ lãnh nhận được nhiều ít ơn thánh từ Thánh Thể.
Hết